La Hán? Vậy các bạn hãy lắng nghe
ông Xá Lợi Phất dạy: “Nhưng Tỳ Kheo Bất
Lai, này Hiền giả Sàriputta, cần phải như lý tác ý những pháp gì?
Tỳ Kheo Bất Lai, này
Hiền giả Kotthika, cần phải
như lý tác
ý năm thủ uẩn này
là vô thường...
vô ngã. Sự kiện này
có thể xảy
ra, này Hiền
giả, Tỳ Kheo Bất
Lai, do như lý tác
ý năm thủ uẩn
này là vô thường... vô
ngã, có thể chứng được quả “A La Hán””.
Như lời dạy
trên đây chúng
ta thấy rất đơn giản pháp NHƯ LÝ TÁC Ý NĂM THỦ
UẨN. chỉ có bấy nhiêu thôi mà tu tập chứng quả A La Hán thật
không có khó
khăn, không có mệt
nhọc. Phải không các bạn? Cho nên Phật dạy: “Với tâm
định tỉnh nhu
nhuyễn, dễ sử dụng,
nhập bốn thiền,
thực hiện Tam Minh không có khó
khăn, không có mệt nhọc”,
nhưng làm sao đạt được tâm định tỉnh, nhu nhuyễn,
dễ sử dụng? Thì
ra là pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý NĂM THỦ UẨN.
Vậy, bây giờ
các bạn đã biết pháp tu rồi chứ! Nếu không
có bài kinh này
chắc các bạn không bao giờ biết cách thức nào và làm
sao nhập Tứ Thánh Định và thực hiện Tam Minh.
Pháp môn NHƯ
LÝ TÁC Ý NĂM THỦ UẨN là pháp môn gì, các
bạn có biết không? Đó là pháp môn Tứ Niệm Xứ các bạn ạ! Sau khi soạn thảo giáo
trình tu học cho tám
lớp và ba cấp của
Phật giáo thì chúng
tôi sẽ đưa những
bài học và tu tập này giảng dạy đúng chương trình giáo dục
đào tạo bậc A
La Hán thì các bạn sẽ hiểu rõ bài kinh này nhiều hơn.
CHỨNG QUẢ A
LA HÁN CÒN
TU PHÁP NÀO NỮA KHÔNG?
Sau khi
tu chứng
quả A La Hán
xong thì còn tu tập pháp môn nào nữa không?
Thưa các bạn!
Khi tu chứng quả A La Hán xong thì còn
tu tập pháp
môn nào nữa, vì tu tập đến đó
là tu
tập đã xong, chứng
quả A La Hán là kết quả cuối cùng
của con đường tu theo Phật giáo, đó là mục đích mà bốn chân lý của Phật giáo
đã xác định “DIỆT
ĐẾ”, cho nên nó không
còn phải tu tập pháp
gì nữa khác. Xin các bạn hãy lắng nghe ông Xá Lợi Phất dạy:
“Nhưng Tỳ Kheo A La Hán, này Hiền giả Sàriputta, cần phải như
lý tác ý những
pháp gì?
Với vị A
La Hán, này Hiền giả
Kotthika,
không có pháp gì phải
làm nữa
hay không có
phải thêm gì nữa trong công việc làm.
Những sự tu tập, làm
cho sung mãn những
pháp này sẽ đưa
đến hiện tại lạc trú
và chánh niệm tỉnh
giác”. (Tương Ưng kinh
tập 3 trang 298).
Đoạn kinh
này đã xác định rõ ràng, người tu chứng
quả A La
Hán là không
còn tu nữa, vậy mà
Đại Thừa dám bịa đặt ra tu chứng
quả A La
Hán xong còn phải tiếp tục tu tập để chứng
quả Phật. Đại Thừa xây dựng
quả Phật cao hơn quả A La Hán. Khi tu chứng
quả A La Hán là quả
tâm vô lậu.
Tâm vô lậu
là tâm không còn khổ đau, tâm
giải thoát, tâm
làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.
Thế mà Đại Thừa còn bảo tu nữa, đó là ý đồ của Đại Thừa là muốn quét sạch Phật
giáo ra khỏi thế
gian này, cho nên
đặt ra quả Phật để diệt quả A La Hán. Diệt quả A La Hán tức là diệt
chân lý thứ ba của Phật giáo (Diệt đế). Quả Phật không phải Diệt đế, vì Diệt đế
là tâm vô lậu.
Đọc đến bài kinh này các bạn mới thấy rõ âm mưu của
Đại Thừa và Thiền Tông rất muốn diệt Phật
giáo một cách sâu sắc
khiến cho tín đồ Phật giáo không
thể nào ngờ được.
Trên đây là
một bài pháp mà Phật đã dạy cho chúng Tỳ Kheo về pháp
môn NHƯ LÝ TÁC Ý
NĂM THỦ UẨN vô thường…
vô ngã. Duy nhất chỉ có một pháp như lý tác ý năm thủ uẩn vô thường… vô
ngã. Bắt đầu tu tập như vậy, sẽ chứng từ quả Dự Lưu đến quả A La Hán.
Xem bài kinh
trên đây chúng ta mới thấy pháp như lý
tác ý rất
quan trọng trong sự tu
tập theo Phật giáo. Nếu tu theo Phật giáo mà không có
pháp như lý tác ý thì
chúng tôi tin rằng
không có ai
tu giải thoát
được. Và không có pháp
như lý tác
ý thì chúng ta sẽ tu thiền
định tưởng của ngoại đạo, chứ không phải thiền định của Phật giáo (Chánh Định).
Bài kinh này
xác định rằng: người nào dùng ý thức
tu tập pháp
như lý tác
ý để ly tham, đoạn diệt ác pháp, là không tu sai
Phật Pháp, còn ngược lại là tu sai. Và như vậy chúng ta mới
có đủ niềm
tin vững chắc đối với pháp môn
này. Có niềm
tin vững chắc
với Phật pháp, thì mới
có đủ ý chí
sắt, đá
và kiên gan, bền chí chiến đấu với giặc sanh tử. Nhờ
đó thì sự tu hành mới có tiến bộ và
mới đạt đến mục đích cuối cùng.
Trên đây
là một pháp môn tu tập rất đơn giản của Phật giáo,
không bị ức chế tâm một
chút nào cả,
mà bất cứ người nào từ già đến trẻ đều tu tập có kết quả giải thoát như nhau,
đó là “PHÁP MÔN NHƯ LÝ
TÁC Ý NĂM
THỦ UẨN”. Xin các bạn hãy vững lòng tin mà áp dụng vào đời
sống của mình thì các bạn sẽ thấy kết quả giải thoát ngay liền.
NHẬP BỐN
THIỀN NÊN LƯU Ý
LỜI PHẬT DẠY
1/ “Tịnh chỉ
ngôn ngữ nhập Sơ
Thiền.
2/ Tịnh
chỉ khẩu hành nhập
Nhị
Thiền.
3/ Tịnh
chỉ mộng tưởng
nhập Tam
Thiền (ly hỷ).
4/ Tịnh chỉ
hơi thở nhập Tứ Thiền”.
CHÚ GIẢI:
TỊNH CHỈ
NGÔN NGỮ
Những lời dạy cô
đọng này của đức Phật,
là để
chỉ cho chúng ta biết lối
vào nhập Tứ Thánh Định, nếu chúng ta không hiểu nghĩa
rõ ràng thì chẳng biết đường nào nhập vào Bốn Thánh Định này được.
Ở đây
Phật dạy muốn nhập
Sơ Thiền thì phải tịnh chỉ ngôn ngữ. Vậy tịnh chỉ ngôn ngữ như thế nào?
Tịnh chỉ là gì? Và ngôn ngữ là gì?
Có trả lời được những
câu hỏi này, mới
làm sáng tỏ nghĩa của nó. Ngôn là lời nói; ngữ là chữ viết; tịnh là thanh tịnh;
chỉ là ngưng, là dừng lại. Vậy nghĩa đen chung của bốn chữ này là “dùng
tâm thanh tịnh dừng
lời nói và đừng viết chữ mới nhập được Sơ Thiền”.
Tâm thanh tịnh
là gì? Tâm thanh tịnh là tâm ly dục, ly ác pháp. Muốn tâm ly dục ly ác
pháp thì pháp môn Tứ Chánh
Cần, Tứ Niệm Xứ
và Thân Hành
Niệm phải siêng
năng tu tập. Vậy Tứ Chánh Cần, Tứ
Niệm Xứ và Thân Hành Niệm phải tu tập như thế nào? Muốn tu tập Tứ
Chánh Cần thì phải
tu tập bốn loại
định:
1/ Định Niệm
Hơi Thở
2/ Định Vô Lậu
3/ Định Sáng
Suốt
4/ Định
Chánh Niệm Tỉnh Giác
Nên nhớ
luôn luôn tu
các định này phải kết hợp với pháp như lý tác ý.
Muốn tu tập
Tứ Niệm Xứ, thì phải dùng pháp như lý tác ý quét chướng ngại pháp trên bốn chỗ
thân, thọ, tâm, pháp bằng 18 đề mục của
Định Niệm Hơi
Thở, phải thiện
xảo áp dụng đúng cách.
Muốn tu tập
pháp môn Thân Hành Niệm, thì phải
tu tập tác
ý theo thân
hành niệm nội hay ngoại.
Nhờ tu tập
những pháp môn trên đây mà tâm được thanh
tịnh. Khi tâm thanh
tịnh thì lúc bấy giờ mới có thể tịnh
chỉ ngôn ngữ. Tâm chưa ly dục ly ác
pháp thì không thể
nào tịnh chỉ ngôn ngữ được.
Nếu chúng
ta hiểu nghĩa
tịnh chỉ ngôn ngữ
bằng cách không
nói chuyện (tịnh khẩu), thì ngàn đời tu hành cũng chẳng
nhập được Sơ Thiền chút nào.
Nhưng chúng
ta cũng nên nhớ, khi tu
tập pháp môn Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Thân Hành Niệm, thì phải thực
hiện phòng hộ sáu căn, do đó chúng ta tránh hội họp, tránh nói chuyện, sống
trọn vẹn trầm lặng độc
cư, mà còn phải giữ tâm độc trú nữa. Có như vậy sự tu hành mới có thể đi
đến nơi, đến chốn.
Từ lâu tại tu viện Chơn
Như này, có biết
bao người về tu tập, nhưng
đều tu sai
pháp, sống không đúng hạnh phòng hộ sáu căn. Và vì thế đến nay họ
đã mang nợ áo cơm của đàn na thí chủ quá
nhiều, uổng phí một đời
tu hành của họ mà thôi, cũng chỉ
vì không tin Thầy, hành không đúng lời dạy.
Bây giờ họ tin
ai
trong đời
này. Ai là người đã tu tập nhập được Tứ Thánh
Định và thực hiện
được Tam Minh? Không tin Thầy thì
chỗ nương tựa đã mất. Mất chỗ nương tựa,
rồi đây các bạn
sẽ về
đâu? Tu tập như các bạn đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo. Sống dở,
chết dở. Phải không các bạn?
Khi nghe hỏi
vậy, chắc các bạn sẽ trả lời: “Thiếu gì chỗ tựa nương, đâu phải chỉ có Thầy
sao”. Đúng vậy, nhưng
để xem các bạn tu
hành được những
gì? Hay chỉ nói xấu Thầy mình
mà thôi.
Vì lòng
yêu thương, nên Thầy nói thế để rồi
trên đường tu tập của
các bạn sẽ
trôi về đâu… thì đó
là đáp số của các bạn.
Dù sao một giây, một
phút, một giờ, một ngày
cùng sống bên nhau,
thì cũng còn mang
trong lòng một chút tình nghĩa Thầy trò. Phải không các
bạn? Thầy chỉ có một kiếp
này, một lần
này ở thế gian mà thôi.
“Những buổi
chiều tà mưa phủ trắng
Thầy cười
tha thứ kẻ vong ân”.
TỊNH CHỈ KHẨU
HÀNH
Muốn nhập Nhị
Thiền thì phải tịnh chỉ khẩu hành. Vậy tịnh chỉ khẩu hành
như thế
nào? Tịnh chỉ
thì các bạn đã hiểu nghĩa
rồi. Vậy khẩu hành là gì?
Có trả lời
được những câu hỏi này mới làm sáng tỏ
nghĩa của nó. Khẩu hành
là sự hoạt động của miệng. Miệng có hai phần hoạt động:
1- Miệng dùng để ăn.
2- Miệng dùng để nói chuyện.
Khẩu hành
là sự hoạt động của miệng.
Vậy nghĩa đen chung của cả bốn chữ tịnh chỉ khẩu hành
này là “dùng
tâm thanh tịnh dừng
sự hoạt động của miệng nhập
Nhị Thiền, tức là dừng lại sự
nói chuyện và không ăn uống”.
Làm cách nào
để miệng ngưng hoạt động nhập Nhị Thiền? Câu ở
trên đức Phật đã dạy: “Tịnh chỉ khẩu
hành nhập Nhị
Thiền”. Vậy tịnh chỉ
như thế nào?
Như chúng tôi đã
nói ở trên. Tịnh chỉ là ly dục ly ác
pháp, nghĩa là khi tâm ly dục
ly ác pháp thì tâm
thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là tâm bất động, tâm không còn tham, sân, si,
mạn, nghi nữa. Tâm không còn tham, sân, si nữa là tâm có đủ bảy năng lực,
nhờ bảy năng lực ấy mới làm
cho khẩu hành ngưng hoạt
động. Nếu tâm
chưa có đủ bảy năng lực thì khó mà nhập định được.
Tịnh chỉ khẩu
hành, nói thì dễ mà tu
tập thì không phải dễ. Tịnh chỉ là cả một quá trình tu tập của Phật giáo, đòi hỏi
người tu sĩ phải sống đúng giới luật không được vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả.
Cho nên, khi
nghe Phật nói: Ly dục ly bất thiện
pháp nhập Sơ Thiền
do ly dục sinh hỷ
lạc, thì chúng ta tưởng ngồi
thiền nhiếp tâm cho hết
vọng tưởng là sẽ nhập Sơ Thiền.
Điều này không thể được các bạn ạ! Như chúng ta ai cũng nói
ly dục được, nhưng
không phải nói ly
dục là tâm ta ly dục được liền. Muốn ly dục, ly ác pháp
thì chúng ta cũng
phải bỏ hết cả cuộc đời
để tu tập, vừa sống
đúng phạm hạnh,
vừa tu tập cho
đúng pháp môn. Nếu sống
đúng Phạm hạnh, mà tu tập không
đúng pháp môn thì được lợi ích phân nửa, còn Phạm hạnh
sống không đúng mà chỉ tu đúng pháp thì chẳng ích lợi gì, trái lại còn
có tai hại,
nghĩa là sống phạm giới, phá giới mà
tu tập thiền
định, thì sẽ rơi vào tà thiền, một loại thiền
rất nguy hiểm, làm mất đường giải
thoát.
TỊNH CHỈ MỘNG
TƯỞNG
Như lời Phật đã dạy: “Muốn nhập
Tam Thiền thì phải tịnh
chỉ mộng tưởng”. Vậy tịnh chỉ mộng
tưởng như thế nào? Tịnh chỉ thì
các bạn đã
hiểu nghĩa rồi. Vậy mộng
tưởng là gì? Có trả lời được câu hỏi này mới làm sáng tỏ nghĩa của
nó. Mộng tưởng
là tưởng tri những điều không
có thật, là những trạng
thái do tưởng uẩn tạo ra giống
như những người lên đồng, nhập cốt, giống như các nhà ngoại cảm, giống như giấc
chiêm bao. Đó là những sự hoạt động của tưởng uẩn.
Mộng tưởng
là sự hoạt độâng của tưởng.
Vậy nghĩa đen chung cho cả bốn chữ tịnh chỉ mộng tưởng
này là “dùng
năng lực tâm thanh tịnh tức là Thất
Giác Chi
dừng sự hoạt động của
tưởng uẩn nhập Tam Thiền”.
Làm cách nào
để tưởng uẩn ngưng hoạt động nhập Tam
Thiền? Câu nói ở trên
đức Phật đã dạy:
“Tịnh chỉ mộng tưởng
nhập Tam Thiền”. Vậy tịnh chỉ như thế nào? Như chúng tôi
đã giải thích
nghĩa tịnh chỉ ở trên. Tịnh chỉ là ly dục ly ác pháp, nghĩa là
khi tâm ly dục ly
ác pháp thì tâm
thanh tịnh. Tâm thanh
tịnh là tâm bất động.
Tâm không còn tham, sân, si, mạn nghi. Tâm không còn tham, sân, si… nữa, là
tâm có đủ bảy năng lực, nhờ bảy
năng lực ấy mới
làm cho tưởng uẩn
ngưng hoạt động. Nếu
tâm chưa có đủ bảy năng lực
Giác
Chi thì không Tịnh chỉ
mộng tưởng nhập
Tam Thiền
(ly hỷ) được.
TỊNH CHỈ HƠI
THỞ
Muốn nhập Tứ
Thiền thì phải tịnh chỉ hơi thở. Vậy tịnh chỉ hơi thở như thế nào?
Tịnh chỉ thì các
bạn đã hiểu
nghĩa rồi. Vậy hơi thở là gì?
Hơi thở
là sự hoạt động tự nhiên của thân bạn, để tiếp thu thể khí
bên ngoài mà nuôi dưỡng thể khí bên trong.
Hơi thở là sự
hoạt độâng nội của thân, thân còn sống thì còn
thở, thân không
còn sống là thân hết thở. Vậy hơi thở là mạng sống của
con người. Nghĩa đen
chung của bốn chữ tịnh
chỉ hơi thở này
là: “dùng năng lực tâm
thanh tịnh tức là Thất
Giác Chi dừng
sự hoạt động nội thân
để hoàn toàn thân bất động nhập Tứ Thiền”.
Muốn nhập Tứ Thánh
Định thì các bạn nên lưu ý:
“Khi nào mình có đủ 7 năng
lực Giác Chi thì mới nhập được, còn chưa đủ 7
Giác Chi
thì đừng mong sờ mó đến Bốn
Thánh Định này”.
BẬC A LA HÁN
LỜI PHẬT DẠY
“Này Ràdha,
có năm thủ uẩn này, Thế nào là
năm? Sắc thủ uẩn,
thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn.
Này Ràdha!
Khi nào Tỳ
Kheo sau khi như
thật biết rõ, sự tập khởi, sự đoạn
diệt, vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự xuất ly của năm thủ uẩn này, vị ấy được giải thoát,
không có chấp thủ; như vậy,
gọi vị Tỳ Kheo là bậc A La Hán, đã đoạn tận
các lậu hoặc,
đã thành tựu Phạm hạnh,
đã làm những
việc phải làm,
đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, đã đoạn tận hữu kiết sử,
đã giải thoát nhờ chánh trí”.
(Tương Ưng
Kinh tập 3 trang 337)
CHÚ GIẢI:
Đọc qua đoạn kinh này, chúng
ta thấy
chứng quả A
La Hán không phải khó khăn, chỉ có thật quán
thân ngũ uẩn
như thật, để thấu
suốt năm
uẩn này không
phải là ta,
là của ta, là
bản ngã của
ta, nó vô thường, khổ,
vô ngã, nó là người xa lạ, nó là
nguy hại, là ổ bệnh tật khổ đau, v.v...
Chỉ cần chính
quán như lý tác ý
năm thủ uẩn này
như vậy, thì chứng
quả A La Hán
không có
khó khăn, không
có mệt nhọc.
Đọc hai bài kinh trong
tập 3 Những Lời Phật Dạy này,
thì quý vị Thấy Phật giáo
không phải là pháp môn tu tập không được. Nhưng chúng ta
phải thấy rằng:
Người tu theo
Phật giáo phải có
nghị lực, phải
gan dạ và bền chí
thì mới thực sự thấy thân ngũ uẩn không phải là ta, là của ta.
Còn nếu không
có nghị lực, không
gan dạ và bền chí thì xin các bạn đừng tu theo Phật giáo. Dù bạn có tu
cũng chẳng có lợi ích gì cho
bạn.
Đoạn kinh
trên đã xác định rõ ràng đường lối và cách thức tu tập của Đạo Phật như thật
quán thân ngũ uẩn thì sẽ chứng quả A La Hán rõ ràng và cụ thể.
LY DỤC THAM
LỜI PHẬT DẠY
“Này Ràdha,
phàm có dục
nào, tham nào, hỷ
nào, khát ái
nào đối với sắc,
hãy từ bỏ
chúng. Như vậy sắc sẽ được đoạn
tận, cắt tận gốc rễ,
làm cho như thân cây
ta la, làm cho không thể tái sanh,
không thể sanh
khởi trong tương lai.
Đối với thọ,
tưởng, hành thức cũng
vậy”.
CHÚ GIẢI:
Đọc đoạn kinh này
chúng ta mới nhận
ra pháp hành thiền
định cụ thể của Phật giáo là
có dục nào,
tham nào, hỷ
nào, khát ái nào
đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì hãy từ bỏ chúng, có nghĩa là không làm
theo chúng, thì sắc, thọ, tưởng,
hành, thức sẽ được
đoạn tận, cắt tận gốc rễ không còn sanh khởi nữa.
Phương pháp
tu này rất đơn giản chỉ cần không làm theo dục tham, dục sân, dục si... thì cuối cùng
thân ngũ uẩn
này mới như
thật không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta.
Có đoạn dứt
được như vậy thì trước
các cảm thọ ta mới có thể bất động tâm được. Nếu không từ bỏ được, không
ngăn chặn được lòng tham dục thì chúng ta khó mà thành tựu pháp quán thân,
thọ, tâm, pháp
vô thường, khổ,
vô
ngã.
Và không
thành tựu được pháp
môn này thì khó cho ta
thấy được quả giải
thoát vô lậu A La Hán.
Từ bỏ
lòng tham dục
thì chúng ta phải nhận
thấy rõ ràng từng tâm niệm dục, dù
dục rất vi tế rất nhỏ nhặt.
Ví dụ: tham dục ăn, tham dục ngủ, tham dục làm việc, tham dục
nói chuyện, tham dục đọc kinh
sách, tham dục nghe băng giảng, tham dục tu nhiều, tham
dục hỷ lạc, tham dục khinh an v.v..
Chúng ta chỉ có
ly được dục là đoạn
dứt được thân ngũ uẩn, đó là ý chính của bài kinh này và cũng là pháp hành độc
đáo thiền định của Phật giáo
mà mọi người
không thể ngờ được.
TRANH LUẬN
LỜI PHẬT DẠY
“Này các Tỳ
Kheo, Ta không tranh luận với đời,
chỉ có đời
tranh luận với Ta. Này
các Tỳ Kheo,
người nói Pháp không tranh luận bất cứ một ai ở đời”.
(Tương Ưng
Kinh tập 3 trang 249)
CHÚ GIẢI:
Ngày xưa,
lúc đức Phật còn tại thế, Ngài thuyết pháp
là dựng lại những
pháp nào đúng với chân lý giải
thoát của loài người. Ngài còn mạnh dạn chỉ thẳng và dẹp bỏ những pháp
nào sai, để cho
người đời sau
biết rõ tránh
không lầm
lạc. Vì thế,
ngoại đạo tức
giận thường tìm Phật tranh luận hơn thua cao thấp. Cho nên đoạn kinh
trên đây là đức Phật đã xác định Ngài
không tranh luận hơn
thua bất cứ một ai. Nhưng những pháp nào lừa đảo làm
cho con người hao tài tốn của một
cách nhảm nhí và tốn hao công sức tu hành không được những
gì ích lợi
thiết thực, thì Ngài nói thẳng, chỉ thẳng
để dẹp bỏ. Cho
nên, trong cuộc
đời thuyết pháp độ sanh Ngài bị
ngoại đạo lăn đá, cho voi say đến giết
Ngài, và cho phụ
nữ giả mang thai,
vu khống Ngài,
làm cho mất uy
tín... Nhưng tà
pháp sao thắng
được chánh pháp. Cuối cùng,
đức Phật đã giảng dạy
cho loài người đầy đủ các
pháp hành về đạo đức làm
người không làm khổ mình,
khổ người. Đến 80 tuổi Ngài
ra đi với tâm
nguyện viên mãn, để lại cho chúng
sanh một nền đạo đức nhân bản tuyệt vời
tức là bốn chân lý.
Chúng tôi
là đệ tử của Phật,
noi gương Ngài, những
gì của Phật đã bị ngoại
đạo ném bỏ xuống,
thì chúng tôi dựng lại, còn
những gì không phải của Phật, gây
ảnh hưởng xấu tai tiếng cho Phật giáo, gây ảo tưởng, trừu tượng, mê tín, lạc
hậu v.v.. khiến
cho Phật giáo suy đồi, thì chúng tôi ném bỏ xuống hết. Bởi
vì khi tu xong chúng tôi
như những người
đứng trên núi cao nhìn
xuống, thấy kinh sách
Đại Thừa và các Tổ
tu hành không đúng với chánh pháp của
Phật, chúng tôi đều
biết rõ.
Do đó, Tổ nào có
ý đồ ném bỏ và kiến giải
sai về Phật
giáo thì chúng tôi có bổn phận phải chỉnh đốn lại và làm cho
con đường Phật
giáo sáng chói
huy
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
hoàng, chứ
không thể để cho Phật giáo biến thành một đống rác giáo lý tổng hợp (84 ngàn
pháp môn). Nhờ đống rác
giáo lý ấy, mới có một
số người lợi dụng làm
nghề sinh sống
mê tín, lừa đảo và
làm cây chùm gửi, ăn
bám vào người khác,
biến họ trở
thành gánh nặng
cho xã hội.
Lời nói này,
tin hay không tin là quyền ở các bạn.
Nhưng chúng tôi
tin chắc rằng: các bạn
đều là những người
có trí, thấy rộng hiểu xa, thì lời nói của
chúng
tôi không phải
là vô ích. Còn riêng chúng tôi là
tu sĩ Phật giáo, có bổn phận phải dựng lại
những gì của đức Phật đã
bị ném bỏ,
và dẹp bỏ những
gì không phải của Phật giáo.
Theo lời Phật dạy
trên đây, chúng tôi xin gửi đến các bạn một bức tâm
thư để các bạn
tránh những lỗi lầm dẫm lại lối mòn của Bà La Môn ngày
xưa, luôn luôn tìm cách
tranh luận hơn thua với Phật, nói xấu Phật,
diệt Đạo Phật, nhưng
Đạo Phật chân
chánh ngày nay vẫn còn. Phải không các bạn?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!