Thời gian gần đây, có rất nhiều tu sĩ và cư sĩ đã thể hiện tinh thần diệt ngã của mình. Khi đã nhận thấy được cái đúng sai trong Đạo Phật và tìm về tu viện Chơn Như để tu học. Còn các bạn khác thì sao?
Phật dạy: “Tránh sự khởi lên do phạm giới”. Khi chúng ta khởi lên ý niệm gì, thì nên quán xét ý niệm ấy có phạm vào những giới gì chăng?
Ví dụ 1: Khi khởi ý muốn đi nói chuyện với một bạn đồng tu, thì nghĩ ngay đến lời Phật dạy phải phòng hộ sáu căn, không nên hội họïp, không nên nói chuyện. Đó là những Thánh hạnh mà một tu sĩ Phật giáo cần phải nghiêm trì, không cho vi phạm. Sự suy tư như vậy là tránh sự khởi lên phạm giới.
Ví dụ 2: Vào buổi sáng sớm cảm thấy đói bụng ý khởi lên muốn đi ăn cái gì đó, thì chúng ta nghĩ ngay: vào giờ này mà ăn uống thì phạm vào giới ăn uống phi thời. Ăn uống phi thời như vậy là phạm vào Thánh Đức hạnh ly dục. Tu sĩ phạm vào giới này thì không còn xứng đáng là đệ tử của Phật nữa.
Cho nên, làm đệ tử của Phật thì phải nhớ lời dạy này: “Tránh sự khởi lên do phạm
giới”. Các bạn có nhớ chăng? Phải luôn luôn nhớ và dùng câu này tác ý thì giới luật các bạn sẽ thanh tịnh.
Thứ tư: Đức Phật dạy: “Tránh sự khởi lên do trách nhiệm”. Là một tu sĩ Phật giáo tâm hồn luôn luôn lúc nào cũng phải được thanh thản, an vui và vô sự. Nên phải hiểu mọi sự việc đều gắn liền với trách nhiệm. Khi thấy tâm khởi ý muốn làm một việc gì thì phải thấy ngay trách nhiệm sự việc ấy, nhưng thấy có trách nhiệm trong sự việc đó thì phải đình chỉ việc đó liền. Nếu không đình chỉ thì cuộc đời tu hành theo Phật giáo chỉ uổng công mà thôi.
Bởi vì có trách nhiệm là có sự lo lắng, mà có sự lo lắng là có tâm bất an, có tâm bất an thì rất khó tu tập để giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Cho nên, chúng ta phải hiểu Đạo Phật, Đạo Phật không phải là đạo tiêu cực, làm biếng, không làm, Đạo Phật chấp nhận làm việc, siêng năng, cần mẫn, nhưng tránh trách nhiệm, để giữ gìn tâm hồn thanh tịnh, không bị ràng buộc, v.v...
Ví dụ 1: Trồng một cây xoài, hay cấy một đám lúa, trồng một đám dưa, v.v.. những việc làm này đều gắn liền với trách nhiệm, vì việc làm này nó mang đến cho ta những kết quả.
Nếu chúng ta làm mà để cho nó thất bại, tức là không kết quả, không kết quả thì chúng ta thiếu trách nhiệm. Các bạn có hiểu ý này chăng?
Có những việc làm mà không có trách nhiệm.
Ví dụ 2: Đi khất thực, làm phụ công việc gì cho ai và làm hết công việc được giao, chứ không lãnh trách nhiệm.
Ví dụ 3: Người làm trụ trì có trách nhiệm, người làm chúng (điệu) không trách nhiệm trụ
trì.
Người tu sĩ đang tu hành mà có trách nhiệm điều này, việc kia thì khó tu hành giải thoát. Tại sao vậy?
Tại vì trách nhiệm đi đôi với sự lo lắng. Vì có trách nhiệm là sẽ có lo lắng, bất an.
Có người bảo rằng: một tu sĩ Phật giáo cũng cần phải thấy trách nhiệm của mình đối với giới luật, nghĩa là phải thấy trách nhiệm bổn phận giữ gìn giới luật nghiêm ngặt, không cho mình vi phạm.
Nếu một vị tu sĩ Phật giáo hiểu rằng:
trách nhiệm và bổn phận của người tu sĩ Phật
giáo là phải giữ gìn giới luật. Hiểu như vậy chúng tôi e rằng là sai. Tại sao vậy?
Thưa các bạn! Giới luật là đời sống của người tu sĩ Phật giáo, chứ không phải là một việc làm. Cho nên, đối với Phật giáo còn thấy bổn phận, trách nhiệm giữ gìn giới luật, thì như vậy giới luật và vị tu sĩ là hai. Còn ở đây giới luật và vị tu sĩ là một, vì tu sĩ là phải sống giới luật. Cho nên ở đây còn thấy có trách nhiệm, bổn phận thì cuộc sống còn bị gò bó, còn bị bắt buộc. Đạo Phật là đạo giải thoát, vì thế, cuộc sống phải được thanh thản, an lạc và vô sự. Nếu còn bị ràng buộc hay bị bắt buộc, gò bó trong một giáo điều hay một giới luật nào thì không thể nào gọi là thanh thản, an lạc và vô sự được. Phải không các bạn?
Ví dụ: Giới luật dạy ăn ngày một bữa không ăn phi thời. Nếu chúng ta nghĩ rằng: mình là tu sĩ Phật giáo phải có trách nhiệm, bổn phận chấp hành không cho vi phạm giới này. Do sự bắt buộc như vậy nên phải ráng ăn một bữa. Khi muốn ăn mà không dám ăn hoặc bị đói bụng mà không dám ăn, cho nên tự bản thân đã thấy khổ sở vô cùng. Giới luật và vị tu sĩ đó là hai. Và cho đó là trách nhiệm, bổn phận của người tu sĩ phải ráng chịu đựng để
không bị người khác chê cười. Từ chỗ trách nhiệm, bổn phận đã làm mất con đường giải thoát của Đạo Phật. Vì thế đức Phật dạy: “Tránh sự khởi lên do trách nhiệm”.
Giới luật của Phật giáo là một khuôn phép sống cho tất cả tu sĩ Phật giáo, chứ không phải là trách nhiệm, bổn phận. Giới luật xác định được đời sống của người tu sĩ. Tu sĩ nào là tu sĩ Phật giáo và tu sĩ nào không phải là tu sĩ Phật giáo. Do đó đức Phật dạy: Một người lấy giới luật làm cuộc sống, còn một người khác lấy giới luật làm pháp luật để cố gắng giữ gìn, thì cũng giống như con bò và con dê. Bò là con bò, còn dê là con dê, không thể dê giống bò, bò giống dê được. Phải không các bạn?
Trước khi bước chân vào Phật giáo, chúng ta không bị một sự cám dỗ nào, một áp lực nào, một thế lực nào, hay vì một hoàn cảnh bắt buộc nào. Mà chính vì bốn sự đau khổ của kiếp làm người. Chúng ta bỏ hết cuộc đời, để theo Đạo Phật, để sống trong pháp luật này. Cho nên, chẳng ai bắt buộc mình, thì làm gì có trách nhiệm, bổn phận. Phải không các bạn?
Mình đã tự nguyện thì giới luật là Phạm hạnh, là cuộc sống của mình.
Ngày xưa, đức Phật chẳng quyến rũ ai theo đạo của Ngài, chỉ vì sự khổ đau của kiếp người, nên mọi người chấp nhận sống trong giới luật và giáo pháp của Ngài. Cho nên ở đây nói trách nhiệm bổn phận sống trong giới luật và giáo pháp của Ngài thì không đúng. Chính Ngài đâu có bắt buộc ai theo Ngài tu hành đâu? Tự mình thì mình phải thấy đó là sự sống của mình.
Cũng vậy, mọi người về tu viện Chơn Như, tự nguyện vào đây, lấy đời sống ở đây làm đời sống của mình, chứ không ai bắt buộc, nếu thấy sống không kham nổi, thì rời khỏi nơi đây. Bởi vì, sự tu hành không ai bắt buộc ai. Tu được thì mình nhờ, chứ không ai tu giúp cho ai được. Trước khi tu tập chúng ta phải ý thức đời sống giới luật là đời sống thoát khổ, chứ không phải bổn phận, trách nhiệm giữ gìn giới luật, mà giới luật là sự sống của đệ tử Phật, là sự giải thoát khổ đau của kiếp làm người.
Từ khi tu xong, Thầy cũng không kêu gọi và cũng không bắt buộc ai cả, các bạn tự đến đây xin tu học. Cớ sao các bạn không sống đúng giới luật và tu tập đúng giáo pháp ở đây? Cớ sao các bạn vi phạm giới, phá giới ở đây? Cớ sao tu tập ức chế tâm không đúng cách tu
tập ở đây là ly dục ly ác pháp? Thế rồi các bạn hỏi sao không thấy ai tu chứng? Các bạn hỏi như vậy là hỏi một cách vô lý. Sao các bạn không tự hỏi các bạn: ăn, ngủ, độc cư, nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng các bạn có sống được chưa? Nếu sống được thì mới hỏi như vậy là hỏi đúng.
Các bạn sống không đúng giới luật và tu tập không đúng giáo pháp ở đây, thì làm sao các bạn tu chứng được? Vậy mà các bạn hỏi: Sao không thấy ai tu chứng là một câu hỏi không đúng chỗ các bạn ạ! Các bạn ra, vô tu viện này như đi chợ. Chúng tôi biết các bạn hỏi câu ấy là các bạn quá vô minh, không xét được lỗi mình. Như Phật đã dạy: “Ngu mà không biết mình ngu là người chí ngu”.
Tóm lại “Tránh sự khởi lên do trách nhiệm”. Người tu hành theo Phật giáo, thì phải lấy giới luật và giáo pháp của Phật làm sự sống của mình, chứ không có nghĩa là bổn phận, là trách nhiệm gì cả. Các bạn phải hiểu nghĩa giới luật là một cuộc sống bình an và hạnh phúc chân thật của kiếp làm người. Đừng đem trách nhiệm vào Phật giáo là không đúng chỗ. Xin các bạn lưu ý cho.
PHÁP NHƯ LÝ TÁC Ý
LỜI PHẬT DẠY
“Này các Tỳ Kheo! Tỳ Kheo nào “như lý tác ý” sắc như thật quán sắc vô thường, vị ấy yểm ly đối với sắc. Do hỷ đoạn tận, tham được đoạn tận. Do tham được đoạn tận, hỷ đoạn tận, tâm được giải thoát, vị ấy được gọi là vị đã khéo
giải thoát”.
(Tương Ưng kinh tập III trang 100)
CHÚ GIẢI:
Xin các bạn lưu ý tu tập thiền định theo Phật giáo là phải ly dục ly ác pháp mới nhập được Sơ Thiền, nhưng muốn ly dục ly ác pháp thì pháp như lý tác ý là đệ nhất pháp tu tập thiền định, còn tất cả các pháp môn khác
trụ tâm, nhiếp tâm, ức chế tâm cho hết vọng
tưởng là pháp môn của ngoại đạo, chứ không phải chánh định, chánh thiền của Phật giáo. Ở đây các bạn nên lưu ý chỗ sai khác để nhận ra
thiền của Phật giáo và của ngoại đạo. Khi nhận ra chỗ này thì các bạn sẽ không còn bị lầm lạc với pháp môn thiền Đại Thừa, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông và Minh Sát Tuệ nữa. Các pháp môn thiền này lừa đảo các bạn ghê
gớm.
Trên đây là một bài pháp trong kinh Tương Ưng mà đức Phật đã dạy cho các vị Tỳ Kheo tu tập thiền định để đạt được sự giải thoát một cách rất dễ dàng không có khó khăn, không có mệt nhọc. Bài kinh này là một bằng chứng xác định cho chúng ta thấy rằng: Từ xưa cho đến ngày nay mọi người tu tập thiền định theo Phật giáo từ Nam Tông đến Bắc Tông và
33 vị Tổ Sư Thiền Đông Độ đều dạy tu sai lạc không đúng giáo pháp của Phật giáo.
Bài kinh này dạy cách thức tu tập như thế nào?
Cách thức tu tập theo bài kinh này thì nương theo thân hành niệm mà như lý tác ý.
Ví dụ: Nương thân hành nội là hơi thở mà tác ý như trong kinh Xuất Tức Nhập Tức dạy: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra” hoặc “Quán vô
ngã tôi biết tôi hít vô, quán vô ngã tôi biết
tôi thở ra”.
Nếu đi kinh hành thì nương vào bước đi mà tác ý: “Quán ly sân tôi biết tôi đang đi kinh hành, chân trái bước! Quán ly sân tôi biết tôi đi kinh hành, chân phải bước!”...
Cách thức tu thiền định của Phật như lời dạy trên đây trong kinh Tương Ưng thì Thiền Minh Sát Tuệ, thiền Đông Độ và thiền Đại Thừa đều hoàn toàn cách xa một trời một vực. Các bạn nên xét lại những loại thiền mà các bạn đang tu tập có giống như thiền định của Phật giáo chăng? Nếu không giống thì đừng tự xưng là mình tu theo thiền của Phật giáo. Vì Phật giáo chỉ có một loại thiền định chân chánh được gọi là Tứ Thánh Định. Tức là thiền định xả tâm ly dục ly bất thiện pháp mà thôi.
PHẬT VÀ A LA HÁN
LỜI PHẬT DẠY
“Như Lai, này các Tỳ kheo, là bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, làm cho khởi lên con đường trước kia chưa ai làm cho khởi, là bậc đem lại con đường trước kia chưa ai đem lại, là bậc tuyên thuyết con đường trước kia chưa được ai tuyên thuyết, bậc tri đạo, bậc ngộ đạo, bậc thuần thục về đạo.
Còn nay này các Tỳ Kheo, các vị đệ tử là những vị sống theo đạo, tiếp tục thành tựu đạo.
Này các Tỳ Kheo! Đây là sự sai biệt, sự đặc thù, sự sai khác giữa Như Lai, bậc A La Hán, bậc Chánh Đẳng Giác và bậc Tỳ Kheo được giải thoát nhờ trí
tuệ”.
(Kinh Tương Ưng tập 3 trang 120, Đại Tạng kinh Việt Nam).
CHÚ GIẢI:
Qua lời dạy trong kinh Tương Ưng
trên đây đức Phật đã xác định rất rõ ràng: “Phật và A La Hán sự tu chứng đạo thì không khác nhau, nhưng đức Phật khác với những bậc A La Hán là vì đức Phật là người đầu tiên khởi lên, đem lại và tuyên thuyết bốn chân lý của loài người”.
Cũng qua bài kinh trên đây chúng ta có thể xác định rằng: Sáu Vị Phật quá khứ không có, chỉ có là sáu vị thần của Bà La Môn thì đúng hơn. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người đầu tiên khởi xướng con đường giải thoát này. Đây chính do lời đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói. Như vậy, kinh sách Đại Thừa đã dựng lên
6 vị Phật quá khứ là sai, không đúng xin các bạn cứ suy ngẫm lời dạy này thì sẽ thấu rõ như thấy chỉ trong lòng bàn tay của quý bạn. (Kinh Thành Ấp Tương Ưng tập 2, trang 188, 190 cũng nói như vậy).
Đọc đoạn kinh này, chúng ta thấy rõ kinh sách Đại Thừa không phải là kinh sách của Phật, kinh sách Đại Thừa là những kinh sách bịa đặt, để đưa sáu vị thần của Bà La Môn vào làm vị Phật quá khứ của Phật giáo. Nhờ bài
kinh này chúng ta thấy được âm mưu của Bà
La Môn thật là gian xảo.
Một bài kinh này cũng đủ vạch mặt Đại Thừa là thứ giả hiệu và như vậy Phật giáo mà chúng ta đang có, là không phải Phật giáo. Phải không các bạn?
Trong kinh sách Nguyên Thủy còn nhiều bài kinh để xác định, chỉ thẳng kinh sách Đại Thừa là thứ kinh giả hiệu.
TU TẬP ĐỊNH VƠ LẬU
CĨ BA VIỆC CẦN PHÂI LƯU Ý
LỜI PHẬT DẠY
1. “Phòng hộ sáu căn.
2. Sanh y là căn bản của đau khổ.
3. Giải thoát nhờ đoạn dứt sanh y”.
CHÚ GIẢI:
Câu thứ nhất, đức Phật dạy: “Phòng hộ sáu căn”. Muốn tu tập định Vô Lậu để chứng quả A La Hán thì phòng hộ sáu căn là
đệ nhất pháp. Phòng hộ sáu căn đệ nhất là
pháp môn độc cư xin các bạn nhớ cho.
Nếu có về tu viện Chơn Như mà các bạn không sống đúng hạnh độc cư thì xin các bạn đừng về Chơn Như, vì có về cũng chẳng ích lợi gì cho các bạn.
Hộ trì các căn, đó là lời dạy thứ nhất của đức Phật trong pháp môn thiền định Vô Lậu. Các bạn phá hạnh độc cư tức là các bạn đã
không chấp nhận pháp của Phật, như vậy các bạn không có duyên tu hành với Phật Pháp. Không có duyên tu hành với Phật pháp thì dù các bạn có tu tập một ngàn đời cũng chẳng ích lợi gì, chỉ hoài công vô ích mà thôi.
Câu thứ hai, đức Phật dạy: “Sanh y là căn bản của đau khổ”. Muốn tu tập định Vô Lậu để chứng quả A la Hán thì sanh y thường mang đến cho chúng ta lậu hoặc (khổ đau) nhiều. Vậy sanh y là gì?
Sanh y là mọi sự vật chung quanh ta làm thành cuộc sống của ta như: cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, chị em, cô bác, dì dượng, bạn bè, thân bằng, quyến thuộc, nhà cửa, của cải, tài sản, đất đai, ruộng vườn, xe cộ, tủ, bàn, ghế
v.v..
Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu sanh y là căn bản của gốc khổ. Nếu không buông bỏ cái gốc khổ này dù có tu theo Đạo Phật trăm muôn ngàn kiếp thì cũng chẳng bao giờ tâm vô lậu chứng quả A La Hán được.
Câu thứ ba, đức Phật dạy: “Giải thoát nhờ đoạn dứt sanh y”. Muốn tu tập định vô Lậu để chứng quả A La Hán thì phải đoạn dứt sanh y. Sanh y thường mang đến cho chúng ta
lậu hoặc (khổ đau). Nên một người tu hành theo Phật giáo thì tâm phải hoàn toàn vô lậu. Muốn cho tâm được hoàn toàn vô lậu để chứng quả A La Hán mà sanh y không chịu buông bỏ, dứt hẳn thì khó cho tâm ta vô lậu được. Vì thế, một người xuất gia tu theo Phật giáo thì phải chấp nhận buông bỏ sanh y như: “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa, thiểu dục tri túc, ba y một bát, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không”. Có sống được như vậy, tu hành mới thấy kết quả giải thoát và chứng quả A La Hán không có khó khăn, không có mệt nhọc.
Đến đây Thầy xin chấm dứt buổi nói chuyện hôm nay và nhắc các bạn lưu ý: “Sanh y là căn bản của đau khổ”. Muốn tu tập theo Phật giáo để làm chủ bốn sự đau khổ thì phải khắc cốt ghi tâm câu này “Giải thoát là nhờ đoạn dứt sanh y”.
NÊN NHỚ
LỜI PHẬT DẠY
“Nên nhớ khi thức diệt mọi thứ đều
diệt tận”.
CHÚ GIẢI:
Trong thân chúng ta có năm uẩn; sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đây là một khối có năm duyên hợp lại mà thành con người. Khi một uẩn diệt, thì năm uẩn kia đều diệt theo, không
còn có một vật gì là linh hồn hay Phật tánh
trong thân ngũ uẩn này còn lại, chỉ còn lại những từ trường thiện ác để tiếp tục tái sinh luân hồi.
Ở đây đức Phật dạy: “Khi thức diệt mọi thứ đều diệt tận”. Có nghĩa là các bạn đừng tin theo tà thuyết ngoại đạo, có thế giới siêu hình, có linh hồn người chết, có Thần, Thánh, quỉ, ma, có Ngọc Hoàng Thượng Đế, có Đấng Tạo Hóa, v.v..
Thưa các bạn, tin như vậy là mê tín, lạc hậu. Các bạn tin như vậy mà không dùng trí tuệ quan sát để xem có đúng như thật không. Nếu đúng như thật thì các bạn tin, bằng không như thật thì xin các bạn đừng tin. Vì tin như vậy nó sẽ đem đến những tai hại cho các bạn và các bạn sẽ tiêu phí tiền bạc công sức của mình một cách nhảm nhí màø không ích lợi gì cả. Không quan sát kỹ mà tin như vậy các bạn sẽ bị những người khác lừa đảo dễ dàng.
Đức Phật dạy: “Khi thức diệt mọi thứ đều diệt tận”. Có nghĩa là khi người chết thì không còn một vật gì cả, chỉ còn một đống đất hôi thối mà thôi. Do lời dạy này các bạn đừng tin có linh hồn hay Phật tánh gì cả. Linh hồn hay Phật tánh chỉ là một thứ ảo tưởng của những người lạc hậu trong những thế kỷ xa xưa.
THỦ GỒM CĨ BỐN
LỜI PHẬT DẠY
1- “Dục thủ
2- Kiến thủ
3- Giới cấm thủ
4- Ngã chấp thủ”.
CHÚ GIẢI:
Muốn hiểu được lời dạy của đức Phật thì chúng ta phải hiểu từng chữ nghĩa cho rõ ràng. Vậy thủ nghĩa là gì?
Thủ là chữ Hán, có nghĩa là giữ gìn, cố chấp, ngoan cố, bảo thủ. Theo Phật giáo con người có bốn điều kiện cố chấp, bảo thủ đi đến ngoan cố, không chịu cởi mở, xả bỏ, buông xuống, v.v..
Sự cố chấp, bảo thủ thứ nhất là “Dục thủ”. Vậy dục thủ nghĩa như thế nào? Dục thủ là chữ Hán. Dục nghĩa là lòng ham muốn; thủ là giữ gìn, bảo thủ. Hai chữ dục thủ có nghĩa là
bảo thủ, cố chấp vào lòng ham muốn của mình, hay còn có nghĩa là không buông bỏ lòng ham muốn. Biết lòng ham muốn là nơi tập hợp sinh ra muôn ngàn thứ khổ đau cho kiếp sống con người. Thế mà không ai bỏ được lòng ham muốn của mình. Đó là dục thủ.
Sự cố chấp, bảo thủ thứ hai là “Kiến thủ”. Vậy kiến thủ nghĩa là gì? Kiến thủ là chữ Hán. Kiến nghĩa là ý kiến của mình, sự hiểu biết của mình, sự vay mượn tích lũy những tư tưởng tà kiến của người khác, của kinh sách ngoại đạo, của triết học, của khoa học, y học, v.v.. Thủ là giữ gìn, bảo thủ. Hai chữ “kiến thủ” có nghĩa là bảo thủ cố chấp vào ý kiến hiểu biết của mình hoặc vay mượn của người khác. Nhưng dù những ý kiến đó sai, mọi người ai nói gì, khuyên gì cũng không chịu buông bỏ những kiến chấp tà tư tưởng, tà pháp ấy, v.v..
Ví dụ: Kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ không phải Phật thuyết, tu tập chẳng ra gì, nhưng họ vẫn vô minh chấp cứng giáo pháp đó. Ai nói kinh này sai là họ lộn gan lên đầu.
Biết rằng kiến thủ là những điều sinh ra ngu muội, khiến cho ta phải chịu muôn ngàn thứ khổ đau. Thế mà ít người bỏ được những kiến thủ đó.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!