trọng tuyệt
vời, một lòng
tin yêu quý và tôn
trọng sâu sắc. Vọng ngữ chia làm bốn phần:
1- Nói dối.
2- Nói lời
hung ác.
3- Nói lưỡi
hai chiều.
4- Nói lật lọng.
NÓI DỐI CÓ
NHIỀU CÁCH:
a. Ca ngợi
khen tặng một
người nào mà người đó
chưa làm được như vậy, thì đó là
‚nói dối‛. Cách nói dối đó là nịnh bợ lấy lòng người trên. Ca ngợi việc
làm của người khác không đúng đạo đức mà nói đúng đạo đức là ‚nói láo‛.
b. Quý Hòa
Thượng chết trong
bệnh đau, khổ sở, mà bảo rằng thu
thần nhập diệt, đó là “nói láo”, vì các vị HT có biết cách nào thu thần nhập diệt
đâu?
c. Khi
nói sai
một điều gì
là có nói
láo. Như trong kinh Kim
Cang dạy: “Bồ Tát độ hết chúng sanh thì thành Phật” có nghĩa là một
người tu tập hết vọng tưởng thì thành Phật. Lời dạy trong kinh này
là nói láo,
vì khi hết vọng tưởng thì tâm sẽ
rơi vào trong “Không”, chứ không thành Phật. Phật chính là chỗ tâm bất động trước
các ác pháp
và các cảm thọ, chứ
không phải
tâm không niệm, tâm vô phân biệt, tâm vô trụ, v.v..
d.
Trong Tâm Kinh Bát
Nhã dạy: “Quán Tự Tại hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời chiếu kiến ngũ
uẩn giai không”.
Lời dạy như vậy là “nói láo”,
vì chưa thấy ai quán chiếu ngũ uẩn
giai không được.
Tổ Sư Tử chết oan vì
lời nói láo này. Trong các chùa ngày đêm bốn thời công phu
khuya sớm đều tụng Tâm
Kinh Bát Nhã mà chưa có thấy vị nào thoát khổ, như vậy kinh này nói láo.
e.
Không thấy, không
nghe mà nói thấy
nghe là nói dối.
f. Thấy,
nghe mà nói
không thấy, không nghe là nói dối.
g. Thêu dệt bịa đặt ra
để nói
xấu người khác là nói dối.
h. Nghi ngờ
nói ra không đúng sự thật
là nói láo.
i. Ca ngợi khen tặng không
đúng là nói
láo.
j. Thêm bớt, phao tin đồn ra nhiều, để cho
mọi người cười
chê một người nào đó. Đó là nói dối.
k. Ca ngợi
người khác không
đúng cách là nói dối.
l. Một người giới luật không nghiêm chỉnh
màø mang hình dáng
tu sĩ để
nói mình tu
sĩ là nói dối.
m.Với người
này nói xấu
người kia với người kia nói xấu người này là nói dối.
n. Trước mặt
người nói tốt
sau lưng người nói xấu là nói
láo.
o. Chê người
khác không đúng
cách có nghĩa chưa biết trình độ người ta ở
mức độ nào mà chê là nói vọng ngữ.
p. Chê giới
luật Phật lỗi thời là nói dối.
q. Chưa biết
người chứng quả A La Hán ra sao mà
chê A La
Hán còn tạp khí, còn
tranh chấp chê như vậy là nói dối.
r. Đặt ra nhiều quả vị A La Hán như trong kinh
sách Đại Thừa: 1- A La Hán Toàn Giác, 2- A La
Hán Độc Giác,
3- A La Hán Thanh
Văn, v.v.. Đó là nói láo, vì quả vị A La Hán là vô lậu; người nào tu tập
tâm vô lậu là người chứng quả A la Hán.
Quả A La
Hán không có cao
thấp; phân chia quả vị A La Hán cao thấp là tư tưởng phàm phu, tư tưởng người thế gian. Người chưa chứng quả
A la Hán
mà phân chia
quả A La Hán
là nói láo.
Cho nên khen
hay chê, phân chia không đúng sự thật đều có nói láo.
s. Nói một
việc mà người khác không hiểu bằng trí mà phải hiểu bằng tưởng là có nói láo.
Như nói
có linh hồn người
chết, nói có Phật
tánh, có
thế giới siêu
hình là nói
láo, vì đó là
cảnh giới tưởng, cảnh giới không có thật.
t. Nói
con người có ngã,
có thần thức
là nói láo. Xưa đức
Phật dạy: “Ta nói một điều
gì thì mọi người hiểu được,
biết được bằng ý thức thì ta không có nói láo. Còn ta nói một
điều mà mọi người phải
hiểu bằng tưởng
là có nói
láo trong ta”.
u. Nói Phật
tánh là tánh biết ngoài ý thức, tưởng thức và
tâm thức là
có nói láo,
vì ngoài ba thức của
thân ra, làm sao có
tánh biết nào khác nữa.
v. Nói có
cõi siêu hình thật sự nghĩa là nói
có linh hồn người
chết là nói
láo, chứ họ đâu
biết rằng linh hồn
người chết là do
trạng thái của tưởng uẩn của người còn sống
tạo ra.
w. Nói có
cõi Trời, cõi Cực Lạc là có nói láo vì đâu có cõi Trời, cõi Cực Lạc. Cõi Trời,
cõi Cực Lạc là cõi tưởng của con người tạo ra.
x. Nói cõi
người là cõi có thật thì cũng nói láo, vì cõi người là cõi duyên hợp, nên các
duyên có hợp thì lại
có tan, cho nên
sinh tử là
duyên hợp tan. Duyên hợp tan thì có cái gì là thật đâu
mà nói nó có
thật thì đó là nói láo. Tại sao vậy? Tại vì cõi người là cõi duyên hợp chứ
không có thật ngã. Nói
cõi người có thật là
nói trong tưởng, tưởng
như kinh sách của
tà giáo ngoại
đạo.
y. Nói con
người từ cõi Trời Quang
Âm Thiên tái sanh đến cõi
người là nói
láo, vì nói như vậy con người sẽ
tưởng ra chứ ý thức không thể hiểu được.
Cho nên đức
Phật dạy: ‚Ta nói những gì mà ý thức
con người hiểu được
là không nói láo, ngược lại
là có nói láo
trong ta‛. Nói ra một điều
gì mà mọi
người không hiểu hay hiểu một cách lờ mờ, không cụ thể,
rõ ràng là ta đã nói láo.
Một người
tu sĩ Phật
giáo chân chánh không bao giờ nói những lời trườn uốn như con lươn ‚vừa có vừa không‛ (sắc
tức thị không, không tức thị sắc), nói
như vậy là
nói láo, nói lừa đảo, nói lường gạt người. Chúng tôi
xin nhắc lại lời nói ở trên.
Bát Nhã Tâm
Kinh có câu:
‚Hành thâm
Bát Nhã Ba La Mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai
không‛, câu nói này là câu nói
láo. Vì bao đời,
từ khi có câu
kinh này, trong các chùa người ta đã
nhật tụng hằng ngày, mà ngũ uẩn của quý Thầy có không chưa?
Nếu ngũ uẩn
giai không sao quý Thầy
còn thấy đau bệnh khổ sở như vậy.
Nếu ngũ uẩn giai
không sao lại có chùa to Phật lớn
như vậy, nếu ngũ uẩn giai không sao quý Thầy còn tham, sân, si như vậy, rõ ràng
là câu kinh lừa đảo nói láo, lừa người.
Như kinh
Pháp Hoa dạy: ‚Dù cho tạo tội như
núi cả, Diệu Pháp Liên Hoa tụng mấy hàng‛, lời dạy này
là nói láo.
Có bao giờ đi trộm cướp giết người, bị tù tội, bị án tử
hình mà tụng kinh Pháp
Hoa mà ra
tù khỏi tử hình
chưa?
Thánh Đức Sa
Di không
nói vọng ngữ là
một đức
Thánh về khẩu nghiệp, nên khi nói ra một
điều gì, hay giảng kinh thuyết
pháp một loại kinh sách nào thì
phải nói nghĩa lý có kinh nghiệm tu hành chứng đắc của mình rõ ràng và cụ thể, là không nói láo, còn giảng
nói mà mình chưa làm được chưa
tu được mà dạy
cho mọi người là nói
láo, giảng nói
mà người ta thực
hành có kết quả giải thoát thật sự là nói thật, giảng nói mà người ta thực hành
không có kết quả là nói láo, đức Phật đã
xác định: ‚Pháp ta không có thời gian đến
để mà thấy‛. Đó là
đức Phật
đã xác định lời
Ta dạy là không nói láo.
Vì thế, sự
giải thoát phải đi đôi với sự thực hành
pháp, pháp như vậy mới
gọi là pháp không
nói láo. Cho nên pháp tu thiền định
của đạo Phật dạy rất rõ ràng: ‚ngăn ác, diệt ác pháp‛ là
pháp giải thoát
rõ ràng. Vì
ngăn ác diệt ác
pháp là có giải thoát
nơi tâm mình cụ
thể, rõ ràng.
Anh đã biết
ác pháp mà không biết ngăn diệt nó
là tự anh
không cứu khổ
anh. Phải không các bạn? Còn anh
biết ngăn diệt ác pháp thì anh sẽ hết khổ. Đó
là pháp dạy chân
thật không nói láo, vì pháp dạy tu tập ở
đâu thì ở đó có kết quả
ngay liền. Pháp dạy tu
tập như vậy là pháp dạy anh trở
thành những con người không nói vọng ngữ. Người giảng kinh thuyết pháp như vậy
là những bậc giữ gìn Thánh
Đức Sa Di Chân Thật.
Người tu chứng
quả A La Hán đi thuyết giảng làm giảng
sư dạy người tu tập
là không nói láo.
Người tu
hành chưa chứng quả A
La Hán đi thuyết giảng làm giảng sư dạy
người tu tập là nói láo, mặc dù dạy rất đúng nghĩa trong kinh sách nhưng vì
chưa có kinh nghiệm nên dạy người tu tập không kết quả giải thoát, do đó thành
ra nói láo.
Xưa đức Phật
còn tại thế, Người không cho những người tu
chưa chứng đi thuyết
giảng, vì tu chưa chứng
đi thuyết giảng
dạy người tu sẽ giết người hơn là độ người. Bằng chứng hiện
giờ như quý vị đã thấy, người tu theo Phật
giáo rất đông nhưng có mấy ai
đã làm chủ
sanh, già, bệnh, chết? Mà mọi người
phải tốn hao xây cất chùa, đúc tượng Phật hằng tỷ tỷ bạc và còn mất công sức tu
tập mà kết quả được những gì?
‚Pháp
Ta không
có thời gian đến
để mà thấy‛. Lời dạy này cho
chúng ta thấy pháp Phật rất thực tế và cụ thể. Bởi vì Pháp
tu tập có kết
quả ngay liền
như đức Phật
đã dạy:
‚Tâm có tham
biết tâm có tham… ‛. Nếu biết tâm mình
có tham thì biết
đó là ác
pháp, biết đó là ác pháp thì nên mau mau dừng lòng tham đó
liền là quý bạn sẽ được giải thoát ngay.
Phải không quý bạn?
Nếu biết
tâm mình có
sân thì bạn dừng ngay
lòng sân đó liền thì bạn sẽ được
giải thoát, còn ngược lại bạn không dừng tâm sân đó thì bạn phải khổ
đau. Có đúng như vậy không quý bạn?
Pháp của Phật
dạy tu tập như vậy có thực tế
không các bạn?
Thực tế thì
không nói láo,
phải không các bạn? Pháp dạy không thực tế như vầy: ngồi
ức chế tâm cho không vọng tưởng, niệm Phật nhất tâm, tụng kinh cầu khẩn, v.v..
có hết tham, sân, si không? Có cụ thể thực tế như Pháp ở trên không? Như vậy ngồi thiền ức chế tâm
không vọng tưởng, niệm Phật nhất tâm cầu vãng sanh, tụng kinh cầu khẩn chư Phật
gia bị tai qua nạn khỏi v.v.. là
pháp nói láo,
pháp không chân thật chỉ lừa dối người, làm cho hao tiền
tốn của phí sức vô ích.
Giới Đức
Thánh Sa Di Chân Thật đã xác định những
người giảng kinh, thuyết pháp
thời nay phần nhiều là nói láo. Họ nói láo vì họ nói ra mà chính
họ không làm được (chưa chứng). Kinh sách Đại Thừa dạy:
“Y giáo bất
y nhân”. Câu kinh này là câu kinh
che đậy sự nói láo của các ông giảng
sư. Bảo người khác
giữ giới mà mình
không giữ giới
là mình có
nói láo. Dạy người
khác tu chứng
quả Thánh mà
mình tu chưa chứng quả Thánh là
nói láo.
Tóm lại,
khi tu tập chưa xong thì nên im lặng như Thánh, tu tập chưa xong mà dạy
người tu là nói láo, cần phải cảnh giác những loại Thánh giả
này. Đó là
những hạng Bồ
Tát “dỏm”, Bồ Tát chuyên vọng ngữ.
Thánh Đức Sa
Di không
nói vọng ngữ, là
để xác định cho những người giới luật
tinh nghiêm. Họ là những
bậc Thánh Tăng,
Thánh Ni và Thánh cư sĩ, là đệ tử
chân chánh của đức Phật. Ngược lại,
những người phạm
giới phá giới, bẻ vụn giới
thường vọng ngữ
là Ma Ba Tuần đội lốt Phật giáo lừa đảo mọi người,
khiến cho Phật giáo mất gốc.
GIỚI
Đ ỨC SA
DI THỨ NĂM
:
KHƠNG UỐNG
RƯỢU
Không uống
rượu là một
THÁNH ĐỨC MINH MẪN. Người xuất
gia cũng như người tại gia cần phải học hiểu và sống đúng giới luật đức
hạnh này để không làm khổ mình khổ người và khổ cả hai.
Một người được
gọi là minh mẫn sáng suốt thì không
nên để thân
tâm đắm nhiễm
các ác pháp thế
gian như: thuốc
lá, cà phê,
chè (trà), cần sa, thuốc phiện và
bất cứ những loại rượu nào khiến cho người
ta say mê, nghiện
ngập, gây tác hại
cho thân bệnh tật và thần kinh căng
thẳng, rối loạn
làm cho con
người như ngây, như dại, v.v..
làm cho con người nghiện ngập bỏ không được.
Trong cuộc sống
của con người có rất nhiều pháp ác thế gian, khiến thân tâm chúng ta dễ đắm nhiễm
và say mê:
Rượu là một
chất nước độc uống vào kích thích cơ thể khiến
cho có những
hành động giống như những người
điên, cơ thể đi đứng
xiêu vẹo, ngã tới, ngã
lui, đụng đâu nằm đó
chẳng biết
dơ sạch, miệng nói ự ẹ! Lập đi lập
lại một
câu nhiều lần,
khiến cho mọi
người không ai kính trọng.
Người uống
rượu không phải là người khôn ngoan, mà là người ngu si đệ nhất.
- Thứ nhất
là họ mất tiền phải mua rượu.
- Thứ hai là
họ đem độc dược vào thân mà không biết, khiến
cho thân sinh ra nhiều
bệnh tật khó trị, khiến cho trí óc
ngu đần, không còn sáng suốt,
- Thứ ba biến
họ trở thành người chỉ còn biết
tham ăn, tham
nhậu, ưa đánh lộn,
thích chửi mắng vợ con và xóm làng.
- Thứ tư một
người say rượu có thể làm náo loạn cả thôn
xóm, mất trật tự an
ninh trong thôn xóm.
Một con người
bình thường uống rượu say mà còn mất giá trị thay, huống là một vị tu sĩ Phật giáo uống rượu
say thì còn giá trị
gì là một tu
sĩ giải thoát.
Giải thoát sao còn
uống rượu, nghiện rượu. Phải không các bạn?
Khi uống
rượu bị rượu
kích thích thần kinh, người say rượu
xem trời đất chẳng
ra gì, chỉ có mình là trên hết,
nên dùng những lời nói phách lối, cống
cao, ngã mạn, chửi mắng thiên hạ,
la lối om sòm,
dùng những lời lẽ kém
văn
hóa thiếu đạo đức,
mất lịch sự rất thô tục:
“Thằng, mày,
nó, chửi thề thô tục v.v.. ”.
Một tu sĩ Phật
giáo là một vị Thánh Tăng mà tay cầm
ly rượu hay
lon bia uống
thì còn nghĩa lý gì là một tu sĩ của Phật giáo, còn nghĩa lý gì là một vị
Thánh Tăng đệ tử của Phật nữa?
Người đời cầm
ly rượu uống người ta còn thấy người ấy là người không minh mẫn, không
sáng suốt, ngu
si, là người
thiếu đạo đức với
mình. Uống độc dược vào
thân để tự
làm khổ mình mà
không biết, hành động như vậy là hành động của người điên, người mất trí.
Người ta bảo
rằng: mấy ông Tiên hay uống rượu (Tiên tửu). Lời nói này có đúng không?
Lời nói này
là theo sự tưởng nghĩ của con người cho
rằng người nào hưởng đầy đủ dục lạc thế
gian mà không
phải đổ mồ
hôi nước mắt làm ra vật chất (sướng như Tiên). Cho nên
Tiên là sự tưởng
nghĩ, chứ thực sự những
người bỏ đời vào núi tu hành thì
rượu ở đâu trong núi có mà uống?
Ai làm ra rượu cho
các ông Tiên uống? Tiên chỉ là một sự tưởng tượng của
con người.
Thánh Đức
Minh Mẫn xác định cho chúng ta thấy Thánh, Tiên, Phật là những người sáng suốt minh
mẫn. Những người
sáng suốt minh
mẫn mà lại uống
rượu thì có còn
sáng suốt minh mẫn không?
Tiên mà còn uống rượu
thì đâu còn nghĩa là
Tiên, mà là kẻ
phàm phu tục tử tham
ăn, tham uống. Tiên là những người
thân tâm phải thanh tịnh, thông
minh và sáng
suốt, nên có ngu gì mà uống rượu.
Tiên mà còn
đắm chìm trong men rượu thì không thể gọi
là Tiên nữa
mà gọi là những
người ngu. Người
ngu mới nghiện
ngập, mới làm cho thân mình khổ sở. Người uống rượu đâu có sung sướng gì.
Phải không quý bạn? Chỉ làm khổ cho
thân mình, cho vợ
con, cho cha mẹ. Rượu đắng
và cay, gây ra nhiều
thứ bệnh tật khổ đau, v.v..
Người đời
không biết cho Lý Bạch là Tiên. Sự thật Lý Bạch chỉ là một nhà thơ rượu. Có uống
rượu thì làm thơ, không uống rượu thì không làm thơ được.
Trong kinh
Phật đã dạy:
có năm tiêu chuẩn
làm người, mà uống rượu
là một tiêu chuẩn để không xứng đáng làm người. Người
uống rượu là người chưa xứng đáng
làm người. Cho nên nói đến Tiên
là phải nói đến một con người hơn con
người. Thế mà
Tiên còn uống rượu, còn uống rượu
thì chưa xứng đáng
làm
người, thì làm
Tiên sao được. Phải không các
bạn?
Người ta so
sánh thú vật, người, Thánh, Tiên, Phật là ở
chỗ đức hạnh. Tiêu chuẩn đức hạnh mới xác định được cụ thể ai là thú vật,
ai là người, ai là Thánh, ai là Tiên và ai là Phật. Giới Đức
Minh Mẫn Thánh Sa Di
đã xác định được điều này.
Cho nên đạo
Phật đã biết lấy Giới luật mà xác định và
phân loại: Làm người
như thế nào mới thật sự là người,
làm Tiên như thế nào mới thật sự là
Tiên, làm Thánh như thế nào mới
thật sự là Thánh và làm Phật như thế nào mới thật sự
là Phật. Người
làm thú vật
thì dễ, nhưng làm người không phải
dễ, nên Khổng Tử nói: ‚Vi nhân nan, vi nhân nan‛, nghĩa là “Làm người khó, làm
người khó”. Làm Thánh, Tiên, Phật thì còn khó gấp trăm ngàn lần.
Tiểu chuẩn ấy
đạo Phật đã xác định qua hành động sống hằng ngày
như vậy, ai làm
khác mà
gọi họ là Người,
Thánh, Tiên và Phật là lừa đảo người.
Cho nên đứng
trong tiêu chuẩn của Phật giáo mà xác định thì kẻ nào mạo nhận mình là Người, Thánh, Tiên, Phật, chúng ta đều biết
thứ
giả, thứ thật.
Không thể có ai lừa dối chúng ta được. Phải không các bạn?
Mười Giới Đức Thánh
Sa Di xác định cho chúng ta biết rất rõ những người tu
sĩ giả và những người tu sĩ thật trong Phật giáo.
Người tu sĩ
Phật giáo mà chỉ vi phạm một giới
trong mười Giới Đức Thánh
Sa Di này thì người
ấy không phải
là tu sĩ Phật giáo
mà là Ma Ba Tuần đội lốt Phật
giáo. Họ đang tu danh, tu lợi, tu dục lạc thế gian, tu chùa
to Phật lớn v.v.. Phật tử cần lưu ý để tránh xa.
Chúng tôi
xin nhắc lại, một vị Thánh Tăng còn bưng
ly rượu hay lon bia uống thì còn gì thể thống của một vị Thánh Tăng, cũng như một
vị Thánh Tăng cầm một điếu
thuốc lá hút thì còn nghĩa lý gì Thánh Tăng, là đệ tử của đức
Phật. Phải không quý vị?
Thế mà
có một vị
HT, giảng sư, nói
rằng:
‚Phật giáo
dạy: cho phép
uống rượu, nhưng uống rượu đừng
say‛. Lời dạy này là của ma, chứ
giới cấm của Phật giáo không cho phép
người cư sĩ uống
rượu huống là
tu sĩ. Vậy mà HT
này dám dạy
như vậy trước
đông đảo Phật tử thọ Tam
Quy, Ngũ Giới.
Thật là đau lòng!
Đức Phật cấm uống
rượu, vì rượu
là một thứ nghiện
ngập khiến cho mọi
người dễ đắm mê. Ngoài rượu ra nhưng chúng ta phải hiểu
có những thứ nghiện ngập khác như: thuốc lá, chè (trà), cà phê, thuốc phiện
v.v.. tuy rằng Phật không cấm nhưng
chúng ta nên biết đó cũng là những thứ độc dược gây
ra bệnh tật cho cơ thể mang đến sự khổ
đau cho chúng ta. Cho nên, một vị tu sĩ Phật giáo mà cầm điếu
thuốc lá hút phà khói mịt mù thì còn có giá trị gì
là một
tu sĩ Phật giáo,
một vị Thánh
tăng. Phải không các bạn?
Một vị Thánh
Tăng không thể còn đắm nhiễm những thứ độc dược này, vì đắm nhiểm những thứ độc dược này
thì oai nghi tế hạnh
của một
tu sĩ Phật
giáo không cho
phép họ ngang nhiên
sống bừa bãi
trên những thứ nghiện ngập này.
Một vị
Thánh Tăng là phước điền của tất cả chúng sanh. Tướng phước điền ấy mà hút
thuốc lá, uống rượu thì còn gì là phước điền của
ai?
Đã không
làm Tăng, Ni thì thôi,
một khi đã làm
Tăng, Ni thì phải giữ
cho đúng tư cách của
một vị Tăng,
Ni, đừng làm sai
khiến người ta phỉ
báng Phật pháp,
chê cười Phật
giáo thì tội ấy về ai?
Cho nên,
Tăng, Ni hiện giờ phạm giới thì phải chịu tội đọa
địa ngục. Trước giờ chết họ phải thọ lấy những cơn bạo bệnh, những bệnh
ngặt nghèo, đau đớn không
cùng. Đừng bảo rằng trả nghiệp, dồn nghiệp. Tăng, Ni là
những bậc Thánh thì phải
‚chuyển nghiệp‛, chuyển nghiệp
thì làm sao có thọ khổ như vậy? Lời nói: trả nghiệp, dồn nghiệp, chỉ là lời nói
lừa đảo để che đậy tội lỗi của mình với
những người khác.
Người cư sĩ
giữ gìn trọn vẹn năm giới, đến khi chết người ta còn biết ngày, giờ ra đi, bệnh
đau sơ
sơ, nhẹ nhàng,
chết trong êm thấm
không có nhiều khổ đau. Còn ngược lại Tăng, Ni sống phá
giới, phạm giới,
đánh mất hết
oai nghi Thánh hạnh,
làm cho Phật Pháp
suy đồi, do đó khi chết phải
trả quả khổ
đau tận cùng. Vì thế, cảnh
tượng đau khổ kinh khiếp
của các vị Hoà Thượng, Thượng Tọa,
Đại Đức Tăng, Ni trước khi chết đều phải trả quả đau khổ.
Gương
Tăng, Ni đi trước phạm
giới bị quả báo để răn nhắc cho Tăng, Ni đi sau phải
cố tránh, đừng để xe lăn vào vết xe đổ.
Rượu, thuốc
lá, v.v.. có mập béo gì màø lại đắm nhiễm? Rượu, thuốc lá, thuốc phiện v.v.. là
những thứ độc dược mà mọi người
cần phải tránh xa.
Còn thích rượu,
thuốc lá, v.v..
thì đừng nên xuất gia làm Tăng, Ni.
Tăng, Ni là
những bậc Thánh
đệ tử của Phật
thì rượu, thuốc lá và các thứ đắm
nhiễm khác phải từ bỏ, xa lìa thì mới xứng đáng là Tăng, Ni.
Không làm đệ tử của Phật thì thôi, còn đã làm đệ tử của Phật thì phải
xa lìa, phải từ bỏ
các thứ dục lạc dễ đắm nhiễm đó.
Kính thưa các bạn Tăng, Ni và nam nữ cư sĩ! Những
Thánh Đức Giới Hạnh
của Phật
đã dạy thì chúng ta phải tôn trọng, không
được xem thường, luôn luôn phải chấp hành nghiêm chỉnh không
được vi phạm, nhất là giới cấm uống
rượu thì phải chấp
hành triệt để
không được uống rượu, hút thuốc lá, v.v..
Thánh Đức
Minh Mẫn của một vị Thánh Tăng,
Thánh Ni và Thánh
Cư Sĩ đệ tử của đức Phật,
là chúng ta cần phải
thông minh, trí tuệ sáng suốt để ngăn và diệt các ác pháp
này.
Trí tuệ
thông minh của đạo Phật,
không hẳn là tri kiến
hiểu biết nhiều
sự việc mênh mông,
mà còn là tri
thức hiểu biết không làm khổ
mình, khổ người
và khổ chúng sanh.
Người không
uống rượu là người có sự hiểu biết không làm khổ mình, không làm khổ người
và không
làm khổ cả
hai, đó là
người minh mẫn, là người sáng suốt.
Thánh Đức
Minh Mẫn giúp cho mọi người không còn
ngu si để đắm
mê hút thuốc
lá và uống rượu nữa.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!