GIỚI
Đ ỨC SA DI
THỨ SÁU:
KHƠNG TRANG
ĐIỂM
Không trang
điểm là một “ĐỨC
THÁNH TỰ NHIÊN”. Người
xuất gia cũng
như người tại gia cần phải học hiểu
và sống đúng đức hạnh này.
Bản chất của
con người dù nam hay nữ đều thích làm đẹp, nhất là phái nữ, dù là một người rất xấu,
nhưng họ vẫn cố trang
điểm làm cho đẹp, vì thế mà các mỹ viện mọc lên rất
nhiều.
Mục đích
trang điểm làm đẹp là do tâm ái dục, tâm
ái dục luôn
muốn cho mọi người
phải để ý và mê mệt với mình. Đó là nguyên nhân ngấm ngầm bên trong thân
và tâm của mình để thể hiện
tâm sắc dục,
tâm sắc dục tức là
tình dục, khi mắt thấy sắc của
người khác phái
thì tình dục khởi lên.
Vì mục đích
này giới nữ thường
ăn mặc hở
hang. Muốn khiêu
dâm gợi dục, hiện
nay phái nữ thường ăn mặc bày da
bày thịt theo người Tây Phương là để
khiêu gợi tâm sắc dục của người khác phái và cũng chính khiêu gợi
tâm sắc dục của mình.
Đối với Đức Phật, Ngài rất hiểu rõ điều này, nên cấm
đệ tử
Văn hóa Phật
giáo truyền thống – tập 1
của
mình, nhất là giới tu sĩ: ‚không cho
trang điểm làm đẹp‛. Không cho làm đẹp là để diệt
trừ tâm
sắc dục. Trong
kinh Tăng Chi tập 1
trang 9 thuộc đại tạng kinh Việt Nam, đức Phật dạy: ‚Ta không thấy một sắc
nào khác, này các Tỳ
Kheo, xâm chiếm và
ngự trị tâm người
đàn ông như sắc người
đàn bà… Ta không thấy một sắc
nào khác, này
các Tỳ kheo, xâm chiếm và ngự trị
tâm người đàn bà, như sắc
người đàn ông…‛.
Đối với đạo Phật
tâm sắc dục
là một trong
những tâm ái dục, nó là con đường sinh tử luân hồi; nó là con đường khổ
đau; là nguyên nhân
sinh ra muôn vàn đau khổ của con
người. Vì thế, trong bốn chân lý của đạo Phật, nó là chân lý thứ hai gọi
là ‚Tập
đế‛. Tập đế
có nghĩa nơi tập họp mọi
sự khổ
đau, hay nói cách khác
là nguyên nhân sinh ra mọi khổ đau của kiếp sống làm
người.
Muốn xa lìa
tâm sắc dục, mà còn trang điểm, làm đẹp thì không bao giờ xa lìa tâm sắc dục ấy
được.
Tóc râu
đã cạo bỏ,
còn gì là đẹp
đẽ nữa đâu, thế mà các Thầy tuy cạo bỏ râu tóc nhưng còn sửa sang làm đẹp, cạo râu, cạo tóc
thường xuyên, quần áo chải chuốt,
ủi là láng
bóng.
Trưởng lão
Thích Thông Lạc
Sang đẹp
có nghĩa
là y áo phải
may bằng vải hàng
nhập, loại hàng tốt nhất,
may y áo phải vừa vặn, không rộng, không chật, thường
dùng gương soi mặt, ngắm trước,
ngắm sau khi đi... Những hành động
trang điểm làm đẹp như vậy là nuôi tâm sắc dục, ưa thích tâm sắc dục.
Người còn
tâm ưa thích sắc dục thì còn trang
điểm, còn làm đẹp
thì tu hành chỉ
hoài công vô ích.
Đạo Phật muốn
đào tạo những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni A
La Hán nên giới luật cấm
trang điểm làm đẹp là
để tâm ly dục lìa ác
pháp. Có ly dục lìa ác pháp thì Đức Hạnh Tự Nhiên Thánh Sa Di
này mới sống
đúng và giữ trọn
vẹn. Ai theo đạo Phật
tu hành mà còn
trang điểm làm đẹp
thì không phải là
Thánh Tăng, Thánh Ni,
Thánh Sa Di nữa
mà là Ma trong
đạo Phật, đội lốt Phật
giáo để giết Phật giáo. Bởi vậy, những tín đồ Phật giáo cũng như những người
ngoài Phật giáo,
khi thấy một vị tu
sĩ ăn mặc
sang đẹp chải chuốt
làm đẹp thì nên biết đó không phải là tu sĩ Phật
giáo, mà là Ma đội lốt tu sĩ Phật giáo.
Xưa đức Phật
lượm vải bó thây ma, vải bỏ của người khác về giặt sạch làm y áo của
mình. Y áo ấy gọi là áo cà sa (Y phấn tảo), còn bây giờ
Văn hóa Phật
giáo truyền thống – tập 1
y áo của tu
sĩ Phật
giáo rất là sang đẹp và
đắt tiền, như vậy
là đi ngược
lại chủ trương
đời sống của đạo Phật ‚Ba y
một bát thiểu dục tri túc‛.
Ba y một bát tức là hạnh ly dục
ly ác pháp. Một tu
sĩ mà không
sống được Phạm hạnh này thì không bao giờ tìm thấy sự
giải thoát.
Người cư sĩ
đem cúng dường y áo cho tu sĩ bằng những hàng lụa đẹp sang là
cúng dường sai pháp, khiến cho tu
sĩ trở thành phú Tăng, chứ không còn là bần Tăng.
Ăn mặc
sang đẹp là một cách
trang điểm làm đẹp; còn trang điểm
làm đẹp là phạm giới, là không ly dục
ly ác
pháp; không ly dục
ly ác pháp thì
làm sao được gọi
là Thánh Tăng, Thánh Ni, Thánh cư sĩ, đệ tử của đức
Phật?
Muốn làm chủ
sanh tử luân hồi, mà hành động
trang điểm làm đẹp không
từ bỏ thì làm sao chấm dứt sanh tử luân hồi được?
Mục đích xa
lìa tâm ái dục nên phải xa lìa sự
trang điểm, làm đẹp,
cho nên những tu sĩ
đạo Phật, dù
nam hay nữ, đều phải cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, (áo vải thô xấu, vải
liệm thây ma, v.v..), đi chân đất, đầu trần không đội nón.
Trưởng lão
Thích Thông Lạc
Người tu sĩ
của Phật giáo hình dáng phải làm
cho xấu xí
thì càng dễ
tu. Đó cũng
là phương pháp ly dục ly ác pháp. Còn trang điểm làm đẹp là
phương cách nuôi
tâm dục và ác
pháp.
Xưa ông A Nan
vì quá đẹp trai
nên sự tu tập của ông phải gian nan với người khác
phái.
Có thân
hình đẹp đẽ là
hình dáng dễ gợi
lòng yêu thương, ái dục, khiến cho chúng ta khó xa lìa tâm ái dục.
Có một
cô gái người
Nhật Bản vào
chùa xin tu, nhưng
vị trụ trì từ
chối không chấp nhận và bảo cô rằng: “Cô không tu được”.
- Tại sao vậy?.
- Vì cô quá
đẹp.
Sau khi hủy hoại sắc đẹp xong, cô
trở lại chùa xin tu, lúc bấy giờ
cô được nhận làm đệ tử.
Qua câu chuyện
trên cho thấy sắc đẹp làm cản trở sự tu tập của chúng ta rất lớn, vì thế chúng
ta là tu sĩ Phật giáo không nên trang điểm, phải giữ
gìn giới luật
Thánh Đức Tự Nhiên không trang
điểm làm đẹp này
nghiêm chỉnh.
Văn hóa Phật
giáo truyền thống – tập 1
Có ý chí
quyết tâm xa lìa
tâm ái dục
nên cô gái này đã diệt sắc đẹp của mình
tức là cô đã diệt tâm ái dục của mình,
nhờ đó trên đường tu hành theo Phật
giáo cô đã chứng quả Thiền Tông.
Như vậy,
hiện nay đúng
theo giới luật Phật
như quý vị
đã biết, người
tu sĩ đạo Phật
phải luôn luôn cạo bỏ
râu tóc, ăn mặc áo quần
thô xấu.
Đó là một
hình thức rất cần thiết
để xa lìa tâm ái dục và ác pháp.
Không trang
điểm làm đẹp là
một Thánh đức tự
nhiên lìa xa tâm
ái dục mà người tu sĩ
cần nên học và cố gắng khắc kỷ mình để thực hiện cho bằng
được Thánh hạnh
này. Nhờ đó con đường tu tập mới có hiệu quả hơn.
Kính thưa các bạn đồng tu Phạm hạnh! Thánh đức tự nhiên
xa lìa tâm ái dục,
các bạn có giữ trọn hay không, đó là còn
tùy ở các bạn. Nếu các bạn giữ trọn trước
mặt cũng như
sau lưng thì các bạn đã tự biết
mình lìa xa tâm sắc dục. Xa lìa tâm sắc dục rất
có lợi cho các bạn, nó giúp cho thân tâm của các bạn thanh tịnh,
nhờ thế các bạn mới dễ dàng tu tập thiền
định mà không sợ lạc vào tà thiền.
Trưởng lão
Thích Thông Lạc
Nếu Phạm hạnh này
không giữ trọn vẹn
được thì các bạn tu hành phí
công vô ích mà
thôi.
Mỗi giới Đức
Phạm Hạnh Thánh Sa Di là hiện thân của sự giải thoát
trong Phật giáo. Vì thế, Mười
Giới Đức Thánh Sa Di càng giữ
gìn nghiêm chỉnh
thì thân tâm càng
lúc càng thanh tịnh; thân tâm càng lúc càng thanh tịnh thì đời sống
càng đơn giản; đời sống
càng đơn giản thì sự giải thoát gần kề. Sự giải thoát có được là
nhờ sống đơn giản, tự
nhiên. Cho nên đời sống đơn giản
tự nhiên trước mặt cũng như sau lưng là xác định cụ thể cho người tu chứng. Người
tu chứng hay không tu chứng là ở chỗ những giới
đức Thánh này, chứ không phải ở chỗ
ngồi thiền nhập định
7, 8 ngày hay thị hiện
thần thông, phóng
hào quang, độn thổ,
tàng hình, biến hóa, v.v..
Đối với
Thánh hạnh không cần sửa sang trang điểm
làm đẹp, mà thân
tướng lại đẹp đẽ trang
nghiêm một cách
đơn giản tự
nhiên thì đó mới thật sự
là Thánh Đức Hạnh
Tự Nhiên, đó mới thật sự
là cái đẹp tự
nhiên của một vị Thánh Tăng, Thánh Ni.
Văn hóa Phật
giáo truyền thống – tập 1
Thánh đức tự nhiên
ly ái dục
là để cho người
tu hành có một dung
nghi đẹp đẽ hồn nhiên,
trong sáng rất tự nhiên.
Đó là vì
thân tâm thanh tịnh không còn ô
nhiễm nên không cần trang điểm làm đẹp theo kiểu nhân tạo thế
tục.
Nhìn qua Phạm hạnh Thánh đức tự
nhiên của một vị tu sĩ Phật giáo là chúng ta nhận biết vị này
là Thánh Tăng
thật hay Thánh
Tăng
giả.
Thánh Tăng
giả thì trang điểm ăn
mặc sang đẹp, xe cộ lộng lẫy,
cái đẹp ấy là
cái đẹp nhân tạo,
cái đẹp nhân tạo
là cái đẹp của
tâm dục và ác
pháp. Cho nên,
giới luật Phật cấm
trang điểm làm đẹp
giả tạo
không chân thật. Làm
đẹp giả tạo không
chân thật có
hai điều tội lỗi:
1- Tội lừa đảo
người.
2- Tội thiếu chân thật với mình.
Lừa đảo người
bằng tướng tốt, ăn mặc sang đẹp. Ảnh hưởng Bà La Môn giáo cho rằng người
tu hành
phải có tướng
tốt, cho các vị
tu sĩ nào có
thân tướng mập
béo, bệ vệ
trong bộ y áo
sang đẹp là tướng
tốt, là tu chứng đạo,
theo Phật giáo chúng
tôi nghĩ rằng
thân tướng ăn
Trưởng lão
Thích Thông Lạc
mặc như vậy không
đúng lắm, vì
thân tướng mập béo,
trong y áo sang đẹp là
tướng của dục lạc.
Vẽ vời đức Phật với ba mươi hai
tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp là
để loè mọi người
theo kiểu kinh sách Bà
La Môn thì chúng
tôi nghĩ rằng đức Phật có một thân hình quái dị, chứ
không phải thân hình của một con người.
Trang điểm là
phương cách làm đẹp
giả tạo, đó là thiếu chân
thật với mình với người. Vì
thế mà Giới Đức Thánh
Tự Nhiên không trang điểm ra đời để giúp chư Tăng, Ni sống tự nhiên mà có vẻ đẹp đẽ hồn nhiên.
Tóm lại, một
tu sĩ còn trang điểm làm đẹp là chứng tỏ tâm ly dục ly ác pháp chưa có. Điều
quan trọng là
tâm sắc dục
chưa lìa thì con đường đạo khó thấy.
Nếu tu theo
đạo Phật mà còn trang điểm làm đẹp là không thể tu theo đạo Phật được, đó
là một
điều xác định chắc
chắn báo trước
cho quý vị biết.
Muốn tìm tu
giải thoát theo đạo Phật
thì Giới Đức Thánh Tự Nhiên phải chấp nhận thực hành. Sống nghiêm chỉnh
không hề vi phạm thì Thánh hạnh này mới có thể hiện
rõ trong mọi oai nghi của quý vị.
Văn hóa Phật
giáo truyền thống – tập 1
Thánh Đức Tự
Nhiên của một cơ thể đã lìa tâm sắc dục thì rất thanh tịnh. Tâm sắc dục lìa xa
được, thì thân tâm của quý vị mới thật sự thanh
tịnh. Thân tâm
có thanh tịnh
thì quý vị mới nhập
được chánh định, còn thân
tâm chưa thanh tịnh
mà nhập định thì chỉ
là nhập tà định. Do điều kiện này mà đức Phật chỉ dạy
cho chúng ta: “giới sanh định” là vậy.
Cho nên một người
tu mà xem thường
giới luật thì người
ấy sẽ không bao giờ tu tập thấy được sự giải thoát của đạo Phật như thật.
Giới là pháp
môn giúp cho tâm ly dục ly ác pháp,
còn tà định
là pháp môn ức chế
tâm khiến cho tâm không bao giờ ly
dục ly ác pháp được. Cho nên, giới
không tu tập nghiêm chỉnh thì oai
nghi chánh hạnh
không bao giờ có,
oai nghi chánh hạnh không có
mà tu tập
thiền định thì thiền định đó
không bao giờ có giải thoát.
Đạo Phật lấy
giới luật làm khuôn pháp tu tập
hàng đầu, khiến
thân tâm thanh
tịnh, oai nghi chánh hạnh rõ
ràng, người người nhìn vào đều kính mến và tôn trọng, không ai mà không thừa nhận.
Tà Giáo
ngoại đạo bỏ giới luật lấy ý thức
vô niệm làm tâm, cho tâm đó là Phật
tánh. Do
Trưởng lão
Thích Thông Lạc
đó tu tập bị ức chế
tâm, rơi vào định tưởng, khiến cho người
tu hành không
biết đường tu tập
làm chủ sanh, già,
bệnh, chết. Lúc bấy giờ lại
còn lạc vào
mê hồn trận của tưởng
mà không biết, cứ cho
đó là
định tướng của thiền định. Trong sách
Thiền Quan Sách Tấn các Tổ
thuật lại công phu tu tập của mình rất là gian khổ. Ba, bốn chục năm mà chứng
những trạng thái tưởng, thật là phí uổng công cả một đời
tu
tập.
Người tu
hành theo đạo Phật phải nhớ kỹ lời dạy này: ‚các pháp ác
không nên làm và
nên làm
các pháp thiện‛.
Đó là lời dạy về giới luật của Phật.
Người phạm
giới là người làm các pháp ác, người nào không phạm giới là người làm các
pháp thiện. Người
sống trong thiện pháp là người sống trong Thánh hạnh.
à
GIỚI
Đ ỨC SA
DI THỨ BÂY
:
KHƠNG CA HÁT
VÀ NGHE CA HÁT
Không ca
hát và nghe
ca hát là “THÁNH ĐỨC TRẦM LẶNG
ĐỘC CƯ”.
Người xuất gia cũng
như người tại
gia cần phải học
hiểu và
sống đúng đức hạnh này để phòng
hộ mắt, tai, mũi,
miệng, thân, ý của mình.
Do
phòng hộ mắt, tai,
mũi, miệng, thân,
ý của
mình nên
các ác pháp
không sanh khởi
được, nhờ đó tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Lời ca tiếng hát
phát ra âm
thanh lúc trầm, lúc bổng, lúc
cao, lúc thấp khêu gợi thất tình lục
dục trong ta sống dậy,
khiến cho tâm hồn chúng
ta rung động
ngây ngất buồn
vui theo âm thanh du dương ảo não của tình yêu thương lãng mạn giữa
trai gái. Giọng ca trầm hùng thúc dục tiến bước quân
hành khiến cho thanh niên hăng
hái lên đường
xông pha vào trận
mạc, trước lằn
tên mũi đạn
mà không hề nao núng.
Lời ca tiếng hát
có lợi nhưng
cũng có hại. Lợi là
trước cảnh đất nước bị
ngoại xâm, lời ca
Trưởng lão
Thích Thông Lạc
tiếng hát
thúc dục thanh niên lên đường cứu nước;
hại là khiến
cho thanh niên nam nữ yêu thương lãng mạn đi đến những sự khổ đau tuyệt
vọng, gây ra nhiều cái chết oan uổng. Phần nhiều những lời ca tiếng hát gợi lại những
hình ảnh quá khứ
thương đau, đánh thức dậy thất tình lục
dục trong mỗi
con người, khiến
đời sống đã khổ lại còn khổ đau hơn. Cho nên, đức Phật thấy được những sự
nguy hiểm này, vì thế Ngài cấm những
tu sĩ không
được nghe ca hát và tự mình ca
hát.
Những người
tu sĩ Phật
giáo vì mục
đích giải thoát mọi sự
khổ đau của cuộc đời thì cần nên
tránh xa ca hát
và nghe ca hát.
Tại sao
vậy?
Như ở trên chúng tôi đã nói: Phật giáo cho rằng lời
ca tiếng hát
thường khêu gợi
lòng thương nhớ khổ đau trong chúng ta. Muốn thoát sự đau khổ,
cho nên đạo Phật
không cho tu sĩ nghe ca hát hoặc tự ca hát.
Đó là trách
nhiệm và bổn phận của mỗi người tu sĩ đệ tử của đức Phật phải thấy. Không xuất
gia thì thôi mà đã xuất gia thì phải thấy trách nhiệm và bổn
phận này. Nếu một
tu sĩ còn
nghe ca hát hay tự ca hát
thì đã đánh mất hết oai
nghi Thánh Hạnh trầm lặng độc cư của mình, của người tu sĩ Phật giáo. Cũng
vì thế mà mất hết
ý nghĩa sự giải
Văn hóa Phật
giáo truyền thống – tập 1
thoát của đạo
Phật. Người tu sĩ còn nghe ca hát và tự ca hát thì đi tu để làm gì? Mục đích đi tu của đạo Phật là ly
dục ly
ác pháp. Ca hát
hay nghe ca hát làø nuôi dưỡng
tâm dục, là còn nằm trong môi
trường lục dục
và ác pháp của thế
gian.
Vì nghe ca hát
hay tự ca hát là
làm sống lại thất
tình lục dục trong thân tâm của chúng ta như chúng tôi đã nói ở
trên. Người tu sĩ đạo Phật
hằng mong diệt thất
tình lục dục để được giải thoát,
thì cớ chi lại
còn ham thích
ca hát hoặc nghe ca hát, để làm sống
lại thất tình lục dục thì sự tu
tâïp biết chừng
nào mới hết
tâm lậu hoặc!
Người nghe
ca hát hay tự ca hát là gợi lên lòng thương nhớ khổ đau trong quá khứ, làm sống lại những ức niệm gì đã
đi qua. Đức Phật đã dạy:
‚Quá khứ không
truy tìm, vị
lai không ước vọng‛. Nghe ca hát và tự ca hát là truy tìm nỗi
đau thương của quá khứ và nuôi hy vọng ở
tương lai. Và như vậy thì làm sao tu tập giải thoát khổ đau cho được. Lời ca tiếng hát, ngâm vịnh thơ văn phản ảnh
được tâm lý ái dục của con người. Vì thế, Sở
Bá Vương Hạng Võ thất trận là do tiếng sáo, tiếng tiêu
của Tiêu Hà theo kế hoạch tâm lý chiến của Trương Lương khiến cho quân
lính của Sở Bá Vương nhớ nhà,
Trưởng lão
Thích Thông Lạc
cha mẹ và vợ
con nên đồng nhau bỏ trốn về. Có đúng như vậy không các bạn?
Chúng ta
hãy lắng nghe
những câu thơ, lời
ca khêu gợi lên
lòng thương nhớ sầu khổ, như của nhà thơ Huy Cận viết:
“Sóng gợi trường
giang buồn điệp điệp. Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về bến cũ sầu
trăm ngả
Củi một cành
khô lạc mấy dòng?”
Một nhà thơ
Trung Hoa, Lư Thuật viết:
“Nhật mộ
hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu” Tản Đà dịch:
“Quê hương
khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” Đoàn Thị Điểm viết:
“Nước trong
chảy lòng phiền không rữa
Cỏ xanh tươi
dạ nhớ chẳng khuây…”
Lời ca tiếng
hát của Y Vân:
“Lòng mẹ
bao la như biển
Thái Bình dạt dào…”
Lời ca tiếng
hát của Lưu Hữu
Phước thúc dục thanh niên trí thức
lên đường cứu nước:
Văn hóa Phật
giáo truyền thống – tập 1
núi.
“Này sinh viên
ơi! Đứng lên
đáp đền sông
Đồng lòng
cùng đi, đi, đi
mở đường
khai
lối. Vì non
sông
nước xưa, truyền
muôn năm
chớ quên...”
Đó là những
văn, thơ, ngâm vịnh, ca hát khiến cho lòng người tê tái nhớ thương khổ đau.
Thương nhớ
là một pháp
ác, là một
pháp đau khổ. Lời ca tiếng
hát ngâm vịnh thơ
văn gợi lên lòng thương nhớ sầu
khổ của một người con nhớ mẹ (Lòng mẹ) của
một người vợ nhớ thương chồng đang chinh
chiến ngoài biên ải xa (Chinh Phụ
Ngâm), của một tình yêu quê hương (Tiếng Gọi Sinh Viên).
Lời ca tiếng
hát, thơ văn
ngâm vịnh gợi lên tình yêu
thương trai gái (sắc dục)
tình yêu thương cha mẹ (ái kiết sử)
tình yêu quê hương tổ quốc (ái kiết sử).
Tất những sự
yêu thương này nằm ở trong thất tình lục
dục. Như chúng
ta đã biết
loài người thường chịu nhiều khổ đau là do thất tình lục dục tạo nên.
Thế mà người
ta thường tìm mọi
cách làm sống lại nó để mà khổ, để mà
đau.
Lòng thương
yêu trong thất tình lục dục là tình yêu
thương hạn hẹp
trong tình cảm cá
Trưởng lão
Thích Thông Lạc
nhân, tình thương
yêu ấy thường
làm khổ cho mình,
cho người khác.
Nỗi đau của
thất tình lục dục
khiến cho trai gái đi đến tuyệt vọng
phải tự tử, khiến cho con giết cha, cha
giết con, mẹ giết
con, chồng giết vợ, vợ giết chồng, anh giết em, em giết anh
v.v..
Nỗi đau ấy
thúc dục chúng ta xả thân
vào chỗ chết mà
không hề biết
sợ hãi và
cũng không thấy trách nhiệm bổn phận đạo đức làm người của mình đối với mình, của mình đối
với người khác, v.v..
Đạo Phật muốn
cho con người thoát khổ, nên phải vượt
thoát ra khỏi thất
tình lục dục. Đối với đạo Phật
thất tình lục dục là
một loại tình yêu thương hạn hẹp,
nhỏ mọn, ích kỷ phải được thay thế bằng một loại
tình yêu thương rộng lớn.
Tình yêu thương rộng lớn đó là ‚tâm
từ, bi, hỷ, xả‛.
Tâm từ, bi, hỷ, xả
là lòng yêu thương rộng lớn vô bờ bến, vì thế nó
không bao giờ làm khổ
mình, khổ người
và khổ chúng sanh. Nhờ có
tâm này được thay
thế thì chúng ta mới thoát ra khỏi
thất tình lục dục.
Nếu
mình thương yêu mình sao lại nghe ca hát và tự ca hát để gợi lên
lòng nhớ thương, sầu khổ.
Văn hóa Phật
giáo truyền thống – tập 1
Người đời
không hiểu nên cứ ngỡ mượn lời ca tiếng
hát để giải sầu hay giải trí.
Thật sự giải sầu hay giải trí như
vậy lại làm cho tâm tư sầu khổ thêm, trí óc mệt nhọc, căng thẳng hơn.
Lời ca tiếng
hát chỉ giúp
cho người làm việc đầu
óc quá căng
thẳng được thư
giãn mà
thôi.
Mình thương mình
thì không nên làm khổ mình. Phải
không các bạn?
Nghe ca
hát và
tự ca hát cũng tự làm
khổ mình, các bạn có hiểu không?
Cho nên muốn không
làm khổ mình
thì các bạn không nên nghe ca hát và ca hát.
Bởi vì
nghe ca hát cũng
làm cho các bạn mất thì giờ rất nhiều.
Giải trí nghỉ
ngơi mà lại bắt đầu
óc lắng nghe âm
thanh khiến cho thần
kinh mỏi mệt. Như vậy giải trí
nghỉ ngơi có đúng không?
Như vậy
thương yêu mình sao lại làm khổ mình?
Mượn lời ca tiếng
hát để quên
đi sự sầu khổ, để
giải trí nghỉ ngơi thì không đúng. Đó là một hình thức tránh né trốn chạy để ức chế và đè nén tâm mình.
Trưởng lão
Thích Thông Lạc
Chúng tôi
xin đem một ví dụ giải sầu khác: Cũng như người vì quá buồn khổ lại mượn chén
rượu để
giải sầu, rượu
là một chất độc kích thích khiến cho thần kinh hưng phấn, nói
năng cử chỉ giống như người điên, người mất trí... Những người say rượu như vậy
họ đâu có sáng suốt thấy mình
say rượu, họ cảm thấy
như mượn chén rượu để nói
lên lòng căm tức, lòng khổ đau của mình để cho
hả lòng buồn giận, tức là giải sầu. Nhưng họ có biết đâu chính họ đã bị
tâm họ
lừa dối họ. Họ
đang say nhưng họ đâu biết họ đang say. Sự thật là họ đang say
rượu, thần kinh bị hưng
phấn, họ không
tự làm chủ họ được nữa, họ nghĩ rằng uống rượu say
là sẽ quên sầu khổ,
nhưng không ngờ họ đã
làm cho họ sầu khổ thêm,
chứ nào đâu phải mượn
rượu để giải sầu.
Thưa các bạn! Lời ca tiếng
hát cũng như vậy,
chỉ làm vui dạ những
người không biết sống
cho mình. Nghe ca hát
và tự ca hát
là sống theo ngoại cảnh thất tình lục dục, thuộc về ảo ảnh, hư tưởng của
những sự việc gì đã qua và của những sự việc gì chưa đến, họ tưởng là giải khổ
lại chồng thêm khổ cho họ.
Ca hát là sự khêu gợi lòng đau khổ,
làm mất sự an tịnh trầm lặng của tâm hồn nên đức
Văn hóa Phật
giáo truyền thống – tập 1
Phật cấm những hàng đệ tử của
mình: ‚không ca hát và nghe ca
hát‛.
Chúng ta
cũng nên biết:
Một vị Thánh Tăng
đờn ca xướng hát
ngâm vịnh, hoặc tán tụng ê,
a giọng cao giọng thấp để ru
hồn người vào cõi tưởng thì điều
này đức Phật
đã không chấp nhận từ lâu.
Kinh Sonadanda
thuộc Trường Bộ
Kinh tạng kinh Nikaya (Nguyên Thủy)
có nêu lên năm
đức tánh của một tu
sĩ Bà La
Môn. Năm đức tánh đó là:
1- Thọ
sanh huyết thống
7 đời Bà
La
Môn.
2- Chú
thuật, phúng tụng,
thông hiểu ba tập Vệ Đa, danh từ, nghĩa lý và nghi lễ...
phải thông suốt.
3- Đẹp
Trai, tướng hảo,
(32 tướng tốt 80 vẻ đẹp).
4- Trí tuệ.
5- Giới luật.
Đức Phật đã
loại bỏ ba tánh đức ở trên mà chỉ còn chấp nhận có 2 đức tánh ở dưới:
1- Trí tuệ.
2- Giới luật.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!