cho nhà vu a
p hải chấp nhận cung kí nh, tôn trọng, đảnh lễ như
õng hạnh
quả buông xả giải thoát
của người tu sĩ Phật giáo
mà trên đời
này không co ù một vật gì sánh bằng. Vậy c ác bạn
hãy l ắng nghe vua A Xà Thế t hưa
hỏi Phật, rồi
các bạn su y nghiệm:
“Bạch T hế Tôn! Mọi ngươ øi
tro ng the á gian na øy ai ai
cũng có
nghề nghi ệp làm đe
å sống, nghề nghiệp
mang đến cho ho
ï
những kết quả thiết
thực cụ the å
như cơm ăn, áo
mặc, nhà ở
v.v.. Còn k ết
qua û
của những người
tu hành theo Phật
Giáo thì như the á nào? Xi n Đức T hế Tôn trả lời cho biết”.
Vua A Xà Thế là một ngươ øi
rất thông minh và khôn ngoan đáo để, trước khi đưa ra c âu hỏi ve à kết quả của ngư ời
đi tu t heo
Phật gi áo như t
he á nào, (Sa Môn
Qua û
và Sa Mo ân
Hạnh) thì nhà vua đã
đưa ra một số kết qu
ả của
như õng nghe à nghiệp, đem lại
lơ ïi ích t hiết
thực cu ï thể cho mọi
người , c ho xã hội , cho đ ất nước .
Rất khó
cho các tôn
giáo khác khi trả
lời những c âu hỏi hóc bu ùa này.
Những câu hỏi này co ù tính c
ách thư ïc tế bắt buộc
ngươ øi trả lời phải tr ả lời chí nh xác về kết
qu ả lợi íc h, t hiết thư ïc, cụ t he å rõ ràng của c ác
tôn giáo khi
những ai t heo
tu hành. Nhà vua
không chấp nhận
những câu tr ả lời
về kết quả
tu hành mơ hồ, trừu
tượng, viễn
vông, trườn
uốn như con l ươn, v.v.. mà tr ả lời phải
chỉ rõ kết quả thực tế, c ụ t hể, l ợi
íc h, thiết thư ïc ro õ ràng như những
kết quả c ủa
các nghề nghiệp trong t hế gi an.
Phần đông
các he ä
phái tôn gi áo khác đều trả lời quanh quẩn trườn uốn như con lươ n, giống như kiểu tưởng giải của Đại Thư øa và Thiền Tông ngày nay
vậy: “Sắc tức
thị k hông, k hông
tức thị
sắc, hoặc Kiến
tánh thành Phật, Bản lai diện mục hi ện tiền,
tánh thấy, tánh
nghe , ta ùnh biết là Phật tánh,
tất cả chúng
sa nh đều co ù Phật
tánh, Phật là
Tánh Giác và
ta ùnh không”. Tr ả lời như vậy vua
A Xà Thếá
không chấp nhận.
Nếu bây gi ờ các hệ phái Phật gi áo phát triển Đại Thừa và
Thiền Tông được hỏi
như vậy và tr ả lời những câu
như: “C hẳng niệm
thi ện ni ệm ác, bản
lai diện mục hiện
tie àn” hoặc “Kiến
ta ùnh thành Phật v.v..”,
“Ba cân gai”,
“cha úng
biết...” ho ặc
“đưa một ngón ta y...”.
Trả lơ øi
như vậy có thực tế, lợi íc h, thiết thư ïc, cụ thể, rõ ràng
không c ác bạn?
Lại nữa nếu Tị nh
Độ Tông trả lời: “Tha át nhật
nhất tâm bất loạn danh hiệu
A Di Đà thì được vãng sa nh C ực Lạc Tây
Phương”, với
câu tr ả
lơ øi này có lợi íc h,
thiết t hực, cụ thể ro õ ràng không các bạn?
Trước khi nghe
đức Phật trả lời những
câu hỏi của vua
A Xà Thế.
Xin c ác bạn
hãy đọc l ại đoạn ki nh này một lần nữa rồi suy nghiệm “Bạch Thế Tôn,
cũng như ca ùc
công nghệ chức nghiệp : như điều
tượng sư, điều
mã sư, xa thuật
sư, cung thua ät sư, mã
kỵ binh, nguyên soái, chie án sĩ,
thượng sĩ quan, thám tử, dũng sĩ
can đảm như
voi chúa , anh
hùng, trang giáp bi nh,
nô lệ xuất
thân, hỏa đầu
quân, thợ hớt tóc,
người hầu tắm,
thợ làm bánh, nhà làm vòng hoa, thợ giặt,
thợ dệt, nhà làm thúng rổ, thợ đồ go
ám, nhà
toán số, nhà ấn
bản, các công
nghiệp , chức nghiệp
k hác, chúng hưởng được kết quả
thie át thực hiện tại
công nghie äp chức
nghi ệp của chúng. Chúng
giúp cho tự tha
ân đươ ïc sống a
n lạc hạnh p húc,
chúng giúp cho
cha mẹ được sống
an lạc hạnh
phúc. Chúng gi úp
cho vợ con được sống an la ïc hạnh
phúc. Chúng gi úp cho bè bạn
được sống an lạc hạnh
phúc. Chúng dâng các vật cúng dường cho Sa Mo ân, Bà La
Môn sự cúng dường này có
ảnh hưởng đến đời sau liện hệ đến thiên
giới , thọ hưởng phước báu an lạc, thác
sa nh vào cõi
trời .
Bạch T hế
Tôn, T hế Tôn co
ù
thể cho biết kết
quả thiết thực, hiện tại của hạnh Sa Môn chăng?”.
Nhơ ø
có câu hỏi của vua A Xà Thế mà đời sau chúng t a mới
có những bài học về giới luật , gi ới đức, giới hạnh và giơ ùi hành rất là t uyệt vời. Công
ơn của người hỏi ấy làm
sao chúng ta quên
được . Phải không các bạn?
Nhất l à
câu tr ả lời của đức Phật đối
đáp không t hua kém câu hỏi c ủa vua A Xà Thế. Những câu trả lời ấy lại còn hơ n t hế nữa,
vừa nêu lên đức hạnh buông xả của một bậc
Thánh giải t hoát trần tục, vừa làm
một cuộc cách mạng
giai c ấp của đ ất nước Ấn độ lúc bấy giờ.
Những c âu tr ả lời ấy co
ù tính t huyết phu ïc cao bắt
buộc nhà vu a phải
chấp nhận c uộc các h mạng vô gi ai cấp
đó.
Cuộc vấn đáp
của vua A Xà Thế vàø đức
Phật đã làm sáng tỏ cuộc
cách mạng bốn gi
ai cấp
của đất nước Ấn Độ lúc bấy
giơ ø. Nhà vua đại diện cho tư tưởng giai cấp lãnh
đạo nhân dân,
còn đức Phật đại diện
cho t ư tưởng bì nh đẳng vô
giai c ấp của nhân dân.
Cho nên cuộc vấn đ áp
càng l úc càng làm
sáng tỏ nền đạo đức
nhân bản - nhân quả của co n người .
Nước Ấn Độ lúc
bấy giờ chi a ra làm bốn giai
cấp:
1. Tư tươ ûng gi ai c ấp t hống trị
do Dòng Sát
Đế Lị tức là dòng vua c húa t huộc về vươ ng p háp.
2. Tư tưởng giai cấp lãnh
đạo tinh thần dòng Bà Là Môn thuộc về pháp vương.
3. Tư tươ ûng gi ai cấp công nhân, t hợ thu yền,
thươ ng mãi và nông d ân giai cấp bị trị
.
4. Tư tưởng gi ai
cấp C hiên Đ à
La là t ư tưởng gi ai cấp cùng đinh,
làm nô lệ, tôi tớ, tay sai cho
người khác.
Câu trả lời
của đức Phật rất khéo léo, trả lời bằng c âu hỏi tr ở lại để tư ï nhà vu a phải c hấp nhận sự bình
đẳng vô gi ai cấp của con ngươ øi.
Như õng đoạn
kinh này đ ã xác định
c ho các bạn t hấy rõ Phật
gi áo l à một
tôn giáo nhân bản,
luôn luôn nâng
cao giá trị
bình đẳng của mọi
người sống trên hành ti nh
này như nhau, dù mầu
da, t hứ tóc và tiếng nói có
khác nhau , như ng đều có quyền sống bì
nh đẳng như nhau .
Như õng câu
trả lời
này l à lối trả lời bắt buộc người
khác phải c hấp nhận
mà không thể từ c hối được. Do vậy
, chúng ta hãy lắng nghe
những câu trả lời của đức Phật: “Này Đại Vươ ng có
the å
được.
Ta se õ
ho ûi Đại Vương về vấn đe à
na øy. Đại Vương hãy
trả l ời tùy
theo ý muốn của Đại
Vươ ng”.
Khởi đầu
cho câu trả l ời bằng cách
rào đón trước sau qu á
chặt chẽ khiến
nhà vua không
t he å ngờ đư ợc.
Được
nghe câu
hỏi của vu a A
Xà Thế và c âu trả lời c ủa đư ùc
Phật mở đầu
cho một c uộc
các h mạng tư tưởng
văn ho á tốt đẹp, phá vỡ hàng
rào giai c ấp của
dân tộc Ấn Độ lúc bấy giờ:
“Đại Vương nghĩ sao?
Nếu Đại Vương
có một người no â bộc, dậy sớm, thức k
huya thi ha ønh mọi mệnh lệnh của Đại Vương
làm đe ïp lòng mọi
người, l ời no ùi
kính ái , chú ý từng nét mặt
của Đại Vương... sau
một thời gian làm
nô lệ, người nô bộc ấy muo án đi tu ne ân cạo bo û râu
tóc, khoác áo
cà sa từ bỏ gia
đình, so áng không gia đình xua át
gia tu hành,
sa u k hi xuất gia
như vậy, người
ấy sống che á ngự
thân, sống chế ngự lời
nói, sống chế ngự ý
nghĩ, bằng
lòng với nhu cầu tối
thiểu, về ăn
uoná
g y a ùo hoa
n hỉ sống a n tị nh.
Khi Đại Vương
biết rõ người
nô bo äc của
mình xuất
gia tu hành
như vậy thì Đại
Vương co ù
gọi người ấy đến với Đại Vương, hãy làm lại người nô bộc, làm mọi
công việc, thức k huya dậy sớm,
thi hành mọi me änh le änh của Đại Vương,
làm đẹp lo øng
mo ïi người, l ời nói kí nh ái, chú
ý từng nét mặt”.
Xét qua
câu trả lời bằng câu hỏi của đức
Phật, t hì chúng t a thấy rằng đức Phật
l à một co n người tuyệt vơ øi, đư
ùng trước uy quyền
của nhà vu a Ngài đã
dám đe m người
nô bộc của
nhà vua r a hỏi, để
xác đị nh kết quả giải t hoát cụ thể
thư ïc te á của một vi
tu sĩ
Phật giáo, luôn
luôn được mọi người
cung kí nh, tôn trọng những
gi ới đức , gi ới hạnh, giới hành
một các h thiết thực cụ thể đã xác định
đư ợc sư ï gi
ải t hoát không có t hời gian, đến đe å mà
thấy..., khiến c ho nhà vu a phải
c hấp nhận và tỏ lòng cung kí nh, tôn trọng
người t u sĩ Phật giáo, dù người đó l à nô bộc
của mì nh.
Như vậy
rõ r àng là kết qu ả
việc làm cu ûa người tu sĩ Phật giáo là sống đúng giới
luật , t ức l à phải sống chế ngự t hân,
sống chế ngự lời nói , sống
c hế ngự ý, sống
bằng
lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo và ho an hỉ sống
an tị nh.
Người
nô bộc
t hực hiện được những
giới lu ật trên đây không
những mọi người
mà cả nhà vu
a cũng đều phải
cu ng kính, tôn trọng,
lu ùc nào ho ï cũng vui lòng le ã
bái. Tại sao vậy?
Như õng hành động sống
đúng Phạm hạnh như
trên đ ức Phật đã dạy
thì không phải ai cũng làm
đư ợc, c hỉ có
những người quyết
tâm tì m đường thoát khổ ra khỏi mọi sư ï đau khổ của cuộc
đời thì mới đủ gan
dạ sống
như vậy để đạt đư ợc
mục đíc h cao t hượng mà người đời t
hường gọi l à bậc
Thánh A La Hán hay l à Phật.
Ngư ời nô bộc t huộc
gi ai cấp hạ liệt cùng đinh
của xã hội Ấn Độ.
Lúc bấy giờ
giai c ấp này được mọi
ngư ời dân Ấn Độ ở những giai cấp khác đều
khi nh thươ øng, xem rẻ
. C hính bản t hân
của những người giai c ấp này, họ
cũng xem thươ øng họ. Họ biết t hân p hận cu ûa họ si nh ra và lớn lên trong
giai cấp cùng
đinh, hạ liệt
này, nên khi gặp
những người ở
giai c ấp khác
thì họ đều
phải tránh đường; phải
quỳ mọp sát đất
, không dám nhì n mặt những ngươ øi ở giai c ấp khác .
Đặc biệt
nhất ở đo ạn
bài p háp này
là đức Phật không
nói đến thần t
hông mà
chỉ nói đến giới
luật đức hạnh của người
tu sĩ Phật
giáo thật là tuyệt
vời , khiến cho nhà vu
a phải chấp nhận mà không có một ý kiến c hống trái lại
những điều đức Phật đã nêu lên.
Đúng vậy, Chỉ
có đức hạnh mới phá vỡ
hàng rào giai cấp
muôn đời của
loài người; chỉ
có đức hạnh mới
phá vỡ thế giới siêu
hì nh ảo tưởng
mà đã ăn sâu
vào tư tưởng
cu ûa loài người
t hành một dấu ấn muôn đời muôn
kiếp; c hỉ có đức hạnh mới đem lại sự hạnh p húc
an vui cho loài người
trên hành tinh này vậy.
Bài p háp
này đư ợc xem
là một bài
tuyên ngôn cách mạng tư tưởng giai cấp
của nư ớc Ấn Đo ä cách đ ây 2555
năm. Phải nói rằng trong gi ai đoạn ở
thế kỷ này,
bài ki nh của Phật là một tiếng
sét đánh t hức những
giai c ấp t hống
trị một các h thẳng
thắn, không nhân
như ợng. Vì thế ,
nó co ù một gi á trị lịch sử
làm t hay đổi tư tưởng giai c ấp Ấn
Độ rất lớn.
Ngươ øi đứng ra c hủ
tr ương cuộc cách mạng này không ai khác hơn là đức
Phật, l à một thái tử sắp thay
vua cha làm
vua. Một ông vua trong hàng ngũ
giai c ấp thống trị lại đứng r a làm cuộc các h mạng san bằng giai cấp xã hội thật là tuyệt vời, còn ai dám chống lại.
Phải không các
bạn?
Vua A Xà Thế
đại diện c ho giai cấp sát đế lị (thống
trị) phải chấp nhận những Phạm hạnh gi ới
luật của
ngươ øi tu sĩ Phật giáo
thật là tu yệt
vời , một đức hạnh
giải t hoát cao t
hượng mà cũng không phải ai cũng làm được . Vì thế, nhà Vua tr ả lời: “Bạch The á
Tôn, chúng co n không
thể xe m
họ là
nô bộc được nữa. Trái
la ïi chúng co n phải kính lễ những người ấy, đứng dậy
trước người ấy, mời người ấy ngồi x uống
ghế, cúng dường người ấy các dụng cụ
như y áo, đồ ăn khất
thực, sàng toạ,
thuốc me n trị bệnh va ø chúng
co n se õ
ra lệnh để bảo vệ
che chở những người a áy
đúng theo p háp luật”.
Thư a
các bạn! Tại sao nhà vua l ại c hấp nhận phải cu ng kính, tôn trọng một
giai cấp cu øng
đinh hạ liệt trong xã hội của mì nh như
vậy?
Giới đức, giới
hạnh, giới hành, đươ ïc đức Phật
nêu r a
một đơ øi sống
Phạm hạnh cu ûa
một tu sĩ Phật
gi áo như vậy
thì trong cuộc đời
này không phải ai
cũng làm và sống được
như trên đã nói
. Khi nào các bạn
có thư ïc hành sống đúng
những giới lu ật này
thì các bạn mới thấy vô
vàn khó, như ng không
khó với những
người có ý c
hí, co ù quyết t âm
tho át ra cuộc đời đầy ô trược và ác
pháp.
Vua A
Xà Thế l à
người t hông mi nh
sáng suốt nghe qua những giới lu ật đức hạnh
buông xả ấy. Người biết
rằng đó là những Thánh
hạnh, người p hàm phu không t hể sống và làm được, nên Người phải chấp nhận ngay liền và nói lên những lời cung
kí nh tôn trọng
những con người
sống được những đức hạnh như vậy. Sống
được những đức hạnh như vậy tức
họ l à như õng bậc Thánh, chư ù
không còn là những ngư ời
p hàm phu trong
gi ai cấp hạ liệt nữa.
Đọc bài ki nh
này c húng t a t hấy đạo Phật l à
một tôn
giáo chân thật
không l ừa đảo , lường
gạt người khác bằng t
hần t hông, ảo t ưởng, bằng
bùa ngải, c hú thu ật, bằng
mê tín cúng te á, c ầu an, cầu
siêu, bằng t
hiền đị nh ức chế t âm,
bằng ảo t ưởng Phật
tánh, bằng lí luận
t ánh không, bằng t
ưởng giải bản lai diện
mục hie än tiền
v.v.. Người tu sĩ
Phật giáo c hỉ sống bằng Phạm hạnh, thiểu dục
tri túc, ba y một bát , sống
không nhà cư ûa, không gi a đình, biết tỉnh t hức t ừng t hân hành, khẩu hành,
ý hành, biết ly dục ly
ác pháp và biết xả
tâm diệt ngã. Thế
mà l àm chu û
được bốn sự
đau khổ của kiếp ngư ời: sanh, gi à, bệnh, chết . Thật
tuyệt vời!
Thư a
các bạn!
Các bạn đã về tu viện Chơ n Như
tu t ập một thời gi an
phải chấp nhận sống
đúng những giới
luật này, nhưng
các bạn có sống đúng
những gi ới luật
này chưa? Những
giới lu ật này không phải là một việc dễ
làm, dễ sống. Phải không các bạn?
Trong đoạn
kinh này gồm có c hí n giơ ùi dạy ro õ đức và hạnh như sau :
1/ Giơ ùi t
hứ nhất: Cạo bỏ râu tóc.
2/ Giơ ùi t
hứ hai: Đắp áo cà sa.
3/ Giơ ùi t
hứ ba: Từ bỏ gia đình.
4/ Giơ ùi t
hứ tư : Sống không nhà.
5/ Giơ ùi t
hứ năm: Sống c hế ngự thân.
6/ Giơ ùi t
hứ sáu: Sống chế ngư ï lời nói.
7/ Giơ ùi t
hứ bảy: Sống c hế ngự ý nghĩ.
8/ Giới thư
ù tám: Sống bằng lòng
với nhu c ầu tối thiểu về ăn uống, y áo.
9/ Giới t hứ
c hín: Hoan hỉ sống an tị nh tro ng đời sống Phạm hạnh.
Xét qua c
hín giới
này: giơ ùi đức, giới hạnh và giới hành. Vậy giới đức, gi ới hạnh và giơ
ùi hành là những hành động đạo đức
như thế nào
mà khiến cho vua
A Xà Thế p
hải c ung kính và
tôn trọng như vậy?
Xin các bạn lưu
ý chúng tôi sẽ cố gắng gi ải thích
để các bạn hiểu rõ về Phạm hạnh giới
lu ật của đức Phật , nó có một gi
á trị về đời sống Thánh hạnh mà người
phàm phu không t hể
nào sống và làm được.
VĂN
HĨ A G IỚI ĐỨC THÁ
NH TĂ NG ,
THÁN H NI
THỨ NH ẤT :
CÄO BĨ RÅU TỊC
Kính thư a các
bạn! Bây giơ ø
chúng ta bắt đầu bư ớc vào
khu r ừng giới luật đức
hạnh của co n người nói chu ng,
của như õng tu
sĩ Phật gi áo
nói riêng, những bông
ho a đạo đức muôn mầu muôn sắc
mang l ại vẻ đẹp cho đời càng t ươi t hắm t hêm.
“C ẠO BỎ R
ÂU TÓC ” là một hành động đạo đức làm Thánh, nó không phân biệt giai cấp
nào trong xã hội , có tôn gi áo hay
không tôn gi áo. Mọi người sống c
hung nhau trên
hành tinh này, nếu muốn
l àm Thánh đều cần p hải
học và sống
đúng đức hạnh này. Bởi vì, chỉ có
Thánh mới biết t
ất cả các pháp
thế gi an là ảo tưởng,
không có một vật
thật có, chỉ do
duyên hợp tạo
thành nên m ới buông
bỏ sạch bằng
hình tươ ùng “CẠO
BỎ RÂU TÓC ” để tượng trưng
cho sự t hoát
ly mọi sự kho
å
đau.
Đây là một giơ ùi
luật dạy về đức hạnh
tro ng những đức hạnh
làm Thánh mà
các bạn c ần phải học
hiểu và sống
đúng những đức hạnh này đe
å không làm khổ mình, khổ người và khổ cả
hai. Co ù như vậy,
các bạn mới xư
ùng đ áng là
ngươ øi đệ tư û
của Phật,
mới xứng đáng l
àm gương
hạnh sống đạo đức
cho mọi người,
mới biến cuộc sống trên hành
ti nh này trơ û
thành cõi C ực
Lạc, Thiên Đàng.
GIỚI ĐỨC
BUƠNG XÂ TRỈN CÇU
“CẠO BỎ R
ÂU TÓC ” là một gi ới
đức buông xả trần cấu, giu
ùp cho người tu hành thoát ra khỏi tâm c hấp
ngã, ham t hích
tr ang điểm l àm đẹp.
Nhơ ø
t hế, c ác bạn mới
thoát ra khỏi qui lu
ật của nhân quả.
Bởi vì, “C ẠO
BỎ R ÂU TÓC ”
là một hành động thay đổi tướng
tham dục, tướng t hế t ục tham đắm để trở thành
t ướng buông xả.
Nếu người mang tươ ùng
buông xả mà còn t ham đ ắm co ù nhiều của cải tài sản, xe cộ, chùa to, Phật lớn, vật chất đầy đủ, ăn uống phi t
hời t hì
người t hế gian sẽ
kết án, khinh c hê
và không còn
quý trọng, cung kính, họ
xem những người
tu sĩ này
là Ma Vương đang ra t ay diệt Phật
Gi áo.
“C ẠO BỎ
RÂU TÓC ” là một giới
đư ùc xa lìa trần
cấu , người tu sĩ Phật giáo
biết lấy giới đức
cạo bỏ râu tóc, làm p hươ ng tiện tiến bước
vào cửa đạo để “XẢ THÂN C
ẦU Đ ẠO”, thì con đường đạo ngày
t hêm tươi sáng
hơn. Bởi vì hì
nh tướng
c ạo bỏ râu tóc
là hì nh tươ ùng
buông xả c uộc
đời trần cấu ô trươ ïc thế gian.
Đúng vậy,
đây là cách
thức buông xả trần
cấu về thân đầu tiên cho người mới vào đạo, nếu không buông xả trần cấu t hân tâm t hì không bao giờ
tì m thấy sự giải
tho át thật sư ï.
C ho nên, gi ới đức buông xả tr ần
cấu “CẠO
BỎ RÂU TÓC ”, là một đức hạnh của người
tu sĩ Phật
gi áo. C hỉ có Phật
giáo mới có đức hạnh xả thân cầu đạo này, còn t ất cả các
tôn gi áo khác
trên hành tinh đều
không bao gi ờ có đức hạnh này cả.
Vậy mà,
nhì n chu ng đức hạnh xa lìa
trần cấu này trong
các chùa lại
có một số
ngươ øi lợi dụng hì nh tướng đư
ùc hạnh này để kinh doanh làm ra của c ải t ài sản, làm giàu.
GIỚI HÄNH XA
LÌA TRỈN CÇU
“GIỚI HẠNH
XA LÌ A TR ẦN
CẤU ” này thuộc về
giơ ùi hạnh buông
xả hình sắc
tướng mạo t he á gian.
Cho nên như õng
vị tu sĩ Phật gi áo
nào chấp nhận giới
này thì mới trở thành
ngươ øi tu sĩ Phật giáo, còn không c hấp giới hạnh này thì không the å nào t hành Thánh Tăng, Thánh
Ni được. Cho nên Tăng đều p
hải cạo
bỏ r âu tóc , còn
Ni chỉ cạo bo û tóc
mà thôi . Nếu không
giữ gìn hạnh cạo bỏ râu
tóc này
t hì chỉ là một cư sĩ , dù
đã giữ gì n tất c ả các giới luật khác nghiêm chỉ nh.
Hình
dáng Thánh Tăng,
Thánh Ni là hình
dáng buông
xả, “Xả thân cầu đạo”.
Đó là cạo bo û
râu tóc .
Cạo bỏ râu
tóc là một
hình d áng của những bậc Thánh buông xả trần c ấu uế trược.
Người đời
mê muội không
biết ý nghĩa
sâu xa của gi ới
hạnh “CẠO BỎ R
ÂU TÓC ”, buông
xả thân để mưu cầu sự giải thoát ; để ra khỏi cuộc đời đầy
khổ đau và cay đắng.
Một sự sai lầm rất lớn
do vô mi nh không hiểu
nghĩa giớ i hạnh “C ẠO
BO Û RÂU TÓ C”, nên du
øng tướng mạo cạo bỏ
râu tóc của Phạm hạnh để
lừa đ ảo, lươ øng gạt người khác , thật là tội nghiệp cho những ai đã làm tội lỗi này mà không biết;
để làm danh, làm lợi cho cá nhân; để hưởng
dục l ạc đầy đu û
như người thế gi an, t hậm
chí có
ngươ øi biến Phật
giáo thành nghề
nghiệp sống: nghề nghiệp t huyết giảng, nghề nghiệp tụng niệm
cầu siêu, cầu
an. C hính nghề
nghiệp tụng niệm c ầu
siêu , cầu an là nghề mê tí
n lường
gạt người . Nghề t huyết giảng l à nghề
nói dối. Đối với Phật giáo ,
hai nghề
nghiệp này là nghề làm
sai . Khi tu hành chưa xong đừng vì người t hu yết gi ảng là không
đúng, l à sai,
chỉ khi nào tu c hứng mới dạy
người tu, còn dạy người
tu mà mì nh
t u chư a chứng là nói dối. Người
nói được mà c
hưa làm được, đó là người nói dối. Nói dối xấu lắm các bạn ạ! Các
bạn giảng sư có biết không?
Lại cũng
có những người
mượn hình sắc cạo
bỏ râu tóc biến
Phật gi áo trở t hành một cái
nghe à mê tín như trên
đã nói cu ùng
bái, tu ïng niệm,
cầu
siêu, cầu
an, đốt tiền vàng
mã, xem sao , bói quẻ, coi ngày giờ tốt xấu v.v.. Một cái nghề
lường gạt người . Hành một cái
nghề l ừa đ ảo để sống
như vậy các bạn
có biết đó là một việc tội lỗi không? Tội
nặng lắm c ác bạn ạ! C
ác bạn
ấy t hật đ áng thươ ng! Thật đáng t hươ ng!!!
Như õng người
c ạo bỏ râu tóc không lo tu hành để tìm sự
giải thoát cho
mình mà lại lấy hình tướng
c ạo bỏ r âu
tóc l àm nghề
nói dối và làm
nghề mê t ín. Trước
mặt mọi người họ gọi c ác
bạn bằng Thầy, nhưng
các bạn có thấy mình
xứng đáng là Thầy của người
khác c hưa? Các bạn co ù sống
hơn họ chu ùt
nào đâu mà
làm t hầy cu ûa
họ. Phải không các bạn?
Một bậc
làm Thầy Trơ øi,
Người đâu phải
de ã các bạn ạ!
Các bạn nên
xét lại: Phạm hạnh của bậc
Thầy Trời , Người các bạn có sống
được c hưa?
Ăn uống,
ngu û
nghỉ phi thời, y
áo sang cả, mặc
to àn vải đắt tiền.
Vả l ại c ác bạn còn ở
trong chùa to Phật lơ ùn, giường rộng nệm êm. Cuộc sống như
vậy các bạn thấy sao? Hình dáng,
tướng mạo, cách sống của
các bạn có xứng đáng
làm Thầy Trời, Người
được chư a? Trước mặt
các bạn họ gọi
là Thầy,
như ng sau l ưng các bạn họ
chê bai đu û điều, các bạn có biết không?
“Xoài cà lăm
nhỏ trái mà
chua
Thầy tu mê
gái bỏ chùa k hông ai coi”
Hoặc:
“ T hầy chu øa ăn
vụng cá k ho
Bà vãi bắt được
đánh mo l ên đầu
”
Họ chê những điều
các bạn đã vi
phạm giới luật. Các bạn
đư øng tưởng họ không
biết giới luật . Họ
chê các bạn phạm giới
như vậy là c
hê r ất đúng c ác bạn ạ!.
Thà các bạn đừng
đi tu mà
đã đi tu tức là cạo
bỏ râu tóc mà ở c hùa sang đẹp như cu
ng vàng điện ngọc , y áo thì c hải
c huốt bằng vải đắt tiền, thứ hàng nhập hàng ngoại v.v.. Ăn uống ngu û
nghỉ phi thời, xe m ca hát
và ca hát như
ngươ øi thế tục thì còn gì l à Phật gi áo nữa c ác bạn?
Ngay tư ø
giơ ùi đầu tiên
“C ẠO BỎ RÂ U
TÓC ” mà qu ý Thầy còn vi phạm tan nát t hì c ác giơ ùi lu ật khác làm sao quý Thầy không vi phạm.
Thư a
các bạn!
Giơ ùi hạnh Sa
Môn đ ầu tiên mà
các bạn đã so
áng không đúng,
đã vi phạm t hì tất cả hạnh Sa Môn qu ả làm sao các bạn có được? Nếu hạnh Sa Môn
quả không có được t hì làm
sao các bạn xứng đáng là ngươ øi tu sĩ của Phật (Thánh Tăng, Thánh
Ni). Có đúng
như vậy không
các bạn?
Bởi vì hạnh
Sa Môn ở đâu thì quả Sa Môn ơ û đấy, đúng
như trong kinh Sa
Môn Quả mà đức
Phật đã dạy: “- Bạch T hế Tôn: chúng co
n dám đâu xem ho ï
là người nô bộc nữa,
trái lại chúng co n kính lễ
người ấy, đứng dậy trước người ấy, mời người ấy ngồi x uống ghế, cúng dường người ấy
các dụng cụ
như: y áo đồ ăn khất
thực, sa øng toạ
thuốc men trị bệnh va ø chúng
con se õ
ra lệnh để bảo ve ä,
che chở
người ấy
đúng theo l uật p háp” . Chỉ vì các bạn
đã lìa hạnh
Sa Môn nên đã
làm mất giá trị của một người tu sĩ Phật giáo. C ác
bạn c hỉ còn là một hình thức cạo bỏ
râu tóc đắp
áo c à sa
mà thôi . Thật là
đau xót cho Phật giáo
“co ù
tiếng cha úng có mi ếng”.
Những lời của vua A
X à Thế tuyên
bố trên đây l à
đã xác đị nh
cụ thể rõ
ràng: Do kết qu
ả sống đúng Sa Môn hạnh hay là kết quả của nhóm giới luật t
hứ nhất
mà người tu
sĩ Phật giáo cần
phải giữ
gìn nghiêm tu ùc...
Nhờ đó mà mọi ngư ời cung kính, tôn trọng, qu ý mến v.v..
Do giới hạnh
và kết qu ả đi đôi với nhau
như vậy, nên đức Phật dạy: “pha
ùp Ta không co ù
thời gian đến để ma ø
thấy...”. Hạnh ở
dâu là qu ả ơ
û đó, hạnh làm
cho kết quả ly dục ly
ác pháp hiện tiền
cụ t hể, mà kết quả
ly dục ly
ác pháp hiện
tiền cụ thể
ơ û
đâu t hì đức hạnh phải được gắn
liền với nó ở đó.
Hạnh và quảû không
t hể c hia l àm
hai pháp. Vì thế đức Phật d
ạy: “Giới lua ät
ở đâu thì tri kiến
ở đó. Tri kiến
ở đâu thì giới
l uật ở đó. Giới
lua ät làm thanh tị nh
tri kiến, tri kiến làm tha nh tị
nh giới luật”.
Tóm l ại, giới
t hứ nhất: cạo bỏ râu tóc là giới
tướng của người
tu sĩ Phật
gi áo, t hể hiện
rõ nét buông xả. Xả t hân
cầu đạo . Nhất l à lời nói
này được nhắc đi nhắc lại mãi để khuyên răn ngư ời tu sĩ Phật
giáo chơ ù có buông
lung chạy theo dục lạc thế
gian làm hư ho ại đư ùc
hạnh thanh tị nh
t hân tâm của mì nh và còn làm suy đồi Phật giáo, tội ấy rất nặng các bạn
ạ!.
Sống phải
giư õ
gì n sắc tướng của
người t u sĩ Phật gi áo, đư øng
làm ô uế
sắc tướng ấy.
Làm ô ue á sắc tươ ùng ấy là làm
ô ue á
Phật giáo , đấy
các bạn ạ!
Ví dụ 1:
Hình dáng c ạo bỏ râu tóc đắp áo cà
sa mà các bạn vào quán lều bên vệ đường ngồi ăn uống như
người t hế tục
thì còn gì l à oai
nghi te á hạnh giới hạnh cạo bỏ r âu
tóc . Phải không c
ác bạn? Hay các bạn vào tiệm ăn hoặc nhà
hàng khác h sạn ăn uống ngủ nghỉ như
ngư ời t hế t ục t hì Phạm hạnh cạo
bỏ r âu tóc c ủa c ác bạn còn
đâu?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!