thiện pháp,
không đem vào
thân những ác pháp, phải nuôi thân bằng chánh mạng.
- Đẩy lùi
các bệnh tật trên thân. Làm chủ bệnh tật là điều hạnh phúc thứ nhất trong cuộc
sống thế gian.
- Tìm mọi cách giúp cho thân được an trú, thanh tịnh
và vô sự, theo pháp môn Định Niệm Hơi Thở.
- Bằng
phương pháp Tứ Niệm Xứ giúp cho thân sung mãn dồi dào sức lực.
- Bằng
phương pháp Thân
Hành Niệm giúp cho thân tâm sanh
bảy Giác Chi.
Nếu trong cuộc sống
tu hành theo
Phật giáo để tìm cầu sự giải thoát làm chủ sanh, già, bệnh, chết
và chấm dứt
luân hồi thì phải
luôn luôn hộ trì thân
hành, không thể
nào thiếu sự hộ trì này mà chứng đạo được.
Tinh cần hộ trì mắt, tai, mũi, miệng, thân
như vậy
chưa đủ mà còn phải tiếp tục hộ trì
căn khác nữa là ý căn.
Ý: Muốn hộ trì ý căn phải như thế nào?
- Hộ trì ý
căn có ba phần:
1- Sử dụng tri kiến.
2- Sử dụng pháp hướng tâm như lý tác ý.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
3- Sử dụng giới luật.
- Sử dụng tri kiến, khi nào có một niệm khởi
trong tâm hay một pháp
bên ngoài tác động
vào tâm thì phải
tư duy suy
nghĩ cho tường tận niệm ấy, để đẩy
lui khiến cho tâm trở
nên thanh thản,
an lạc và vô sự. Sử dụng
tri kiến tức là tu tập Định Vô Lậu. Càng tu tập Định Vô Lậu thì tri kiến càng sắc
bén. Tri kiến sắc bén giống như một thanh gươm thư hùng kiếm của một dũng sĩ
lâm trận.
- Thường xuyên
tác ý để
tâm ly dục ly ác pháp; thường xuyên tác ý để tâm có
một nội lực mạnh mẽ giúp
cho ý thức đẩy
lùi các chướng ngại pháp trên thân một cách dễ dàng.
Đó là cách thức tu tập tạo
thành ý thức lực, nhờ ý
thức lực mà chúng ta làm chủ sanh, già, bệnh, chết...
- Sử dụng giới
luật, vì giới
luật là thiện pháp,
là đạo đức làm
người, làm Thánh.
Cho nên lấy giới
luật làm tiêu
chuẩn để ý thức
nhắm vào tư duy quan sát các pháp đang trùng trùng duyên
khởi. Do đó,
chúng ta không
bị lầm lạc, lẫn lộn pháp thiện ra pháp ác, pháp ác ra pháp thiện. Biết sử
dụng giới luật đúng pháp thì chúng ta tu tập
Tứ Chánh Cần mới có hiệu
quả: “Ngăn
ác diệt ác
pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện
pháp”.
Tóm lại,
trên đường tu tập theo giáo pháp của Phật giáo thì chúng ta phải theo lời
khuyên này. Hằng ngày,
phải siêng năng
tu tập bốn loại
tinh cần, đừng cố chấp tuần tự theo
pháp mà phải biết
khéo léo thiện
xảo và linh động tùy theo mỗi trạng thái tâm của
chúng ta mà tu tập. Có tu tập như vậy thì mới
có ích lợi thật
sự.
Ví dụ: Trong
lúc chúng ta đang tinh cần tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác thì bỗng có tiếng kêu la
cầu cứu. Tức thì chúng ta tinh cần tu tập hộ trì nhĩ căn.
Ví dụ
trên đây để
chúng ta nhận
xét sự linh động thiện xảo từng
giây, từng phút trong sự tu tập. Đừng
có cố chấp
khư khư theo
giáo điều thì sai lệch mất.
Cho
nên, bốn
tinh cần này là gồm đủ các
pháp tu
tập trong Phật
giáo. Cuối cùng,
chúng tôi không biết
nói gì hơn để trao
lại những kinh nghiệm và tâm sự
cùng các bạn thiết tha tu hành
thân mến. Ước
mong sao quý bạn sẽ thành tựu viên mãn con đường giải thoát của
Phật giáo để đền đáp ơn Phật trong muôn một.
ĐỨC PHẬT XÁC
ĐỊNH THẾ GIỚI CỦA CON NGƯỜI
LỜI PHẬT DẠY
“Thế giới
con người đang thấy và biết là thế giới chấp thủ
của điên đảo tâm,
điên đảo tưởng,
điên đảo tình và
điên đảo kiến
phát sanh do vô minh”.
CHÚ GIẢI:
Lời dạy trên
đây của đức Phật là chỉ thẳng để chúng ta đừng lầm chấp cái thế giới chúng ta
đang sống.
Thế giới
chúng ta đang sống là thế giới duyên hợp, nó chẳng có cái gì thật cả, nhưng
chúng ta không hiểu biết rõ ràng thường chấp chặt cho nó
là có thật
ngã, vật nào
cũng có thật. Do thấy biết vật nào
cũng như thật,
vì thế mỗi khi chúng ta có mất mát một vật gì thì lòng chúng ta buồn khổ
da diết.
Ví dụ: Như
mất của cải
tài sản, cha mẹ
chết, con cái mất, v.v.. thì khổ sở vô cùng, gần như muốn chết.
Do thấy biết vật nào
cũng như thật,
nên cố gắng làm và tạo ra cho nhiều vật chất, v.v.. Vì thế, suốt cuộc đời đành phải chịu nhọc nhằn và đành phải làm những
điều gian ác, trộm cắp gian lận, hối lộ
ăn đút lót, giết người cướp của. Những
hành động đó, vốn
cũng chỉ để
mong sao tạo ra vật chất càng nhiều càng tốt.
Sự hiểu
biết sai lệch
như vậy, nên mới
đem hết sức lực của mình
ra để làm cho nhiều của
cải và tài sản, tuy bằng mồ
hôi nước mắt của
mình, không phải
cướp giật của
ai, nhưng có cái tội là
đày ải thân
tâm chúng ta quá
nhiều khổ nhọc,
v.v.. Với tâm
tham đắm vật chất như vậy, mà người đời gọi là lòng
tham không đáy. Do sự hiểu biết lầm lạc mà đã
biến thành lòng tham
không đáy ấy, nên đức Phật chỉ thẳng cho loài người biết: “Thế giới
con người đang thấy, biết là thế giới của
chấp thủ, của điên đảo tâm,
điên đảo tưởng, điên
đảo tình và điên đảo kiến
phát sanh do vô minh”.
Lời dạy
này rất
đúng. Từ tham muốn
cái này, đến tham
muốn cái khác,
cái tham muốn
này không
bao giờ dừng. Nên
vì thế, khổ
đau cũng không bao giờ dừng.
Đức Phật
muốn cho đệ tử của Người
dừng lòng tham muốn ấy, nên Ngài mới dạy giới luật đức hạnh làm người
làm Thánh. Giới không cất giữ tiền bạc, ngọc ngà, châu báu, v.v.. cũng là một đức hạnh ly tham.
Vì còn cất giữ tiền bạc là
còn chấp thủ,
cho nên các nhà sư
Đại Thừa hiện giờ
còn cất giữ tiền bạc
là còn chấp
thủ, còn chấp thủ thì tâm điên đảo,
tâm điên đảo là tâm không sáng suốt, tâm không sáng suốt nên không thấy thế giới
của loài người là thế giới tưởng tri, do
các duyên hợp lại tạo
thành, chứ thật ra không có vật
gì là thật có. Các nhà Đại Thừa tuy luận nói như vậy, mà lối sống không đúng vậy.
Cho nên, tâm điên đảo thấy biết các pháp là thật có. Vì vậy, mới xây dựng chùa
to Phật lớn, làm đẹp cảnh quang.
Qua lời dạy của đức Phật
trên đây chúng ta
thấy rõ các
nhà Đại Thừa
điên đảo tâm, chấp thủ dính mắc vật chất thế gian quá si mê. Các Ngài
cho rằng xây cất
chùa to Phật lớn,
đúc chuông, tạc
tượng, v.v.. là
có phước vô lượng, là
xây dựng Phật giáo,
là làm cho Phật giáo hưng thịnh. Cái nghĩ tưởng có
phước vô lượng, làm cho Phật giáo hưng thịnh, thì đó là
chấp thủ thế giới hữu hình.
Còn chấp thủ thế
giới hữu hình là
còn lo tạo dựng, còn
tạo dựng thì đó không đúng như lời Phật dạy: “Thế giới con
người đang thấy và biết là thế giới của
chấp thủ của điên
đảo tâm, điên
đảo tưởng, điên đảo tình và điên đảo kiến...”. Như vậy, những người lo
xây dựng chùa to Phật lớn, đúc chuông, tạc tượng, v.v.. là những người chấp thủ của điên đảo tâm,
điên đảo tưởng, điên đảo tình và điên đảo kiến, v.v..
Cái thế giới
tưởng tri do các duyên hợp lại mà thành, đâu có vật gì là thật, thế mà vì tâm
chấp thủ nên ngu si vô minh mới lo xây dựng,
làm hao tốn biết bao nhiêu
của cải, công
lao của đàn na thí chủ.
Người tu sĩ
chân chánh của Phật giáo thấy thế giới này là thế giới không thật, mọi vật đều
vô thường, vô ngã, nên họ quyết từ bỏ và xa lìa, không để tâm dính
mắc một vật gì của thế giới này.
Vì thế, họ chấp nhận một đời sống
ba y một bát, đi xin ăn, lấy gốc cây làm giường nằm.
Cho nên, những
người chấp nhận đời sống ba y một bát,
đi xin ăn
là những người
thấy biết thế giới này thật sự
là các duyên hợp như mộng,
như huyễn nên họ không
chấp thủ, không chấp
thủ nên tâm hồn họ trắng bạch
như vỏ ốc,
phóng khoáng như hư không. Họ không
có chùa to Phật lớn,
không có vật chất
thế gian
nhiều. Vì thế, họ không
có điên đảo tâm, điên đảo tưởng, điên đảo tình và
điên đảo kiến. Ngược lại, là
những người đang
sống trong điên đảo, thật đáng thương vậy.
Õ
ĐỨC PHẬT DẠY
TU TẬP BA
PHÁP MƠN ĐOẠN
TẬN LẬU HOẶC
LỜI PHẬT DẠY
“1- Hộ trì
các căn
2- Tiết độ
ăn uống
3- Chú tâm tỉnh
giác”.
CHÚ GIẢI:
Muốn đoạn tận
các lậu hoặc
thì đức Phật đã dạy cho chúng ta có ba điều quan trọng cần thiết
phải tu tập hằng ngày để đoạn
trừ cho được lậu hoặc, đó là:
1- Hộ trì
các căn
2- Tiết độ
ăn uống
3- Chú tâm tỉnh
giác
Điều
thứ nhất: Hộ trì
các căn
tức là pháp môn độc cư mà
trong bài tinh cần
hộ trì chúng tôi đã giảng ở
trên. Bởi vì hộ trì các căn là một sự tối cần thiết cho việc tu tập đoạn
trừ
lậu hoặc.
Nếu quý vị
không giữ gìn trọn vẹn hạnh
độc cư thì chẳng bao giờ
hết lậu hoặc. Hạnh độc cư quan trọng đến mức độ nào trong sự
tu tập vô lậu mà đức Phật
ví dụ: Người giữ gìn hạnh độc cư
như con tê ngưu một sừng
thì quý bạn nên lưu ý, nó quan trọng đến mức độ nào trong
con đường tu tập giải thoát
của các
bạn.
Hộ trì các
căn thuộc về pháp môn tinh cần hộ trì,
nó là
một trong bốn
pháp tinh cần của Đạo Phật mà đức Phật đã khéo nhắc nhở
chúng ta phải siêng năng hộ trì các căn. Một lần nữa, khi đức Phật dạy đến
cách thức đoạn tận
lậu hoặc thì pháp môn hộ trì các căn lại đứng hàng đầu, làm tướng tiên
phong xung trận đoạn tận lậu hoặc.
Như vậy, hộ trì các căn các bạn phải biết nó
là một pháp
môn có tầm cỡ rất
quan trọng trong vấn đề tu tập theo Đạo Phật.
Vì vậy, chúng tôi
đã nhắc đi nhắc
lại với các bạn
rất nhiều lần,
nhưng các bạn
không tin lời chúng tôi,
do đó chúng tôi
xác định rằng các bạn tu hành sẽ không đi đến đâu cả, chỉ
loanh quanh trong các trạng thái tưởng của tưởng ấm.
Điều thứ hai: Tiết độ ăn
uống là pháp đoạn tận lậu hoặc của Phật giáo.
Như các bạn
đã biết trong giới bổn Thập Giới Sa Di, đức Phật cấm không cho thầy Sa Di ăn uống
phi thời, ngày chỉ một bữa, đó cũng là phương cách sống
tiết độ ăn uống để đạt được mục đích đoạn tận lậu hoặc. Vả lại,
trong Mười Giới Thánh Đức Sa
Di thì tiết độ
ăn uống là một
Thánh Đức Ly Dục mà người tu
sĩ đệ tử của Phật muốn trở thành một vị Thánh Tăng,
Thánh Ni thì không thể nào sống phi Thánh Đức
này được. Nó là
pháp môn ly dục, ly ác
pháp tuyệt vời.
Vì thếá,
nó là một
phương pháp đoạn tận lậu hoặc trong ba phương pháp mà đức
Phật đã dạy cho chúng ta ở trên. Bởi vậy, chúng ta phải hiểu trong
vấn đề ăn uống. Ăn uống không đúng
cách (phi thời)
rất ảnh hưởng
đến sự tu tập
ly dục ly
ác pháp của Đạo Phật,
nói một cách khác cho dễ hiểu, ăn uống phi thời không bao giờ nhập được chánh định (Tứ
Thánh Định) chỉ nhập vào các loại định tưởng, tà định của tà
đạo.
Cho nên, một
người ăn uống phi thời thì không bao giờ đoạn tận lậu hoặc được. Đó
là một điều hiển
nhiên không ai chối cãi được.
Phải không các bạn?
Chúng tôi nhờ không
ăn uống phi thời,
nên tâm
mới ly dục
ly ác pháp, nhờ
đó chúng tôi mới
hoàn tất được
con đường tu tập của mình.
Ngày nay, chúng
tôi mới thở được một hơi thở nhẹ nhàng, khi đứng trước giặc
sanh tử luân hồi.
Điều
thứ ba: Chú
tâm tỉnh giác
là pháp đoạn tận lậu hoặc của Phật giáo.
Các bạn có
lưu ý điều này
không? Từ khi bắt
đầu theo tu học với Phật giáo,
lúc tập đi kinh hành
cũng như khi tập
luyện 18 đề mục hơi thở, nói chung là các pháp của đức Phật,
lúc nào đức Phật dạy chúng ta tu tập, cũng đều dạy chú tâm
vào thân hành để đạt được sức tỉnh
giác. Không ngờ sự chú tâm tỉnh giác ấy
lại là một pháp môn đoạn tận lậu hoặc rất tuyệt vời. Càng tu tập tỉnh thức thì
càng xả tâm dễ dàng, càng tu tập tỉnh thức
thì tâm càng định tỉnh trên thân hành
và nhờ đó
mà bảy Giác
Chi xuất hiện. Bảy Giác Chi là bảy năng lực, chứ không phải là bảy Giác
Chi suông, khi chúng xuất hiện giúp
cho chúng ta nhập định
dễ dàng, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có tốn công sức nhiều.
Tóm lại, bài dạy thứ nhất của đức Phật trên
đây, chúng tôi
trích dẫn và chú giải với
mục đích làm
sáng tỏ và cũng để chấn chỉnh lại Phật giáo, để
mọi người biết rõ giáo lý của Đạo Phật và giáo lý của ngoại đạo đều không giống nhau. Giáo pháp của Phật có
ba pháp môn vô lậu, đó là Giới, Định, Tuệ
còn gọi là “Tam
Vô Lậu Học” mà ngoại đạo thì không
bao giờ có. Nếu ai sống và tu tập
đúng pháp môn này thìø nhận ra sự vô lậu ngay liền ở tâm mình.
TAM VÔ LẬU HỌC:
GIỚI, ĐỊNH, TUỆ, pháp môn mà đức Phật tu tập đã
thành chánh quả. Do đó, Ngài muốn khuyến khích chúng ta ở
đời sau nên dạy: “Với pháp này Ta đã chân chánh giác ngộ, Ta hãy cung
kính, đảnh lễ và sống y chỉ pháp ấy”. Để chúng ta có thêm một lòng
tin sâu sắc, không
bị tà giáo lừa đảo hay còn
mang một ý nghĩa lừng
chừng bán tin bán nghi Phật
pháp. Đó là
bài dạy thứ nhất
trong tập kinh này.
Còn bài dạy thứ
hai tóm lại,
Ngài xác định cho chúng ta biết
cái thế giới của chúng ta đang sống là cái thế giới chấp thủ của tâm điên đảo, của tưởng điên đảo,
của tình điên đảo và
của kiến điên đảo, để chúng ta biết như thật, đừng có đắm đuối,
ham mê, ưa thích
cái thế giới không thật đó. Vì tất
cả mọi vật trong thế giới này là do duyên hợp mà thành, chứ không
có thật. Vậy,
chúng ta hãy đi tìm cái chân thật, cái
chân thật chỉ cần tu tập đúng lời
dạy của đức Phật,
khi tâm bất động
trước các pháp
và các cảm thọ thì nó đang ở trước
mắt chúng ta, đó là
cái vĩnh cửu muôn đời, cái
đó hoàn toàn không
do duyên hợp
mà thành, mà phải do công phu tu tập mới có. Thật sự nó không
phải có sẵn. Xin các bạn đừng hiểu lầm cái “Phật tánh” có sẵn như Thiền Tông và
kinh sách Đại Thừa dạy. Đó là cái Phật tánh tưởng.
Thân ngũ uẩn
là do năm duyên hợp lại mà thành thân con người, nên trong đó không có một vật
gì thường hằng
vĩnh viễn. Khi thân ngũ uẩn
tan rã thì năm
duyên cũng tan rã
không còn một duyên nào cả. Đức Phật dạy: “Nếu thân ngũ uẩn
này còn có một vật
gì thường hằng thì Đạo Ta không ra
đời”. Đó là bài dạy thứ hai.
Và bài dạy
thứ ba tóm lại, có bốn tinh cần người tu hành cần phải siêng năng tu tập.
Trước tiên,
người tu theo Đạo Phật hằng ngày phải siêng năng chế ngự tâm mình (Tinh cần
chế ngự). Xin
các bạn nên hiểu chế ngự
khác nghĩa với ức chế, nếu các bạn không hiểu nghĩa này là các bạn sẽ tu sai
pháp, chế ngự thân tâm sẽ trở thành ức chế
thân tâm. Do
không hiểu
nghĩa này nên các nhà sư của nhiều hệ
phái đã biến Đại Thừa, các thiền
sư Đông Độ và các sư
Nam Tông
theo pháp tu chế ngự tâm trở thành pháp tu ức chế tâm khiến sự
tu hành chẳng đi đến đâu mà còn thành “bệnh tưởng”.
Pháp thứ hai
là phải siêng năng bất cứ lúc nào gặp ác pháp là phải đoạn tận. Xin các bạn đừng hiểu lầm ác pháp là vọng niệm của
mình.
- Ác pháp
có hai phần:
1- Ác pháp
thuộc về thân
2- Ác pháp
thuộc về tâm
- Ác pháp
thuộc về thân
là thân bị bệnh
đau nhức chỗ này chỗ khác.
- Ác
pháp về tâm,
khi có một tầm khởi
lên, tầm ấy thuộc về tham, sân, si có nghĩa là tham ăn,
tham ngủ và phiền não,
giận hờn, buồn rầu, lo sợ, đó là
hại tầm.
Khi có thân bệnh hoặc
có những hại tầm
như trên thì phải tinh cần siêng năng đoạn tận nó, không
được để trong thân
tâm chúng ta, phải bằng mọi cách đoạn tận nó, không được
để từ giờ này sang giờ khác.
Pháp thứ ba
là pháp phải siêng năng tinh cần tu tập 37 pháp môn trợ đạo. Tu tập phải kỹ
lưỡng, phải
từng giây, từng phút, từng giờ, từng ngày,
không lúc nào
quên tu tập.
Tu tập các pháp môn này chỉ có nương vào hành động nội
và ngoại của thân chúng ta.
Pháp thứ ba
là phải
siêng năng tinh cần hộ trì các căn từng phút, từng giây
không được biếng trễ. Đó là pháp độc cư, một
bí quyết tu tập để thành tựu thiền định hay nói cách khác là nhập
các định và thực hiện Tam Minh.
Trên đây là
bốn điều cần phải siêng năng tu tập hằng
ngày thì con đường sanh tử luân hồi của bạn sẽ chấm dứt.
Bài pháp cuối
cùng trong tập sách này là đoạn tận lậu hoặc.
Đoạn tận lậu hoặc như
các bạn đã từng tu tập qua sự hướng dẫn của Thầy.
Đoạn tận lậu
hoặc gồm có ba phần:
Phần thứ nhất, Hộ trì
các căn
các bạn đều biết pháp
tu này, không
ai mà còn xa
lạ nó. Phải không các bạn?
Phần thứ
hai, Tiết độ
trong ăn uống phần này các bạn cũng thông suốt.
Chính vì ăn uống phi thời mà
các bạn chẳng bao giờ
đoạn tận lậu hoặc được. Có đúng vậy không thưa các bạn?
Phần thứ
ba, Chú tâm tỉnh
thức phần này các bạn đã tu tập quá nhiều, nhuần nhuyễn không thể
nào không biết. Phải
không hỡi các
bạn?
Tất cả những
pháp đức Phật đã dạy trên đây, các bạn đều thông suốt, chỉ còn tu tập thì sự giải
thoát sẽ đến với
các bạn, không còn sợ
lạc vào đường lối tu tập sai pháp của
các Tổ và kinh sách phát
triển Đại Thừa
và Thiền Tông nữa.
BẢY CÁCH DIỆT LẬU HOẶC BẰNG PHÁP NHƯ LÝ
TÁC Ý
LỜI PHẬT DẠY
“Này các Tỳ Kheo,
do như lý tác ý,
các lậu hoặc
chưa sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc
đã sanh được
trừ
diệt.
Này các Tỳ
Kheo:
1/ Có những lậu hoặc phải
do tri kiến được đoạn trừ.
2/ Có những
lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ.
3/ Có những lậu hoặc phải
do thọ dụng được đoạn trừ.
4/ Có những lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ.
5/ Có những
lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ.
6/ Có những lậu hoặc phải
do trừ diệt được đoạn trừ.
7/ Có những
lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ.
CHÚ GIẢI:
Trên đây
là lời dạy của đức Phật
về pháp môn như lý tác ý. Pháp môn như lý tác ý dùng để tu tập tâm vô lậu.
Trong Đạo Phật, quả chứng cao nhất
là tâm vô lậu. Tâm vô lậu tức là chứng quả A La Hán. Ở đây, pháp này dạy chúng ta tu tập tâm vô lậu,
tức là tu tập để hết khổ đau. Pháp môn của Phật rất thực tế và cụ thể
như vậy. Thế mà,
trong Phật giáo lại có
pháp môn khác không dạy tâm vô lậu mà dạy kiến tánh
thành Phật, khi kiến tánh thành Phật xong, nhưng tâm vẫn
chưa hết lậu hoặc.
Vậy, thành Phật mà
còn lậu hoặc
sao? Và như vậy,
Phật nghĩa như thế
nào? Là Giác
ngộ ư! Giác
ngộ Phật Tánh, giác
ngộ thế giới
này là huyễn
giả ư! Hiểu biết là một lẽ khác,
còn muốn sống được tâm bất động
là một việc
tu tập hết sức mình. Xin
các bạn trả lời đi!? Đấy là
một sự hiểu sai lệch của
tà đạo bằng sự tưởng
tượng của họ. Phải không các bạn?
Đứng trước
tình trạng Phật giáo hiện nay, Kinh sách
Phật giáo Nguyên
Thủy đúng hay kinh sách
Đại Thừa đúng? Muốn trả lời những
điều này
chính xác chỉ
có những người
tu tập
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
tâm vô lậu. Vậy,
Phật giáo hiện
giờ tu sĩ bên
nào tâm
vô lậu, làm chủ sanh, già,
bệnh, chết và chấm dứt luân hồi?
Giá trị của
tu sĩ là chỗ tâm vô lậu. Người nào
tâm vô lậu mới xác định
Phật giáo đúng, sai
thì chúng ta mới đủ
lòng tin. Phải không các bạn?
Phật giáo
tu tập vốn để đạt được
tâm vô lậu, chứ
đâu phải niệm Phật
để cầu vãng
sanh Cực Lạc Tây Phương. Thế mà, lại có pháp môn Tịnh Độ
chuyên niệm Phật
A Di Đà để đạt được nhất
tâm (Thất nhật nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A
Di Đà). Nhưng khi đạt được nhất tâm
thì một thế giới tưởng
hiện ra. Người niệm
Phật tưởng đó
là thế giới Cực
Lạc có thật. Họ đâu biết rằng đó
là một ảo giác do tưởng uẩn hiện ra. Người ta tưởng
rằng: Khi niệm Phật được nhất
tâm thì lậu hoặc sẽ hết. Điều
này rất sai,
khó tin vì niệm
Phật được nhất tâm là nén lậu hoặc
chứ không phải diệt lậu hoặc. Vì thế, tu
như vậy làm
sao hết lậu hoặc được. Phải không
các bạn?
Xét lại kinh
sách Nguyên Thủy, những bài pháp dạy chúng ta tu tập trực tiếp diệt lậu hoặc một cách cụ thể
và rõ ràng,
đó là pháp
môn “Như Lý Tác
Ý”, xin các bạn lưu
ý! Và pháp
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!