Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

những lời gốc phật dạy - tập 3-9



La  Hán?  Vậy  các  bạn  hãy  lắng  nghe  ông  Xá Lợi Phất dạy: “Nhưng Tỳ  Kheo Bất  Lai, này Hiền giả Sàriputta, cần phải như lý tác ý những pháp gì?
Tỳ  Kheo  Bất  Lai, này  Hiền  giả Kotthika, cần  phải  như  lý  tác  ý  năm  thủ uẩn này  là  vô  thường...  vô  ngã.  Sự kiện này  có  thể  xảy  ra,  này  Hiền  giả,  Tỳ  Kheo Bất  Lai, do như  lý  tác  ý  năm thủ  uẩn  này là  vô  thường... vô  ngã,  có  thể  chứng  được quả “A La Hán””.
Như  lời dạy  trên  đây  chúng  ta  thấy  rất đơn giản pháp NHƯ LÝ TÁC Ý  NĂM  THỦ UẨN. chỉ có bấy nhiêu thôi mà tu tập chứng quả A La Hán  thật  không  có  khó  khăn,  không  có  mệt nhọc. Phải không các bạn? Cho nên Phật dạy: “Với   tâm   định   tỉnh   nhu   nhuyễn,   dễ   sử dụng,  nhập   bốn   thiền,  thực  hiện Tam Minh không có  khó  khăn,  không có  mệt nhọc”,  nhưng làm sao đạt được tâm định tỉnh, nhu  nhuyễn,  dễ  sử  dụng? Thì  ra là  pháp  môn NHƯ LÝ TÁC Ý  NĂM THỦ UẨN.
Vậy, bây giờ các bạn đã biết pháp tu rồi chứ!  Nếu  không  có  bài  kinh này  chắc  các  bạn không bao giờ biết cách thức nào và làm sao nhập Tứ Thánh Định và thực hiện Tam Minh.



Pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý  NĂM THỦ UẨN là pháp môn gì, các bạn có biết không? Đó là pháp môn Tứ Niệm Xứ các bạn ạ! Sau khi soạn thảo  giáo  trình tu  học  cho tám  lớp  và  ba cấp của  Phật  giáo  thì chúng  tôi  sẽ  đưa những  bài học và tu tập này giảng dạy đúng chương trình giáo  dục  đào  tạo  bậc  A La Hán  thì các  bạn sẽ hiểu rõ bài kinh này nhiều hơn.

CHỨNG QUẢ  A  LA  HÁN  CÒN  TU  PHÁP NÀO NỮA KHÔNG?

Sau khi tu  chứng  quả  A La  Hán  xong thì còn tu tập pháp môn nào nữa không?
Thưa các bạn! Khi tu chứng quả A La Hán xong thì còn  tu  tập  pháp  môn  nào  nữa,  vì  tu tập  đến  đó là  tu  tập  đã  xong, chứng  quả  A La Hán là kết quả cuối cùng của con đường tu theo Phật giáo, đó là mục đích mà bốn chân lý của Phật  giáo  đã  xác  định “DIỆT  ĐẾ”,  cho nên  nó không  còn  phải  tu  tập  pháp  gì nữa  khác.  Xin các bạn hãy lắng nghe ông Xá Lợi Phất dạy: “Nhưng Tỳ Kheo A La Hán, này Hiền giả Sàriputta,  cần  phải  như   lý  tác  ý  những pháp gì?
Với      vị         A         La        Hán,   này     Hiền   giả
Kotthika, không có  pháp  gì phải  làm  nữa




hay không có phải thêm gì nữa trong  công việc làm.
Những sự  tu  tập,  làm  cho  sung  mãn những  pháp  này    sẽ đưa  đến  hiện tại  lạc trú  và  chánh niệm  tỉnh  giác”.  (Tương  Ưng kinh  tập 3 trang 298).
Đoạn kinh này đã  xác định rõ ràng, người tu  chứng  quả  A  La  Hán  là  không  còn  tu  nữa, vậy mà  Đại Thừa dám bịa đặt  ra tu chứng quả A  La  Hán  xong  còn  phải  tiếp  tục  tu  tập  để chứng  quả  Phật.  Đại  Thừa  xây  dựng quả  Phật cao hơn quả A La Hán. Khi tu chứng quả A La Hán  là  quả  tâm  vô  lậu.  Tâm  vô  lậu  là  tâm không  còn  khổ  đau, tâm  giải  thoát,  tâm  làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân  hồi.  Thế  mà  Đại  Thừa  còn  bảo  tu  nữa,  đó là ý đồ của Đại Thừa là muốn quét sạch Phật giáo  ra khỏi  thế  gian  này,  cho nên  đặt  ra quả Phật để diệt  quả A La Hán. Diệt quả A La Hán tức là diệt chân lý thứ ba của Phật giáo (Diệt đế). Quả Phật không phải Diệt đế, vì Diệt đế là tâm vô lậu.
Đọc  đến bài kinh này các bạn mới thấy rõ âm mưu của Đại Thừa và Thiền Tông rất muốn diệt Phật  giáo  một  cách  sâu  sắc  khiến  cho tín đồ Phật giáo không thể nào ngờ được.



Trên đây là một bài pháp mà Phật đã  dạy cho chúng Tỳ  Kheo về pháp  môn  NHƯ LÝ  TÁC Ý  NĂM THỦ UẨN  vô  thường…  vô ngã. Duy nhất chỉ có một pháp như lý tác ý năm thủ uẩn vô thường… vô ngã. Bắt đầu tu tập như vậy, sẽ chứng từ quả Dự Lưu đến quả A La Hán.
Xem bài kinh trên đây chúng ta mới thấy pháp  như  lý  tác  ý  rất  quan trọng  trong  sự  tu tập theo Phật giáo. Nếu tu theo Phật giáo mà không  có  pháp  như  lý  tác  ý  thì chúng  tôi  tin rằng  không  có  ai  tu  giải  thoát  được. Và  không có  pháp  như  lý  tác  ý  thì chúng  ta  sẽ  tu  thiền định tưởng của ngoại đạo, chứ không phải thiền định của Phật giáo (Chánh Định).
Bài kinh này xác định rằng: người nào dùng  ý  thức  tu  tập  pháp  như  lý  tác  ý  để   ly tham, đoạn diệt ác pháp, là không tu sai Phật Pháp, còn ngược lại là tu sai. Và như vậy chúng ta  mới  có  đủ  niềm  tin vững  chắc  đối  với  pháp môn   này.   Có   niềm   tin  vững   chắc   với   Phật pháp,  thì mới  có  đủ  ý  chí sắt,  đá  và  kiên  gan, bền chí chiến đấu với giặc sanh tử. Nhờ đó  thì sự tu hành mới  có tiến bộ và  mới đạt  đến mục đích cuối cùng.
Trên đây là  một pháp môn tu tập rất đơn giản  của  Phật  giáo,  không  bị  ức  chế  tâm  một



chút nào cả, mà bất cứ người nào từ già đến trẻ đều tu tập có kết quả giải thoát như nhau, đó là “PHÁP  MÔN  NHƯ LÝ  TÁC  Ý   NĂM  THỦ  UẨN”. Xin  các bạn hãy vững lòng tin mà áp dụng vào đời sống  của mình  thì các bạn sẽ thấy kết  quả giải thoát ngay liền.





NHẬP  BỐN  THIỀN   NÊN  LƯU Ý


LỜI PHẬT DẠY

1/        “Tịnh chỉ       ngôn  ngữ     nhập  Sơ
Thiền.

2/  Tịnh  chỉ   khẩu  hành nhập  Nhị
Thiền.

3/  Tịnh  chỉ  mộng   tưởng  nhập  Tam
Thiền (ly hỷ).

4/ Tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền”.



CHÚ GIẢI:
TỊNH CHỈ NGÔN NGỮ

Những  lời dạy cô  đọng này  của  đức  Phật, là  để   chỉ  cho chúng  ta  biết  lối  vào  nhập  Tứ Thánh Định, nếu chúng ta không hiểu nghĩa rõ ràng thì chẳng biết đường nào nhập vào Bốn Thánh Định này được.
Ở   đây  Phật  dạy muốn  nhập  Sơ Thiền thì phải tịnh chỉ ngôn ngữ. Vậy tịnh chỉ ngôn ngữ như thế nào? Tịnh chỉ là gì? Và ngôn ngữ là gì?



Có  trả  lời  được những  câu  hỏi  này,  mới làm sáng tỏ nghĩa của nó. Ngôn là lời nói; ngữ là chữ viết; tịnh là thanh tịnh; chỉ là ngưng, là dừng lại. Vậy nghĩa đen chung của bốn chữ này là  “dùng  tâm  thanh tịnh   dừng  lời  nói  và đừng viết chữ mới nhập được Sơ  Thiền”.
Tâm thanh tịnh là gì? Tâm thanh tịnh là tâm ly dục, ly ác pháp. Muốn tâm ly dục ly ác pháp  thì pháp  môn  Tứ  Chánh  Cần,  Tứ  Niệm Xứ  và  Thân  Hành  Niệm  phải  siêng  năng  tu tập. Vậy Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Thân Hành Niệm phải tu tập như thế nào? Muốn tu tập  Tứ   Chánh  Cần  thì phải  tu  tập  bốn  loại định:
1/ Định Niệm Hơi Thở

2/ Định Vô Lậu

3/ Định Sáng Suốt

4/ Định Chánh Niệm Tỉnh Giác

Nên  nhớ  luôn  luôn  tu  các  định này  phải kết hợp với pháp như lý tác ý.
Muốn tu tập Tứ Niệm Xứ, thì phải dùng pháp như lý tác ý quét chướng ngại pháp trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp bằng 18 đề mục của  Định  Niệm  Hơi   Thở,  phải  thiện  xảo  áp dụng đúng cách.



Muốn tu tập pháp môn Thân Hành Niệm, thì phải  tu  tập  tác  ý  theo  thân  hành  niệm  nội hay ngoại.
Nhờ tu tập những pháp môn trên đây mà tâm  được  thanh  tịnh.  Khi tâm  thanh  tịnh  thì lúc bấy giờ mới có thể tịnh chỉ  ngôn ngữ. Tâm chưa ly dục ly  ác  pháp  thì không  thể  nào  tịnh chỉ ngôn ngữ được.
Nếu  chúng  ta  hiểu  nghĩa  tịnh  chỉ  ngôn ngữ  bằng  cách  không  nói  chuyện  (tịnh khẩu), thì ngàn đời tu hành cũng chẳng nhập được Sơ Thiền chút nào.
Nhưng  chúng  ta  cũng  nên  nhớ,  khi tu  tập pháp môn Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Thân Hành Niệm, thì phải thực hiện phòng hộ sáu căn, do đó chúng ta tránh hội họp, tránh nói chuyện,  sống  trọn  vẹn  trầm  lặng  độc  cư, mà còn phải giữ tâm độc trú nữa. Có như vậy sự tu hành mới có thể đi đến nơi, đến chốn.
Từ  lâu  tại  tu  viện  Chơn  Như  này,  có  biết bao người  về  tu  tập,  nhưng  đều  tu  sai  pháp, sống không đúng hạnh phòng hộ sáu căn. Và vì thế đến nay họ đã  mang nợ áo cơm của đàn na thí chủ  quá  nhiều,  uổng  phí  một  đời  tu  hành của họ mà thôi, cũng chỉ vì không tin Thầy, hành  không  đúng  lời  dạy.  Bây  giờ  họ  tin ai



trong đời này. Ai  là  người đã tu tập nhập được Tứ  Thánh  Định và  thực  hiện  được Tam  Minh? Không tin Thầy thì chỗ nương tựa đã  mất. Mất chỗ  nương tựa,  rồi  đây  các  bạn sẽ  về  đâu?  Tu tập như các bạn  đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo. Sống dở, chết dở. Phải không các bạn?
Khi nghe hỏi vậy, chắc các bạn sẽ trả lời: “Thiếu gì chỗ tựa nương, đâu phải chỉ có Thầy sao”. Đúng  vậy,  nhưng  để  xem các  bạn tu  hành  được  những  gì? Hay  chỉ  nói  xấu  Thầy mình  mà thôi.
Vì  lòng  yêu  thương,  nên  Thầy  nói  thế  để rồi  trên  đường  tu  tập  của  các  bạn  sẽ  trôi  về đâu…  thì đó  là  đáp  số  của  các  bạn. Dù  sao một giây,  một  phút,  một  giờ,  một  ngày  cùng  sống bên  nhau,  thì cũng  còn  mang  trong  lòng  một chút tình nghĩa Thầy trò. Phải không các bạn? Thầy  chỉ  có  một  kiếp  này,  một  lần  này  ở   thế gian mà thôi.
“Những buổi chiều tà mưa phủ trắng

Thầy cười tha thứ kẻ vong ân”.

TỊNH CHỈ KHẨU HÀNH

Muốn nhập Nhị Thiền thì phải tịnh chỉ khẩu  hành.  Vậy  tịnh  chỉ  khẩu  hành  như  thế



nào?  Tịnh chỉ  thì các  bạn  đã  hiểu  nghĩa  rồi. Vậy khẩu hành là gì?
Có trả lời được  những câu hỏi này mới làm sáng  tỏ  nghĩa  của  nó.  Khẩu  hành  là  sự  hoạt động của miệng. Miệng có hai phần hoạt động:
1-  Miệng dùng để ăn.

2-  Miệng dùng để nói chuyện.

Khẩu  hành  là  sự  hoạt  động  của  miệng. Vậy nghĩa đen chung của cả bốn chữ tịnh chỉ khẩu  hành  này  là   “dùng  tâm   thanh  tịnh dừng  sự  hoạt  động  của  miệng nhập  Nhị Thiền, tức  là  dừng  lại  sự  nói  chuyện  và không ăn uống”.
Làm cách nào để miệng ngưng hoạt động nhập Nhị Thiền? Câu ở  trên đức Phật đã dạy: “Tịnh   chỉ  khẩu   hành   nhập   Nhị   Thiền”. Vậy  tịnh  chỉ  như  thế  nào?  Như  chúng  tôi  đã nói ở  trên. Tịnh chỉ là ly dục ly ác pháp, nghĩa là  khi tâm  ly dục  ly ác  pháp  thì tâm  thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là tâm bất động, tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Tâm không còn tham, sân, si nữa là tâm có đủ bảy năng  lực,  nhờ  bảy  năng  lực  ấy  mới  làm  cho khẩu  hành  ngưng hoạt  động.  Nếu  tâm  chưa có đủ bảy năng lực thì khó mà nhập định được.



Tịnh chỉ  khẩu  hành,  nói thì dễ  mà  tu tập thì không phải dễ. Tịnh chỉ là cả một quá trình tu tập của Phật giáo, đòi hỏi người tu sĩ phải sống đúng giới luật không được vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả.
Cho nên, khi nghe Phật nói: Ly dục ly bất thiện  pháp  nhập  Sơ Thiền  do ly  dục  sinh  hỷ lạc,  thì chúng  ta  tưởng  ngồi  thiền  nhiếp  tâm cho hết  vọng tưởng  là  sẽ  nhập  Sơ Thiền.  Điều này không thể được các bạn ạ! Như chúng ta ai cũng  nói  ly  dục được,  nhưng  không  phải  nói  ly dục là tâm ta ly dục được liền. Muốn ly dục, ly ác  pháp  thì chúng  ta  cũng  phải  bỏ  hết  cả  cuộc đời   để  tu  tập,  vừa  sống  đúng  phạm  hạnh,  vừa tu  tập  cho  đúng   pháp  môn.  Nếu  sống   đúng Phạm hạnh,  mà  tu  tập  không  đúng  pháp  môn thì được lợi ích phân nửa, còn Phạm hạnh sống không đúng mà chỉ tu đúng pháp thì chẳng ích lợi gì,  trái  lại  còn  có  tai  hại,  nghĩa  là  sống phạm giới,  phá  giới  mà  tu  tập  thiền  định, thì sẽ  rơi vào  tà  thiền,  một  loại  thiền  rất  nguy hiểm, làm mất đường giải thoát.
TỊNH CHỈ MỘNG TƯỞNG

Như  lời  Phật  đã  dạy:  “Muốn nhập  Tam Thiền  thì phải  tịnh   chỉ mộng tưởng”.  Vậy tịnh chỉ mộng tưởng như thế nào? Tịnh chỉ thì



các  bạn đã  hiểu  nghĩa  rồi.  Vậy  mộng  tưởng  là gì? Có trả lời được  câu hỏi này mới làm sáng tỏ nghĩa  của  nó.  Mộng  tưởng  là  tưởng  tri những điều  không  có  thật,  là  những  trạng  thái  do tưởng uẩn tạo ra giống như những người lên đồng, nhập cốt, giống như các nhà ngoại cảm, giống như giấc chiêm bao. Đó là những sự hoạt động của tưởng uẩn.
Mộng  tưởng  là  sự  hoạt  độâng  của  tưởng. Vậy nghĩa đen chung cho cả bốn chữ tịnh chỉ mộng   tưởng   này   là   “dùng   năng   lực   tâm thanh tịnh tức  là  Thất Giác  Chi  dừng  sự hoạt  động của  tưởng  uẩn nhập  Tam Thiền”.
Làm cách nào để tưởng uẩn ngưng hoạt động   nhập  Tam  Thiền?  Câu  nói  ở    trên  đức Phật  đã   dạy:  “Tịnh   chỉ mộng  tưởng  nhập Tam Thiền”. Vậy tịnh chỉ như thế nào? Như chúng  tôi  đã  giải  thích  nghĩa  tịnh  chỉ  ở  trên. Tịnh chỉ là ly dục ly ác pháp, nghĩa là khi tâm ly  dục  ly  ác  pháp  thì tâm  thanh  tịnh.  Tâm thanh  tịnh  là  tâm  bất  động.  Tâm  không  còn tham, sân, si, mạn nghi.  Tâm không còn tham, sân,  si…  nữa,  là  tâm  có  đủ  bảy  năng  lực,  nhờ bảy  năng  lực ấy  mới  làm  cho tưởng  uẩn  ngưng hoạt  động.  Nếu  tâm  chưa có  đủ  bảy  năng  lực



Giác Chi  thì không  Tịnh chỉ  mộng tưởng  nhập
Tam Thiền (ly hỷ) được.

TỊNH CHỈ HƠI THỞ

Muốn nhập Tứ Thiền thì phải tịnh chỉ hơi thở. Vậy tịnh chỉ hơi thở như thế nào?
Tịnh chỉ  thì các  bạn  đã   hiểu  nghĩa  rồi. Vậy  hơi  thở  là  gì? Hơi  thở  là  sự  hoạt  động  tự nhiên của thân bạn, để tiếp thu thể khí bên ngoài mà nuôi dưỡng thể khí bên trong.
Hơi thở là sự hoạt độâng nội của thân, thân còn  sống  thì còn  thở,  thân  không  còn  sống  là thân hết thở. Vậy hơi thở là mạng sống của con người.  Nghĩa  đen  chung  của  bốn  chữ  tịnh  chỉ hơi  thở  này  là:  “dùng  năng  lực  tâm  thanh tịnh  tức  là  Thất Giác  Chi   dừng  sự  hoạt động  nội thân  để hoàn toàn thân bất động nhập Tứ Thiền”.
Muốn  nhập  Tứ  Thánh  Định thì các  bạn nên  lưu ý:  “Khi nào mình có  đủ  7  năng lực Giác Chi  thì  mới nhập được, còn chưa  đủ 7
Giác  Chi  thì   đừng  mong  sờ  mó   đến  Bốn
Thánh Định  này”.




BẬC A LA HÁN


LỜI PHẬT DẠY

“Này Ràdha, có năm thủ uẩn này, Thế  nào  là  năm?  Sắc  thủ  uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn.
Này  Ràdha!  Khi  nào  Tỳ  Kheo  sau khi   như   thật biết  rõ,   sự  tập  khởi, sự đoạn  diệt,  vị  ngọt, sự  nguy  hiểm và  sự xuất ly của năm thủ uẩn này, vị ấy được giải  thoát,  không có  chấp thủ;  như  vậy, gọi vị Tỳ Kheo là bậc A La Hán, đã đoạn tận  các  lậu  hoặc,  đã  thành tựu  Phạm hạnh,  đã  làm  những  việc  phải  làm,  đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, đã đoạn tận hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh trí”.
(Tương Ưng Kinh tập 3 trang 337)


CHÚ GIẢI:



Đọc  qua đoạn kinh này,  chúng  ta  thấy
chứng quả A La Hán không phải khó khăn, chỉ có  thật  quán  thân  ngũ  uẩn  như  thật,  để  thấu suốt  năm  uẩn  này  không  phải  là  ta,  là  của  ta, là  bản  ngã  của  ta,  nó  vô  thường,  khổ,  vô  ngã, nó là người xa lạ, nó là nguy hại, là ổ   bệnh tật khổ đau, v.v...
Chỉ  cần chính  quán  như lý  tác ý  năm  thủ uẩn  này  như  vậy,  thì chứng  quả  A  La  Hán không  có  khó  khăn,  không  có  mệt  nhọc.  Đọc hai  bài  kinh trong  tập  3 Những  Lời  Phật  Dạy này,  thì quý  vị  Thấy  Phật  giáo  không  phải  là pháp môn tu tập không được. Nhưng chúng ta phải  thấy  rằng:  Người  tu  theo  Phật  giáo  phải có  nghị  lực,  phải  gan  dạ  và  bền  chí  thì mới thực sự thấy thân ngũ uẩn không phải là ta, là của  ta.  Còn  nếu  không  có  nghị  lực, không  gan dạ và bền chí thì xin các bạn đừng tu theo Phật giáo. Dù bạn có tu cũng chẳng có lợi ích gì cho
bạn.

Đoạn kinh trên đã xác định rõ ràng đường lối và cách thức tu tập của Đạo Phật như thật quán thân ngũ uẩn thì sẽ chứng quả A La Hán rõ ràng và cụ thể.


LY DỤC THAM


LỜI PHẬT DẠY

“Này    Ràdha,    phàm    có    dục    nào, tham   nào,  hỷ  nào,  khát  ái  nào  đối  với sắc,  hãy  từ  bỏ  chúng.  Như   vậy  sắc  sẽ được đoạn  tận,  cắt  tận  gốc  rễ,  làm  cho như  thân cây  ta  la, làm  cho không thể tái   sanh,   không   thể   sanh   khởi trong tương  lai.
Đối  với  thọ, tưởng,  hành thức cũng
vậy”.


CHÚ GIẢI:

Đọc  đoạn kinh này  chúng  ta  mới  nhận ra pháp  hành  thiền  định cụ  thể  của  Phật  giáo là  có  dục  nào,  tham  nào,  hỷ  nào,  khát  ái  nào đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì hãy từ bỏ chúng, có nghĩa là không làm theo chúng, thì sắc,  thọ,  tưởng,  hành,  thức  sẽ  được đoạn tận, cắt tận gốc rễ không còn sanh khởi nữa.



Phương pháp tu này rất đơn giản chỉ cần không làm theo dục tham, dục sân, dục si... thì cuối   cùng   thân   ngũ   uẩn   này   mới   như   thật không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta.
Có  đoạn dứt  được như  vậy  thì trước  các cảm thọ ta mới có thể bất động tâm được. Nếu không từ bỏ được, không ngăn chặn được lòng tham dục thì chúng ta khó mà  thành tựu pháp quán  thân,  thọ,  tâm,  pháp  vô  thường,  khổ,  vô
ngã.

Và  không  thành  tựu  được pháp  môn  này thì khó  cho ta  thấy  được quả  giải  thoát  vô  lậu A La Hán.
Từ   bỏ  lòng  tham  dục  thì chúng  ta  phải nhận  thấy  rõ  ràng  từng  tâm  niệm  dục, dù  dục rất  vi tế  rất  nhỏ  nhặt.  Ví  dụ:  tham  dục  ăn, tham dục ngủ, tham dục làm việc, tham dục nói chuyện,   tham  dục   đọc   kinh  sách,   tham  dục nghe băng giảng, tham dục tu nhiều, tham dục hỷ lạc, tham dục khinh an v.v..
Chúng  ta  chỉ  có  ly  được dục  là  đoạn dứt được thân ngũ uẩn, đó là ý chính của bài kinh này và cũng là pháp hành độc đáo thiền định của  Phật  giáo  mà  mọi  người  không  thể  ngờ được.


TRANH LUẬN


LỜI PHẬT DẠY

“Này các Tỳ Kheo, Ta không tranh luận  với  đời,  chỉ  có  đời  tranh luận  với Ta.   Này  các  Tỳ  Kheo,  người  nói  Pháp không tranh luận bất cứ một ai ở  đời”.
(Tương Ưng Kinh tập 3 trang 249)


CHÚ GIẢI:
Ngày xưa, lúc đức Phật còn tại thế, Ngài  thuyết  pháp  là  dựng lại  những  pháp  nào đúng với chân lý giải thoát của loài người. Ngài còn mạnh dạn chỉ thẳng và dẹp bỏ những pháp
nào  sai,  để   cho  người  đời   sau  biết  rõ  tránh
không   lầm   lạc.   Vì   thế,   ngoại   đạo   tức   giận thường tìm Phật tranh luận hơn thua cao thấp. Cho nên đoạn kinh trên đây là đức Phật đã xác định Ngài  không  tranh luận  hơn  thua  bất  cứ một ai. Nhưng những pháp nào lừa đảo làm cho con người  hao tài  tốn  của  một  cách  nhảm  nhí và tốn hao công sức tu hành không được những



gì ích lợi thiết thực, thì Ngài nói thẳng, chỉ thẳng   để    dẹp bỏ.   Cho  nên,   trong   cuộc   đời thuyết pháp độ  sanh Ngài bị ngoại đạo lăn đá, cho voi  say đến  giết  Ngài,  và  cho phụ  nữ  giả mang  thai,  vu  khống  Ngài,  làm  cho  mất  uy tín...  Nhưng   tà  pháp  sao  thắng  được chánh pháp.  Cuối  cùng,  đức  Phật  đã   giảng  dạy  cho loài  người  đầy  đủ  các  pháp  hành  về  đạo  đức làm  người  không  làm  khổ  mình,   khổ  người. Đến  80  tuổi  Ngài  ra đi  với  tâm  nguyện  viên mãn, để lại cho chúng sanh một nền đạo  đức nhân bản tuyệt vời tức là bốn chân lý.
Chúng  tôi  là  đệ   tử  của  Phật,  noi  gương Ngài,  những  gì của  Phật  đã  bị  ngoại  đạo  ném bỏ  xuống,  thì chúng  tôi  dựng lại, còn  những  gì không phải của Phật, gây ảnh hưởng xấu tai tiếng cho Phật giáo, gây ảo tưởng, trừu tượng, mê  tín, lạc  hậu  v.v..  khiến  cho Phật  giáo  suy đồi, thì chúng tôi ném bỏ xuống hết. Bởi vì khi tu  xong chúng  tôi  như  những  người  đứng  trên núi  cao nhìn  xuống,  thấy  kinh sách  Đại  Thừa và  các Tổ  tu hành không đúng với chánh pháp của  Phật,  chúng  tôi  đều biết  rõ.  Do đó,  Tổ  nào có  ý  đồ  ném  bỏ  và  kiến  giải  sai  về  Phật  giáo thì chúng tôi có bổn phận phải chỉnh đốn lại và làm  cho  con  đường  Phật  giáo  sáng  chói  huy

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


hoàng, chứ không thể để cho Phật giáo biến thành một đống rác giáo lý tổng hợp (84 ngàn pháp  môn).  Nhờ  đống  rác  giáo  lý  ấy,  mới  có một  số  người  lợi dụng làm  nghề  sinh  sống  mê tín, lừa  đảo  và  làm  cây  chùm  gửi,  ăn  bám  vào người  khác,  biến  họ  trở  thành  gánh  nặng  cho xã hội.
Lời nói này, tin hay không tin là  quyền ở các  bạn.  Nhưng  chúng  tôi  tin chắc  rằng:  các bạn  đều là  những  người  có  trí,  thấy  rộng  hiểu xa, thì lời  nói  của  chúng  tôi  không  phải  là  vô ích. Còn riêng chúng tôi là tu sĩ Phật giáo, có bổn phận  phải dựng lại những gì của  đức  Phật đã  bị  ném  bỏ,  và  dẹp bỏ  những  gì không  phải của Phật giáo.
Theo lời  Phật  dạy trên đây, chúng tôi xin gửi  đến  các  bạn  một  bức  tâm  thư  để  các  bạn tránh những lỗi lầm dẫm lại lối mòn của Bà La Môn  ngày  xưa, luôn  luôn  tìm cách  tranh luận hơn  thua  với  Phật,   nói  xấu  Phật,  diệt  Đạo Phật,  nhưng  Đạo  Phật  chân  chánh  ngày  nay vẫn còn. Phải không các bạn?





0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!