nhạc kịch
v.v.. Đừng nghĩ rằng: cõi Cực Lạc, Thiên Đàng
là nơi lều
quán buôn bán
ăn uống, vui chơi ca hát. Vì buôn
bán ăn uống vui chơi ca hát là còn sống trong cảnh dục lạc thế gian, thì
làm sao gọi đó là
cảnh Thiên Đàng,
Cực Lạc được. Phải không quý vị?
Cho nên ngay
tại thế gian chúng ta sống ngày ăn một bữa là chuẩn bị cho mình một cuộc sống nơi Cực Lạc,
Thiên Đàng hay
nói cách khác là
chúng ta đã biến cảnh
thế gian thành Cực Lạc, Thiên Đàng đó rồi.
Bởi vậy ăn
ngày một bữa, chúng ta suy ngẫm cho thật kỹ, thì chúng ta cảm thấy thân, tâm mình
thanh thản, an lạc và
vô sự. Thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì
không phải nơi đó là Thiên Đàng, Cực Lạc sao?
Có chú Huệ Cần
xin vào tu viện tu tập.
Mới những ngày đầu chú
quá thích bảo:
‚Ôi! Đời sống ở đây như Tiên trên trời, ăn ngày một bữa, không làm gì
cả, ở không suốt cả ngày,
ngồi chơi thảnh thơi
thật là tuyệt vời’’ . Nhưng lần lượt tâm đời của chú sống dậy chú cảm thấy
cô đơn, buồn tẻ, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ nhà cửa, nhớ bạn bè v.v.. kế tiếp hôn trầm,
thùy miên, loạn tưởng khởi lên tấn công đánh chú. Do đó,
chú chịu hết nổi, liền bỏ
cảnh giới
Tiên chạy về
nhà sống cảnh
trần tục với
cha
mẹ.
Bởi vậy, ai
cũng muốn tu tập để được vãng sanh về Cực Lạc, để
được sanh về
cõi Trời, để được về cảnh giới Niết Bàn, để được trở về bản tánh của
mình. Nhưng khi được trở
về thì ai cũng chạy trốn.
Ở thế gian mọi người cứ ngỡ tưởng rằng: ở
cõi Cực
lạc, Thiên đàng
cũng giống như ở thế gian, có nhiều lều quán ăn uống ca nhạc
suốt ngày đêm, v.v.. Sự nghĩ tưởng như vậy không đúng, các bạn ạ!
Cõi Trời,
cõi Cực lạc, ở đó
không có lều quán buôn bán ăn uống và người ta cũng
không có ăn uống như quý bạn! Ở
đó chỉ có cuộc
sống trầm lặng độc cư, họ không có nói chuyện với nhau, vì thế mới gọi là
cõi Cực Lạc,
Thiên Đàng.
Các bạn có
biết không? Với tâm hồn người thế gian của chúng ta mà sống trong các cõi đó
thì cô đơn buồn lắm
các bạn ạ! Chắc chắn
các bạn cũng không hơn gì chú Huệ Cần.
Tưởng cõi
Cực Lạc Tây
Phương và cõi Thiên Đàng là sung sướng lắm, là đầy đủ
lắm, muốn chi có nấy. Thưa các
bạn! Các bạn tưởng như vậy là
sai, vì cõi đó người ta không còn dục,
nên không
còn ai ham muốn vật
gì hết. Ăn, ngủ,
vui chơi ca hát
người ta cũng
không ham muốn, nên ở đó vắng lặng. Ở đó người ta không thích ăn,
nên người ta
cũng không có
làm việc như ở cõi
thế gian, họ sống vô sự rất
là thảnh thơi, an nhàn. Vả lại
người ta không có nói chuyện với nhau, thường sống cô đơn một mình, nên cảnh
giới ở đó
rất là im lặng, không
có tranh luận hơn thua, không
có tranh cãi, đánh nhau, không có đua đòi vật chất như ở thế gian.
Để được vào
cảnh giới đó nên
đức Phật trang bị cho
chúng ta
mười giới Thánh
Sa Di. Khi chúng ta bỏ
thân này thì được vào
ngay liền. Muốn vãng sanh Cực Lạc, muốn lên Thiên Đàng, muốn vào Niết
Bàn mà ngay bây giờ các bạn không tập sống đời sống trên các cõi đó thì các
bạn làm sao sống
trong các cõi
đó được. Phải không các bạn?
Các bạn về tu viện Chơn
Như là các bạn
đang tập
sống làm Thánh
A La Hán,
làm Bồ Tát, làm Phật, để sau này
rời bỏ thế gian về các cõi đó. Thế mà về đây các bạn sống không được thì các bạn
đừng mong về các cõi đó được. Dù có cho các
bạn về đó
thì chừng ít hôm các bạn
cũng xách gói chạy về trần gian sống trong mùi tục lụy khổ đau.
Nếu các bạn không
tu tập ăn
ngày một bữa, không
sống độc cư trầm lặng
thì làm sao quý bạn sống
hòa nhập
với các cõi
đó được. Vì thế đức Phật thích
Ca Mâu Ni biết rất rõ điều
này, nên
Ngài mới dạy
chúng ta ăn
ngày một bữa và cấm không cho ca
hát và nghe ca hát là để chúng ta có dịp
hội tụ, hoà nhập vào các thế giới chư Phật, thế giới Niết bàn.
Nếu quý vị không chuẩn bị cho mình sống làm quen với thế giới
chư Bồ Tát, chư Phật thì
chúng tôi nghĩ rằng quý vị khó
mà hoà nhập vào một đời sống khác hơn đời sống thế tục.
Cho nên giới không
ăn uống phi thời là một giới rất quan trọng cho quý vị để hoà nhập vào đời sống Thánh thiện.
Ăn ngày một
bữa chỉ có những Bồ Tát, những A La Hán và chư Phật thì mới sống nổi, còn không
sống được như vậy, thì không thể gọi đó là Thánh Tăng, Thánh Ni, hay Thánh Cư Sĩ được.
Thánh đức ly
dục ly ác pháp trong ăn uống mà người tu sĩ Phật giáo cần phải tu tập và giữ
gìn nghiêm chỉnh thì sự ganh đua bon chen tìm danh lợi, tìm ăn uống mới chấm dứt.
Người ăn
ngày một bữa
thì còn gì mà bon chen danh
lợi. Phải không quý bạn?
Người đời
chỉ vì
ăn uống nên biến họ
thành ra là loài động vật, loài động vật chỉ biết ganh
đua cho sự sống để ăn uống mà thôi.
Người tu
sĩ khi ăn ngày một bữa
thì chùa to cũng không ham, Phật lớn cũng không thích, chỉ còn thích sống
với một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự.
Ngày tháng
trôi qua với nội tâm an ổn, không
có một pháp
nào tác động
vào tâm hồn họ
được, ngay cả mọi cảm thọ khổ đau
cũng không làm lay chuyển tâm họ được.
Giới cấm
không ăn phi thời nghe
thì rất đơn giản, nhưng mấy
ai sống đúng,
làm đúng, chỉ vì
tâm họ chưa ly
dục ly ác pháp,
nên sự tham đắm về ăn uống còn nặng nề,
khiến cho họ tìm cách bẻ vụn giới,
bằng ăn uống cách này hoặc bằng cách
khác như: không
ăn, thì họ uống sữa hay nước trái
cây, hoặc chanh đường, bột nước khuấy loãng. Tuy sống như vậy nhưng đó cũng là
hình thức ăn uống phi thời. Những hành động này đều có thể vi phạm Thánh hạnh
ly dục.
Con đường tu
tập giải thoát để ra khỏi nhà sanh tử,
thì giới hạnh không
ăn uống phi thời
là một điều hết sức quan trọng và rất cần thiết cho người tu sĩ đệ tử Phật.
Vì Thánh hạnh
đệ tử Phật là Thánh hạnh giải thoát,
chúng ta há nỡ
nào vi phạm để mọi người khinh chê Phật giáo, để cho tâm
mình không được giải thoát.
Vì Thánh hạnh
của một vị Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh
cư sĩ chúng ta
há nỡ nào ăn
uống phi thời để đánh mất Thánh
hạnh ly dục ly ác pháp này, thì
còn gì là một tu sĩ mang đầy đủ ý nghĩa giải thoát của đạo Phật.
Thánh hạnh
này không giữ trọn thì con đường tu kia
làm sao chứng được quả Thánh. Thánh sao còn ăn uống phi thời.
Người cư sĩ
phải biết cúng
dường và tôn kính
những vị Thánh Tăng, Thánh Ni, họ là những vị
không phạm giới,
không phá giới. Mười
Giới Đức Thánh
Sa Di rất lợi ích
cho mình, cho Phật giáo.
Tại sao vậy?
Tại vì một vị Thánh
Tăng thân tâm của họ đã ly dục ly ác pháp.
Người thân
tâm đã ly dục ly
ác pháp mà quý
Phật tử được cúng
dường thì phước báu vô
lậu kia có ngày quý vị sẽ được thọ hưởng. Còn cúng dường
cho những vị Tăng
phạm giới luật ăn uống phi thời thì phước báo vô lậu quý vị sẽ
không còn có dịp
gặp nữa.
Riêng tu sĩ phạm
giới này kiếp sau sẽ
làm thân trâu
bò, tôi, tớ, quân lính
hầu hạ quý vị.
Giới đức
Thánh không ăn uống phi thời, người
tu sĩ Phật
giáo cần phải cố gắng
giữ gìn vì đó là một hạnh ly dục
của bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ không phải người phàm phu sống được. Xin quý vị lưu ý cho.
à
GIỚI
Đ ỨC SA
DI THỨ M ƯỜI:
KHƠNG CÇT GIỮ
TIỀN BÄC CHÅU BÁU
Không cất giữ
tiền bạc, vàng ngọc, châu báu là một ĐỨC LY
THAM. Người xuất gia
cũng như người tại gia cần phải học hiểu và sống cho đúng giới luật đức
hạnh này để không còn bị nô lệ cho tiền
bạc.
Tại sao
trong đạo Phật lại có giới luật không cất giữ tiền bạc mà các tôn giáo
khác lại không có?
Đạo Phật
là đạo ly dục, vì thế
nên mới có giới không cất giữ tiền bạc của báu, còn
các tôn giáo khác thì không có ly dục.
Không cất giữ
tiền bạc của báu là một giới đức
Thánh hạnh ly
tham của bậc
xuất gia. Người còn cất giữ tiền bạc
là người còn
tâm tham, dù người đó được tấn phong Hoà Thượng, Thượng Tọa, Đại
Đức Tăng, Ni và
dù được mọi người kính nể, tôn trọng, nhưng những tu sĩ ấy vẫn còn
tâm tham cũng giống như tất cả những người phàm phu khác.
Người muốn
xa lìa tâm tham, sân, si thì không
nên cất giữ tiền bạc,
vì cất giữ tiền bạc
mà muốn
ly tâm tham,
sân, si thì không
bao giờ ly được, đó là một điều
xác quyết nhất định trong đạo Phật là như vậy. Còn cất giữ tiền bạc mà tu
theo đạo Phật
thì uổng công, dù
có tu hành ngàn
kiếp cũng khó tìm
được sự giải thoát.
Tham tiền ở đây quý vị đừng nghĩ là tham lam trộm cắp, mà
tham ở đây có nghĩa là ham tiền, ham bạc,
ham danh, ham lợi tức chữ ham là
ưa thích. Ưa thích
tiền, ưa thích danh,
ưa thích lợi... Tâm còn ưa thích tiền, danh, lợi... là ưa thích ngã. Cho
nên người ta thường nói vô ngã, nhưng còn cất giữ tiền bạc là còn nuôi ngã,
còn phục
vụ cho ngã,
là tôi tớ
cho ngã, chứ không phải là vô ngã.
Giới không cất
giữ tiền bạc là đức hạnh ly tham diệt ngã, nếu ai giữ trọn giới này thì tâm
tham bị diệt và ngã kia sẽ bị triệt tiêu.
Vì sự nghiệp giải
thoát chúng ta phải giữ gìn
nghiêm chỉnh giới
không cất giữ tiền bạc. Chỉ trong đạo Phật mới có giới đức ly tham
này để diệt ngã xả tâm, còn tất cả các
tôn giáo khác đều không có giới này như trên đã nóiù.
Ngày xưa từ
chỗ giàu sang vua chúa, để đi đến chỗ
nghèo cùng chỉ
còn đi xin
ăn, không
còn cất giữ
một đồng xu trong túi, đức Phật đã phải trăn trở vì bản ngã của mình. Cuối cùng
Ngài quyết tâm thực hiện một đời sống
vô ngã và chứng
đạo. Nếu chúng
ta không noi
theo gương Người mà còn có một đồng xu dính túi thì chưa chắc chúng
ta đã diệt được ngã, xả được
tâm. Và
tu như vậy thì chẳng
bao giờ làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi.
Giới đức
không cất giữ tiền bạc sẽ giúp chúng
ta diệt được ngã, xả được tâm
một cách dễ dàng.
Trong thời đại
chúng ta chỉ
có những tu sĩ khất sĩ mới làm được
những Thánh hạnh này, nhưng số này cũng rất là hiếm.
Không cất giữ
tiền bạc, châu báu, ngọc ngà có nhiều điều lợi ích rất lớn cho sự tu hành của
chúng ta:
1- Tâm hồn vô sự, thanh thản và an lạc,
không sợ
trộm cướp, thân
tâm không cực nhọc
lo xây
cất chùa cao cửa rộng
sang đẹp. Ngược lại các nhà Đại thừa vì cất giữ tiền bạc nên tâm không
vô sự, không thanh thản và an lạc, nên thường
sinh ra nhiều công
việc như: xây cất
chùa to
Phật lớn, tạo cảnh quan đẹp
mắt, để quyến rũ
du khách tham
quan, khiến nơi tu
hành không còn
thanh tịnh mà trở thành
khu du lịch kinh doanh làm giàu.
2- Có
tiền tâm dục dễ
sanh, nhất là ngũ dục lạc: sắc, danh, lợi, thực, thùy. Năm
điều này tâm dễ bị cám dỗ và sa ngã. Bằng chứng chúng ta đã tận mắt thấy quý Thầy không
có một vị nào không rơi vào năm điều trên.
3- Có
tiền bị đồng
tiền sai khiến,
mua sắm cái này,
cái khác. Ví dụ: ăn
uống thì phải ăn ngon, cao lương
mỹ vị; nhà ở thì phải phòng ốc sang đẹp;
giường nằm thì phải rộng lớn, mền êm, nệm ấm; di chuyển thì xe cộ đủ loại; trang trí trong nhà thì đồ đạc đủ mọi thứ: nào là tivi, tủ lạnh, máy giặt,
máy điều hòa, v.v..
4- Y áo
không còn ba y một
bát, mà cả rương, cả tủ. Y áo không còn là y phấn tảo
mà toàn là bằng những vải đẹp,
bóng tốt
hàng nhập, v.v..
Người đời
làm nô lệ cho tiền bạc mà không biết, tiền bạc sai
khiến họ như
tên nô lệ,
như tôi tớ trong nhà, còn tệ hơn nữa như con bò, con trâu, con ngựa,
v.v.. bị gác ách, gác xe trên vai, trên cổ.
Khi bị tiền
bạc sai khiến thì tâm dục triển khai.
Tâm dục triển
khai thì khổ đau chồng
chất.
Người không
cất giữ tiền bạc thì tâm
dục dù có muốn
cái gì cũng không
thực hiện được.
Ví dụ: một
người nghèo không
có tiền bạc
nên dù họ có muốn nhà
cao cửa rộng sang đẹp,
ruộng đất nhiều,
xe cộ, v.v..
cũng chẳng mua sắm được, nhưng họ vẫn nuôi hy vọng muốn
có nên tâm dục
còn mãi không
dứt. Ngược lại, người tu sĩ Phật giáo vì muốn ra khỏi
nhà sanh tử nên họ tự nguyện không cất giữ tiền
bạc, để khi tâm dục khởi muốn cái gì thì họ mới có thể đủ sức ngăn và diệt tâm dục đó, còn nếu cất giữ tiền bạc
thì rất khó hàng
phục tâm dục được.
Tại sao vậy?
Tại vì tâm
chúng ta rất khôn khéo và gian xảo, lừa đảo
chính chúng ta,
nó chạy theo
tâm dục mà bảo rằng: ‚Ta làm
Phật sự, vì chúng sanh, vì Phật giáo‛,
do lý luận như vậy nên lấy tiền xây chùa to Phật lớn để thỏa mãn tâm, chạy theo danh lợi thế gian,
chứ không phải để nhiếp phục mọi người theo Phật giáo, làm cho Phật giáo hưng
thịnh. Nhưng với lý luận làm Phật sự, độ chúng sanh để che đậy tâm danh lợi của nó
và nó còn
lý luận rằng:
‚Ta có làm gì cho
cá nhân ta
đâu mà gọi rằng ta
chạy theo dục danh lợi?‛. Do lý luận này mà các tu sĩ học giả đều bị phạm
giới, phá giới cất giữ
tiền bạc; do lý luận này mà các tu sĩ học giả tu hành chẳng
bao giờ tâm ly dục
ly ác pháp
và mãi mãi muôn đời tu hành chẳng làm chủ sanh,
già, bệnh,
chết. Uổng thay một đời tu hành không sáng suốt, đã bị tâm mình
lừa đảo mình, chạy theo dục
mà không biết,
chạy theo danh lợi mà không hay. Thật đáng thương vậy.
Giới đức
Thánh Tăng không
cất giữ tiền bạc
đã xác định cho quý
vị Hòa Thượng
biết rằng: họ đã
đánh mất Thánh
hạnh của chính họ,
khiến cho họ
không còn xứng
đáng là Thánh đệ tử của Phật nữa, họ đã biến mình thành
người phá hoại Phật
giáo mà không biết (Giới luật còn
là Phật giáo còn, giới luật mất là Phật giáo mất), họ đã biến mình thành Ma Ba
Tuần trong Phật giáo mà không hay. Thật đáng thương vậy!
Thưa
quý vị! Mục đích bỏ cuộc đời đi
tu là để tìm sự giải
thoát ra khỏi nhà
sanh tử luân hồi
và cũng để trở thành
những bậc Thánh Tăng,
Thánh Ni xứng đáng
là đệ tử của Phật. Cớ sao quý vị lại cất giữ
tiền bạc để phạm giới Thánh đức
như vậy, làm
ô nhục cho Phật
giáo như vậy, quý vị có xấu hổ
hay không? Có tự
thấy đau lòng hay không?
Không cất giữ
tiền bạc, nên gọi người đó sống
Thánh hạnh ly dục. Sống
Thánh hạnh ly dục là sống đời phạm hạnh của một bậc Thánh Tăng, Thánh
Ni. Do sống
Thánh hạnh không
cất giữ tiền
bạc khiến cho thân tâm ly khai dục nhiễm của mùi tục lụy thế gian.
Không cất giữ
tiền bạc là một phương cách giúp cho thân tâm của các bạn không thực hiện được sự ham muốn, vì không có tiền nên không
làm theo
ham muốn được. Đó
cũng là cách
ly dục ly ác
pháp tuyệt vời.
Người có tâm
quyết tìm cầu sự giải
thoát thì sự không
cất giữ tiền bạc rất là hữu hiệu cho sự giải thoát.
Bởi vì
chúng ta ai
cũng đều biết giới cấm
không cất giữ tiền bạc
là giúp cho chúng
ta ly dục ly ác
pháp dễ dàng,
có tiền thì tâm
dục dễ sanh và rất khó thắng nó,
vì có tiền nó đòi hỏi mua đủ thứ.
Chúng ta
nhìn thấy các nhà sư, thầy vì cất giữ tiền bạc mà phạm giới luật
này nên đời sống của họ như những người giàu có. Và
cuối cùng những vị sư
thầy này
tu hành không
giải thoát mà còn bị nô lệ cho tiền
bạc, vật chất, danh và lợi thế gian.
Chúng tôi đứng trên
mười giới đức
Thánh Sa Di này mà nói ra, xin
các bạn chỉ cần lưu ý là
thấy rõ các
nhà tu Đại thừa, tuy
có 10 giới của Sa Di,
mà các vị HT, TT,
ĐĐ, Tăng, Ni chưa chắc họ đã giữ được trọn vẹn, hay nói
cách khác dù chỉ là một, hai giới trong 10 giới cũng chưa chắc họ
đã giữ được. Nhìn
thấy lối sống
phạm giới,
phá giới, bẻ vụn giới của họ mà
chúng tôi thật sự đau lòng
cho Phật giáo ngày nay. Phải không quý vị !?
Quý thầy
theo kinh sách phát triển Đại thừa đã biến Phật giáo thành một cái nghề mê tín, để dễ lừa đảo
người khác. Giới
luật cấm tu sĩ còn đó:
‚Một tu sĩ không nên cất giữ tiền
bạc‛, thế mà họ có hàng tỷ tỷ bạc trong ngân hàng. Thật
là hết chỗ
nói, trên đời
này, không ai giàu
có hơn các thầy
tu theo kinh sách
phát triển.
Đạo Phật dạy: ‚xả
phú cầu bần‛. Còn bây giờ các thầy phát triển dạy: ‚xả bần
cầu phú‛ để cho phù hợp với thời đại.
Nhìn qua 10 giới cấm này,
ta nhận xét tu
sĩ thời
nay không còn mục đích
tu giải thoát, chỉ
còn tu danh tức là
ăn học có cấp bằng
cao, tu lợi tức là phải có tiền nhiều, có Phật tử đông.
Người tu sĩ
còn cất giữ tiền bạc là không đúng người tu sĩ của Phật giáo. Giới Đức Thánh Hạnh
ly tham này đã
xác định rõ ràng.
Nếu một tu sĩ còn vi phạm 10 giới này thì đương nhiên con đường tu giải thoát
đã không còn
nữa.
Tóm lại,
muốn tu giải
thoát ra khỏi tam độc
tham, sân, si thì
phải giữ
gìn giới luật
nghiêm chỉnh
mà giới không cất giữ tiền bạc là một giới luật
quan trọng nhất
trong việc tu hành ly dục ly ác pháp, có giữ gìn và tu tập
như vậy thì mới mong có ngày làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Giới luật
Phật tuy khó
giữ, nhưng với những người có chí lớn, có quyết tâm thì
khó cũng thành dễ, họ sẽ cũng vượt qua và làm nên sự nghiệp vĩ đại của Phật
giáo.
Giới Đức
Thánh hạnh ly
tham rất cần thiết cho những ai tha thiết tìm đường
giải khổ, nếu ai giữ
gìn nghiêm túc
thì người ấy sẽ ly
tham đoạn ác pháp, con đường cứu cánh sẽ viên
thành mỹ
mãn.
TỔNG QUÁT
MƯỜI GIỚI ĐỨC
SA DI
Mười Giới Đức Thánh
Sa Di là mười đức
hạnh giải thoát
của một tu
sĩ Phật giáo. Nếu
tu sĩ nào
nghiêm trì 10 giới
này sẽ tìm thấy
sự giải thoát
ngay liền trong cuộc sống
hiện tại, bởi vì nó là giới hạnh ly tham, đoạn ác
pháp, diệt ngã
xả tâm, khiến
cho tâm hồn
thanh thản,
an lạc và vô sự; khiến cho oai nghi tế hạnh của một tu
sĩ từ phàm
phu mà trở thành oai nghi tế hạnh của bậc Thánh Hiền.
Giới Thánh Đức
Hiếu Sinh thứ nhất ai đã thực hiện được thì lòng
thương yêu rộng lớn
không ngần mé, lòng thương yêu rộng lớn ấy sẽ giúp cho người đó có được một tâm
hồn không còn biết giận hờn, thù oán ghét ai v.v.. Thánh Đức Hiếu Sinh
giúp cho tâm hồn người
ấy thường thương yêu sự sống của muôn loài.
Cũng từ khi
có tâm hồn biết thương yêu sự sống của muôn
loài thì một sự giải thoát
có trong tâm của người ấy rất rõ ràng, một trạng thái rỗng
rang, an lạc
lúc nào cũng
ngự trị trong tâm của họ. Nhờ thế
mà lòng tha thứ và
yêu thương
không làm khổ mình, khổ người, đối với tất
cả chúng sanh không phân biệt thân sơ, luôn luôn thể hiện qua hành động thân,
khẩu, ý của họ rất rõ nét thương yêu.
Chính nhờ
lòng thương yêu ấy giúp
chúng ta không phân biệt người thân, người sơ; chính lòng thương yêu ấy
giúp ta chuyển hóa được tai nạn; bệnh tật khổ đau của
chính mình; chính lòng thương yêu ấy giúp chúng ta hóa giải
được những ác pháp đang vây quanh ta; chính lòng thương yêu ấy đã giúp chúng ta
vượt lên tất cả các ác pháp và các nghiệp ác; chính lòng thương yêu ấy là giới
cấm không sát sanh.
Thưa các bạn!
Nếu trong thế gian này ai ai cũng thực hiện lòng thương yêu ấy, thì thế gian
này là
Thiên Đàng, Cực Lạc. Phải
không các
bạn?
Nếu chúng ta
sống tròn đủ lòng yêu thương ấy mà không
có đức buông
xả thì lòng thương yêu
ấy chưa đủ trọn
vẹn (giới thứ
hai không tham lam trộp cướp).
Thánh Đức
Buông Xả giúp
cho tâm chúng ta không
còn muốn chiếm
hữu một vật gì
hay tiền bạc của ai, của không phải do mình
làm ra, của không phải do bằng mồ hôi nước mắt của mình, của
không phải bằng
do công sức của
Trưởng lão
Thích Thông Lạc
mình, bằng
thành quả lao động của
mình thì nhất định không lấy.
Thánh Đức
Buông Xả giúp
cho tâm chúng ta không dính mắc vật chất thế gian, danh, lợi, hoặc còn
nhiều thứ khác nữa.
Thánh Đức Hiếu
Sinh cộng với Thánh Đức Buông Xả, tạo
thành một tâm lực mạnh mẽ để đẩy
lùi các ác
pháp, khiến cho chúng
ta tìm thấy được một tâm hồn thanh
thản, an lạc và vô sự như thật. Nhưng nếu muốn hai Thánh đức
hạnh trên đây được giữ gìn trọn vẹn và lâu dài thì chúng ta phải giữ
gìn và sống
cho đúng Thánh Đức
Hạnh Thanh Tịnh
(Giới thứ ba không dâm dục).
Nếu Thánh Đức
Thanh Tịnh không giữ gìn nghiêm túc thì
tâm sắc dục của chúng ta không bao giờ
chấm dứt được. Tâm sắc dục của
chúng ta không chấm dứt
được thì nó là một chướng ngại
pháp rất lớn
trong thân tâm,
vì thế mà tâm
không sao an ổn được. Cho
nên muốn Thánh Đức Hiếu Sinh và
Thánh Đức Buông Xả tròn đủ
thì Thánh Đức Thanh Tịnh cần phải
tu tập và sống cho đúng cách, có nghĩa là chúng ta phải sáng suốt quán xét nhân
quả, 12 nhân duyên, thân ngũ uẩn, quán tưởng xương trắng, quán tưởng thân bất tịnh,
tu tập 19 Định Niệm Hơi Thở và
tu tập Thân
Hành Niệm; nhờ có
quán tưởng
và tu tập
như vậy thì giới luật này mới mong giữ gìn trọn vẹn.
Ba đức hiếu
sinh, buông xả và thanh tịnh chưa đủ để chúng
ta đẩy lui
các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm và các pháp, vì
thế chúng ta phải tiếp tục thực hiện cho bằng được Thánh Đức Chân Thật. Thánh Đức
Chân Thật rất khó giữ gìn, người có gan dạ có nghị lực thì mới không nói vọng
ngữ (giới thứ tư, không nói vọng ngữ).
Một vị Thánh
Tăng, Thánh Ni mà thiếu lòng chân thật,
hay nói vọng
ngữ thì đâu còn giá trị của một vị Thánh. Phải không các
bạn?
Thánh Đức
Chân Thật, nếu một vị tu sĩ không giữ gìn trọn vẹn
mà nói vọng
ngữ, nói sai, nói không thật hay
thuyết giảng thiếu kinh nghiệm khiến người tu tập không kết quả giải thoát thì vẫn
bị mất uy tín, mất
lòng tin của mọi người.
Bốn Thánh Đức
trên đây đã giữ trọn thì Thánh Đức Minh Mẫn cũng cần phải nghiêm khắc giữ
gìn. Một vị
Thánh Tăng mà rượu chè say sưa, đi ngã tới, ngã lui thì đâu còn
là một vị Thánh Tăng. Giá trị sáng
suốt minh mẫn của
một vị
Thánh Tăng bảo đảm rằng:
họ không cầm một ly rượu uống hay
một điếu thuốc lá hút (giới thứ năm cấm không uống rượu).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!