3- Lớp Chánh
Định là giai đoạn thứ ba tu tập THIỀN ĐỊNH. Thiền định có tên là TỨ THÁNH ĐỊNH.
Tứ Thánh Định gồm có:
1. Sơ Thiền
2. Nhị Thiền
3. Tam Thiền
4. Tứ Thiền
Khi nhập Tứ Thiền
xong thì ngay đó tuệ Tam Minh xuất hiện
cho nên Tuệ Tam Minh không tu mà có. Tại sao vậy?
Chúng ta hãy
lắng nghe lời Phật dạy cho kỹ: “GIỚI SANH ĐỊNH, ĐỊNH
SANH TUỆ” để khỏi bị tà giáo lừa đảo.
Như vậy
con đường tu tập của Phật
giáo xác định rất rõ
ràng, không thể
tà giáo ngoại đạo xen lẫn, pha trộn vào được. Vì nó
là một chương trình giáo dục đào tạo đức hạnh làm Người làm Thánh. Vậy mà, Giáo
pháp của Đạo Phật hiện giờ toàn là giáo pháp của ngoại đạo mới kỳ lạ. Chương
trình giáo dục
đào tạo không còn nữa, giáo
trình giáo án lộn xộn, không lớp lang thứ tự, chỉ còn là một tạng kinh hỗn tạp;
một tạng giới không nêu rõ giới đức, giới
hạnh, giới hành,
còn tạng luận
thì luận
trên trời dưới
đất khiến cho người tu tập chẳng biết đường, như lạc vào trong rừng sâu.
Nhìn lại
giáo pháp Đại Thừa và Thiền
Tông thì chúng ta phải giật
mình và phải
cúi đầu thán phục
các bậc Tổ Sư
Bà La
Môn. Họ thật là
khéo léo tuyệt
vời, đưa giáo pháp của
mình, biến thành giáo
pháp của Đạo Phật mà tất
cả vừa là cư
sĩ, vừa
là tu sĩ của Phật
giáo đều là những người có học thức,
kể cả người có trình độ kiến thức Tiến sĩ, vậy mà không hề có một người
nào hay biết. Mãi cho đến hôm nay, nếu
chúng tôi tu tập không
thực hiện được lời
dạy của đức
Phật thì muôn
đời ngàn kiếp không còn ai vạch trần ra được cái sai
này, cái khéo léo thiện xảo rất tinh vi này, biến Đạo Phật thành
đạo Bà La
Môn mà không hề ai
biết. Vả
lại, tín đồ Phật
giáo lại còn tiếp tay với
Bà La Môn
làm mất đường
lối, chương trình giáo dục
đào tạo tu học đạo đức chân chánh của Phật giáo mà không ai để ý. Thật là đau lòng. Phải không các bạn?
Kính thưa
các bạn! Pháp
môn của Phật giúp
cho mọi người tu tập giải thoát
tuyệt vời như vậy.
Thế mà bây giờ, nhìn lại tu
sĩ Phật giáo chẳng
còn gì là
tu sĩ Phật
giáo, chỉ là những tu sĩ Bà La Môn phạm giới, phá giới, bẻ
vụn giới. Nghĩ
đến đây, chúng tôi xúc động vô cùng, thương cảm người cha lành đã hy sinh
cả cuộc đời mình, để lại cho đàn
con những lời dạy tâm huyết. Thế
mà bây giờ
còn gì đâu!
Biết làm sao hỡi các bạn!? Chỉ còn lại một mớ ngôn ngữ học
danh học lợi ngoài đầu
môi chót lưỡi để lừa đảo thiên hạ, sống trên mồ hôi nước
mắt của mọi người. Thật đáng trách phải không các
bạn?
Khi đức Phật
tu tập xong và
tìm thấy sự giải thoát thật sự,
Ngài dùng những lời dạy và hành động (Quỳ xuống đảnh lễ giáo pháp) hết sức chân
thành và yêu
thương loài người
tận trong đáy lòng
sâu thẳm: “TA
HÃY CUNG KÍNH, ĐẢNH LỄ VÀ SỐNG Y CHỈ PHÁP ẤY”.
Lời dạy này gây cho chúng ta một lòng tin sâu sắc; lời dạy
này làm cho
trái tim chúng tôi rung động trước lòng yêu thương vô bờ bến
của đấng cha lành.
Hôm nay,
chúng tôi tu hành xong đọc lại những lời dạy
này, chúng tôi
xúc cảm không cầm được giọt nước mắt của mình. Vì nghĩ đến lòng thương
yêu như trời
biển của đức Phật.
Lòng yêu
thương ấy không
thể lấy gì
mà so sánh được. Nhạc sĩ Y Vân so
sánh lòng thương yêu của mẹ đối với
con như biển Thái
Bình:
“Lòng mẹ thương con như biển Thái Bình rạt
rào ...”. Nhưng
lòng thương chúng
sanh của đức Phật dù đem bốn biển so sánh cũng không sánh được.
Ngài cung
kính, cúi đầu đảnh lễ và sống y chỉ pháp ấy, khiến cho chúng ta
không bao giờ quên được ơn nghĩa này. Không quên được ơn nghĩa này thì phải
luôn luôn nhớ đến “GIỚI, ĐỊNH, TUỆ”.
Chỉ có “Giới, Định,
Tuệ” mới giúp chúng ta làm chủ sanh,
già, bệnh, chết
và chấm dứt tái
sanh luân hồi;
chỉ có “Giới,
Định, Tuệ” mới giúp
cho chúng ta tu tập không
còn sợ tu sai pháp, lạc vào tà pháp của ngoại đạo. Ngoài giới luật ra không
còn giáo pháp nào dạy chúng ta tu hành giải thoát chân chánh nữa.
Hỡi các bạn!
Các bạn nhớ ơn Phật thì các bạn hãy mạnh dạn chỉ thẳng những
gì sai không đúng giáo pháp của Phật giáo;
những gì không đúng giới
luật của Phật để chấn
chỉnh lại Phật giáo
thì đó là các bạn
đã đền đáp ơn Phật.
Õ
ĐỨC PHẬT
KHUYÊN TU TẬP BỐN TINH CẦN
LỜI PHẬT DẠY
“1- Tinh cần
chế ngự
2- Tinh cần
đoạn tận
3- Tinh cần
tu tập
4- Tinh cần
hộ trì”.
CHÚ GIẢI:
Bốn tinh cần
là gì?
Bốn tinh cần
là bốn pháp
môn mà người đệ tử của Phật cần phải siêng năng tu tập
hằng ngày, không được biếng
trễ, cũng giống
như ngày nào chúng ta cũng phải ăn cơm uống nước
vậy.
Bài
tu tập thứ nhất: TINH CẦN
CHẾ NGỰ. Vậy tinh cần chế ngự nghĩa là gì?
Muốn hiểu
bài học thứ nhất thì chúng
ta phải hiểu những chữ tinh cần và chế ngự cho rõ ràng. Vậy tinh cần có
nghĩa là gì?
Tinh cần có nghĩa là siêng năng, chuyên cần, giờ
nào cũng làm việc không nghỉ ngơi.
Chế ngự
nghĩa là gì?
Chế ngự
có nghĩa là
ngăn chặn, không làm theo.
Ở đây, đức Phật dạy chúng ta tinh cần chế ngự,
có nghĩa là bảo chúng ta “tu tập phải từng giây, từng phút, từng sát na siêng
năng, chuyên cần liên tục, không được biếng
trễ, không được gián đoạn sự ngăn chặn, không được làm theo lòng ham
muốn và tâm
hung ác của
chính mình” tức là hằng ngày phải siêng năng, tinh cần ly dục ly ác
pháp.
Để cho hiểu
dễ dàng hơn
thì cần phải có những ví dụ:
1) Khi tâm
chúng ta khởi
muốn ăn phi thời thì ngay đó chúng ta ngăn chặn quyết liệt không cho ăn.
Ngăn chặn quyết liệt không cho ăn, đó là chế ngự lòng tham muốn (dục) hay nói
cách khác là ly dục về ăn.
2) Chưa đến giờ
đi ngủ mà
thân tâm bị hôn
trầm, thùy miên
muốn đi ngủ.
Chúng ta
muốn ngăn chặn
sự buồn ngủ, không làm theo nó, liền đi kinh hành làm cho thân tâm không ngủ được, ấy
là chế ngự
tâm ham muốn
ngủ, hay nói cách
khác là ngăn
chặn sự buồn
ngủ. Đi kinh hành ngăn
chặn sự buồn
ngủ tức là tinh cần chế ngự lòng ham muốn ngủ của
mình và như vậy gọi là ly dục ly ác pháp.
3) Ngồi một
mình cô đơn trong thất muốn đi nói chuyện
cho vui với người khác, ngay đó chúng ta liền ngăn chặn không đi nói chuyện.
Ngăn chặn không đi nói chuyện, tức là chế ngự lòng ham muốn vui
chơi của mình.
Chế ngự lòng ham muốn vui chơi của
mình tức là ly dục ly ác pháp.
4) Khi
tâm muốn
đi làm một việc gì mà việc
ấy phi thời
thì phải ngăn chặn
liền, sự ngăn chặn
không đi làm
là chế ngự
tâm mình hay nói cách khác là ly
dục ly ác pháp.
Tóm lại, lời dạy này
khuyên nhắc chúng ta
muốn tu tập được
giải thoát ra khỏi
sanh, già, bệnh, chết
thì phải thường
hằng siêng năng ly dục ly ác
pháp. Đó là “TINH CẦN CHẾ NGỰ”
tâm dục và ác
pháp. Đây là bước đầu tu
tập căn bản nhất của Phật giáo mà người tu sĩ và người cư sĩ
nào muốn tu tập cũng phải khởi sự
từ nơi đây.
Đó cũng là
phương pháp tu tập
để xây dựng cho mình
một nền tảng đạo đức nhân
bản – nhân
quả làm người.
Không làm khổ mình,
khổ người. Đó
là một phương pháp tu tập thiền định xả tâm, xả đến
đâu là có giải thoát đến đấy; xả đến đâu là có tâm thanh tịnh đến đấy. Do tu tập
thiền định kết quả như vậy nên đức Phật dạy: “Pháp
ta không có thời gian đến để mà thấy”.
Bài học thứ
hai: TINH CẦN ĐOẠN TẬN.
Vậy tinh cần
đoạn tận như thế nào?
Khi tâm tôi
có tham, tôi biết tâm
tôi có tham tức
là biết tâm
có dục. Biết
tâm có dục thì ngay đó tôi phải siêng năng làm cho nó hết dục. Làm
cho nó hết dục tức là đoạn tận.
Theo phương
pháp đoạn tận tâm tham đức Phật dạy: “Do vậy, này các
Thầy Tỳ Kheo, nếu các Thầy mong rằng
ly dục ly ác pháp, các Thầy sẽ chứng đạt
an trú Thiền Thứ Nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh có tầm, có tứ thì Định Niệm
Hơi Thở vô, hơi thở ra cần phải
được khéo tác ý”. Ở
đây hơi
thở vô, hơi thở ra cần
phải được khéo tác ý như thế nào?
Chúng ta
hãy nghiên cứu lại pháp
môn
Định Niệm
Hơi Thở thì sẽ rõ.
Trong Định
Niệm Hơi Thở
Phật dạy: “Quán ly tham tôi biết tôi hít
vô, quán ly tham tôi biết tôi thở
ra”. Đó là một phương
pháp đoạn tận tâm tham
tuyệt vời, nếu
ai tin tưởng giữ
gìn giới luật nghiêm
chỉnh thì nương vào
hơi thở mà tác ý như vậy thì chúng tôi bảo đảm với
quý vị sẽ có kết quả ngay liền.
Với tâm
sân, quý vị
cũng nên nương
vào hơi thở mà
tác ý như vậy: “Quán ly sân
tôi biết tôi hít vô,
quán ly sân
tôi biết tôi thở
ra”.
Với tâm si,
quý vị cũng nên nương vào hơi thở mà tác ý: “Quán ly si tôi biết tôi hít vô, quán ly si tôi biết tôi thở ra”.
Muốn cho tâm
được định tỉnh không
còn bị hôn trầm,
thùy miên thì quý
vị cũng nên nương
vào hơi thở
mà tác ý: “Với tâm định
tỉnh tôi
biết tôi hít
vô, với tâm định
tỉnh tôi biết tôi thở ra”.
Với tâm
phiền não, lo lắng, sợ
hãi, v.v.. thì quý vị
cũng nên nương vào
hơi thở mà tác
ý: “An tịnh toàn
tâm tôi biết tôi hít vô,
an tịnh toàn tâm tôi biết tôi thở
ra”.
Trên đây
là phần tinh cần
đoạn tận về tâm, còn về thân thì
tinh cần đoạn tận như thế
nào?
Mỗi khi thân
có đau nhức hay bệnh tật thì cũng
nên an trú
vào hơi thở
mà tác ý: “An
tịnh toàn thân tôi biết
tôi hít vô,
an tịnh toàn thân tôi biết tôi thở
ra”. Cứ bền chí mà tác ý như vậy đến chừng nào thân không bệnh, không còn đau
khổ nữa mới thôi.
Những lời dạy
trên đây các bạn có tin không? Nếu tin thì có
lợi ích cho các bạn, còn
không tin thì các bạn sẽ tốn tiền thuốc
thang và chịu nhiều đau khổ.
Do sự đau
khổ, phiền não
thân tâm của quý bạn nên đức Phật dạy: “TINH CẦN ĐOẠN
TẬN”. Nếu quý bạn tinh cần đoạn tận thì
sự an vui và hạnh phúc sẽ đến với các bạn.
Trước khi muốn
đoạn tận các sự phiền não và tất cả bệnh khổ
đau nơi thân tâm của quý bạn thì quý bạn hãy tu tập cách thức an
trú cho được trong hơi thở,
trong bước đi hay
hơi thở, nói cách
khác tổng quát
hơn là an
trú trong thân hành của các bạn.
Khi an trú được thì bạn mới đẩy lui được
các chướng ngại pháp. Đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân tâm, tức là làm
cho thân tâm
của quý bạn được an ổn và thanh tịnh.
Do làm cho
thân tâm được an
ổn và thanh tịnh,
đó là một điều lợi ích rất
lớn mà đức Phật thường nhắc nhở
chúng ta nên “TINH CẦN ĐOẠN TẬN MỌI KHỔ ĐAU”. Đó là một phương pháp
tu tập rất thực tế
và có lợi
ích thiết thực ngay liền mà trong kinh Tứ Niệm Xứ đã dạy:
“Trên thân quán
thân để khắc phục tham ưu. Trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu.
Trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu ...”.
Bài học thứ ba: TINH CẦN TU TẬP. Vậy
tinh cần tu tập như thế nào?
Như chúng ta
đã biết những pháp môn mà đức Phật đã dạy gồm có:
1/ Mười tám
đề mục Định Niệm Hơi Thở.
2/ Định Vô Lậu.
3/ Định
Chánh Niệm Tỉnh Giác.
4/ Định Sáng
Suốt.
5/ Tác ý đẩy
lùi các chướng ngại pháp trên
Tứ Niệm Xứ.
6/ Tu Tập
Thân Hành Niệm.
Trên đây
là những pháp
môn cần phải siêng
năng tu tập từng giây,
từng phút, từng
giờ không được
phí bỏ những giây phút nào cả. Có tinh cần tu tập như vậy thì chúng
ta mới “CHẾ NGỰ”, mới “ĐOẠN TẬN”
được lòng ham muốn, mọi ác pháp, mọi khổ đau của kiếp làm người.
Lời dạy thứ
ba trên đây, rất là quan trọng cho việc chế ngự và đoạn tận tâm dục và các ác
pháp. Có chuyên cần tu tập các pháp môn trên đây thì mới
đủ năng lực chế ngự
và đoạn tận tâm dục và các ác
pháp. Nó lưu xuất từ trong thân tâm, do các pháp ác bên ngoài tác dụng
vào. Nhờ
năng lực tu tập của
các pháp môn trên, chúng ta mới có đủ khả năng đẩy lui
các chướng ngại pháp,
thì thân tâm chúng
ta mới an trú được. Nếu
không tu tập
các pháp trên đây thì chẳng bao giờ chế ngự và đoạn tận
các chướng ngại pháp được.
Cho nên, sự
tinh cần tu tập các pháp môn là điều quan trọng để tạo ra năng lực buông xả rất mạnh
và nhanh chóng.
Muốn tu tập đạt
được kết quả tốt
như vậy thì cần
phải siêng năng tu tập không được
biếng trể. Tu tập các pháp giống như hằng ngày chúng ta ăn cơm và uống nước vậy.
Bài học thứ
tư: TINH CẦN HỘ TRÌ. Vậy
tinh cần hộ trì như thế nào?
Trong thân
chúng ta có sáu căn:
1- Mắt
2- Tai
3- Mũi
4- Miệng
5- Thân
6- Ý
Sáu chỗ
này là sáu cửa ra
vào của sáu trần, nếu người tu hành không cảnh giác cẩn
thận thì giặc sanh tử sẽ
lén vào và
làm cho tâm bất
an. Vì thế,
Phật dạy: “Phải
siêng năng luôn luôn hộ trì các căn”.
Vậy, chúng
ta phải giữ gìn cửa nào trước trong sáu cửa này?
Mắt:
Là cửa thành
thứ nhất mà
chúng ta phải giữ gìn trước nhất, vì sắc tướng của sáu trần lúc
nào cũng có,
nên nó sẽ
theo cửa mắt mà
vào thành. Mắt được
xem là
cửûa ải Tam quan. Cửa
ải Tam quan là
cửa ải địa đầu
của đất nước, nếu một khi cửa
ải này mất
thì đất nước bị lung lay. Cũng vậy, nếu mắt bị sắc xâm chiếm thì thân
tâm bị dao động.
Cho
nên, luôn phải
giữ gìn mắt. Vậy giữ gìn mắt như thế nào?
Muốn giữ gìn
mắt tức là phòng hộ mắt thì phải chấp nhận sống độc cư, không
tiếp duyên ra ngoài. Lúc ở trong
thất cũng như lúc đi ra ngoài luôn luôn phải hướng tâm nhắc mắt phải nhìn vào
trong thân; phải
thấy bước chân
đi, khi đi đứng; phải
thấy hơi thở ra
hơi thở
vào, khi ngồi. Nếu hộ trì mắt được như vậy thì mắt không dính sắc trần
thì mắt thanh tịnh, còn không phòng hộ được như vậy thì mắt dính sắc, mắt dính sắc thì tâm
phóng dật, tâm
phóng dật thì phá hạnh độc cư, phá
hạnh độc cư, thì tâm có tinh cần tu tập pháp
gì thì cũng không kết quả, tâm tu
tập không kết quả thì không có năng lực, không
có năng lực
thì không đoạn tận dục và
ác pháp, không
đoạn tận dục và ác pháp thì không còn cách nào chế ngự được
tâm. Và như vậy thì thân tâm của chúng ta sẽ chẳng bao giờ thoát khổ.
Tóm lại, giữ
gìn mắt rất cần
thiết cho sự tu tập bốn điều
tinh cần ở trên
mà một người quyết tâm tu tập làm chủ sanh, già, bệnh,
chết thì không thể thiếu
được. Trong bốn điều
tinh cần, điều nào
cũng cần thiết,
cũng cần phải siêng năng tu tập. Nhưng phải thấy điều
thứ tư là quan trọng bực nhất, đó
là hộ trì các
căn. Mà hộ trì căn mắt là một điều quan trọng hơn
các căn
khác, như những người
lính giữ cửa ải
quan.
Tai:
Là căn thứ
hai cũng không
kém quan trọng. Phòng hộ tai phải như thế nào?
Phòng hộ
tai khi ở trong
thất cũng như lúc
đi ra ngoài, phải
tác ý nhắc
tai phải nghe vào tiếng chân bước đi, khi đi; tiếng
hơi thở ra, tiếng hơi thở vô, khi ngồi. Có phòng hộ tai như vậy tai mới không
dính mắc thinh trần, tai không dính mắc thinh trần thì tai thanh
tịnh, tai thanh tịnh
thì tâm thanh tịnh.
Tai thanh tịnh thì tu
các pháp mới
có năng lực,
có năng lực thì mới
đoạn tận, mới chế ngự dục
và ác pháp. Nhờ
đó con đường tu tập mới
làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Mũi:
Là căn thứ ba
là mũi,
vậy phòng hộ mũi như thế nào?
Mũi thường
hay ngửi mùi, tức là
hương trần. Hương trần gồm có:
1- Mùi thơm
2- Mùi thối
Mũi ngửi
mùi thơm sanh ra ưa thích, gặp mùi thối thì không ưa thích.
Nghe mùi
thơm của thực phẩm thì con người sanh ra dục muốn ăn. Nghe mùi thối của
phân, phẩn
thì con người
bịt mũi đi
tránh không ưa.
Con người
đem dâng cúng thực phẩm cho Phật khi Phật tịch là sai, vì thực phẩm của con người ăn
là bất tịnh
chỉ nuôi thân tứ đại bất
tịnh. Cho nên, chư Phật nghe mùi thực phẩm của con người ăn là hôi thối.
Chim ó,
Chim kên kên
và loài chó
nghe mùi thịt thối thì cho là thơm, ưa thích. Còn con người cho là thối,
không ưa thích.
Tính chất của hương trần, loài này
cho là thơm, nhưng loài khác cho là thối. Còn cách tu như thế nào đối trị
với hương trần?
Đối trị với
hương trần mùi thơm cũng như mùi thối, luôn luôn lúc nào cũng phải phòng hộ
mũi. Phòng hộ mũi bằng cách tác ý
hướng dẫn mũi ngửi vào
trong thân, thân
hành nội (hơi thở) và thân hành ngoại (kinh hành).
Thơm cũng không khởi
dục tham đắm,
thối cũng không trốn
chạy, chỉ có duy
nhất
siêng năng cần mẫn liên tục tác ý
dẫn mũi ngửi vào trong thân cũng
giống như dẫn
tai và mắt vậy. Có dẫn tai, mắt, mũi như vậy thì mới tu tập
nhiếp phục tâm mình
được và tâm mới
an trú được trong
thân hành tức
là tâm định trên
thân. Nhờ sống hộ trì
mắt, tai, mũi được như
vậy,
nên tâm
tu tập mới
có đầy đủ
năng lực để chế ngự, đoạn tận dục và ác pháp, v.v..
Tinh cần hộ trì mắt, tai, mũi như vậy chưa đủ mà
còn phải tiếp tục hộ trì các căn khác nữa như: miệng, thân và ý.
Miệng: Là
căn thứ tư vậy hộ trì
miệng như thế nào?
Hộ trì miệng
có hai phần:
1- Hộ trì miệng
về ăn, uống.
2- Hộ trì miệng
về nói.
- Hộ trì miệng
về ăn uống thì không được ăn uống phi thời,
ăn uống phải có tiết độ, phải đúng giờ giấc,
ăn uống không
được ham thích ăn ngon, ăn uống phải biết quán thực phẩm
bất tịnh để sanh
tâm nhàm chán.
Ăn uống phải sáng
suốt, tư duy: ăn
để sống chứ không
phải sống để ăn. Ăn để sống,
sống để tu hành,
để thân tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Ăn để sống,
sống để hộ trì các
căn không cho dục và các ác pháp
tác động sai khiến hoặc xâm chiếm, làm khổ mình
làm khổ người
và tất cả chúng
sanh. Ăn để sống, sống để
làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi tái sanh, chứ không phải ăn
để sống, sống chạy theo dục lạc, để chấp nhận đời
sống phải chịu
nhiều khổ
đau. Ăn để sống,
sống để làm chủ thân tâm, khiến cho thân tâm bất động trước
các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải để tranh luận hơn thua, để tranh đua về ăn uống, để tranh chấp về danh, lợi hơn thiệt ở đời. Ăn để
sống, sống để biết thương yêu mọi người, để giúp đỡ mọi người bất hạnh
trong xã hội, để an ủi, chia sẻ những
nỗi thương đau, những
nỗi mất mát mà con
người đang, sẽ phải
chịu. Ăn để sống, sống để thấy
trách nhiệm bổn phận
đạo đức làm người
không nên làm khổ mình, khổ người, chứ không phải ăn để sống, sống để vì sự sống của
mình mà chà đạp lên sự sống của bao nhiêu người khác và loài vật
khác... Đó là cách hộ trì
miệng về
ăn uống, mỗi
khi ăn uống chúng ta đều phải nhớ những lời dạy này.
- Hộ trì miệng về
lời nói, không
được nói những lời thiếu
chân thật, xin đọc lại
Thánh đức chân thật
trong Mười Giới
Thánh Đức Sa
Di.
- Hộ trì miệng
về lời nói
thì không được nói lời hung dữ;
không được chửi mắng, nạt nộ, hăm dọa người khác; không được la lớn tiếng,
không được chửi thề nói lời tục tỉu, không được xưng hô mày, tao, nó hắn, y...
- Hộ trì miệng
về lời nói
thì không được nói thêm bớt, nói xấu người
khác, không được vu khống, vu oan giá họa, không được nói
lật lọng...
- Hộ trì miệng
về lời nói
thì không được nói móc
lò, nói mỉa
mai người khác,
nói giễu cợt, nói châm chọc...
Tóm lại, hộ trì
miệng là
giữ gìn lời
nói không làm khổ
mình, khổ người,
luôn nói lời êm dịu, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, đầy
lòng từ ái, ôn hòa, tha thứ, thân thương và yêu mến. Lời nói luôn đem đến
mình vui, người khác vui.
Người ta còn
bảo miệng là “Khẩu Nghiệp”. Khẩu nghiệp có hai phần:
1- Khẩu nghiệp
về ăn: Miệng ăn uống không tiết độ,
không đúng cách nên khiến cho
thân thọ lấy những khổ đau, bệnh tật, nghiện ngập, tu hành không ly dục ly ác
pháp được.
2- Khẩu nghiệp
về nói: Miệng nói ra phải cẩn thận, nếu không
cẩn thận sẽ mang nghiệp vào
thân khiến thân
tâm phải phiền
não khổ đau, hối hận.
Tóm lại, hộ trì miệng
là điều cần
thiết nhất trong cuộc sống tu
hành, nên Phật dạy
phải độc cư
sống trầm lặng một mình
như con tê ngưu một sừng.
Tinh cần hộ trì mắt,
tai, mũi, miệng như vậy chưa đủ
mà còn phải tiếp tục hộ trì các căn khác nữa là thân và ý.
Thân: Muốn phòng hộ trì thân, phải hộ trì như
thế nào?
- Hộ trì
thân có hai phần:
1- Hộ trì
các hành động của thân.
2- Hộ trì thân
là không cho các
ác pháp xâm chiếm vào thân.
a) Hộ trì
các hành động của thân gồm có:
- Không cho
thân làm những điều ác.
- Ý thức phải
điều khiển thân hành.
- Mỗi
thân hành phải
được ý thức kiểm duyệt.
b) Hộ trì thân
là không cho các
ác pháp xâm chiếm vào thân gồm
có:
- Ngừa bệnh
hơn trị bệnh, nghĩa là phải ngăn ngừa ruồi, muỗi, sâu độc, rắn, bò cạp, rết,
thú dữ,
v.v.. không cho xâm
chiếm vào thân, luôn
luôn giữ gìn
thân được an lạc bằng vệ
sinh, bằng ăn uống tiết độ, bằng
nuôi dưỡng
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!