Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

những lời gốc phật dạy - tập 4-10



Không có vị Tổ  sư nào dám nói: ‚Tôi biết việc  này,  tôi  thấy việc  này,  chỉ  đây  là  sự thật ngoài ra đều là sai lầm‛.
Đọc   hết   kinh  sách   Đại   Thừa   các   bạn không  bao giờ  thấy  có  lời dạy  như  trong  kinh sách Nguyên Thủy. Ở  đây trong kinh sách Nguyên Thủy các bạn thường thấy đức Phật và các  vị  đệ   tử  của  Phật  khi  tu  chứng  thường tuyên bố: ‚Sanh đã tận, Phạm hạnh  đã thành, những  gì nên  làm  đã  làm,  sau đời này   sẽ không có đời sống khác nữa‛.
Kính  thưa  các  bạn! Khi các  bạn  đọc kinh sách  Đại  Thừa  có  thấy  vị  Tổ  sư nào  dám  to tiếng tuyên bố: ‚Tôi biết việc này, tôi thấy việc này, chỉ đây là sự thật ngoài ra  đều là sai lầm‛ như trong kinh Nguyên Thủy này không?
Trong   kinh  sách   Nguyên   Thủy   thường nhắc đến các vị chứng đạt chân lí tâm bất động trước các ác pháp  và các cảm thọ đều  tuyên bố như Phật đã tuyên bố: ‚Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau  đời    này    sẽ  không có  đời  sống  khác nữa‛. Khi đã tuyên bố như vậy là biết mình  đã tu  xong.  Người  đã   tu  xong  mới  dám  nói  câu



này:  ‚Tôi  biết  việc  này, tôi thấy  việc  này, chỉ   đây  là  sự  thật ngoài  ra   đều  là  sai lầm‛.  Người  nói  như  vậy  mới  thật  sự  là  đệ  tử của  Phật.  Khi tu  chưa chứng  thì thấy  lỗi  mình không  thấy  lỗi  người,  nhưng  khi đã  tu  chứng thì không hèn nhát, không sợ hãi, dám nói thẳng nói thật như đức Phật ngày xưa. Đúng là nói đúng, sai là nói sai; không tư vị, không xu nịnh ai  cả,  cũng  chỉ  vì một  mục  đích duy nhất là bảo tồn Chánh pháp của Phật.
Hầu hết đệ tử của đức Phật trong kinh Nguyên Thủy, khi tu chứng đạt chân lí đều nói những lời trên đây. Vị đệ tử cuối cùng của đức Phật, lúc Phật sắp nhập Niết Bàn, khi nghe thuyết giảng xong liền buông xả sạch các pháp thế  gian,   chứng  đạt  chân  lí,   Ông  dõng   dạc tuyên  bố  trước  mọi  người  và  đức  Phật:  ‚Sanh đã  tận,  Phạm  hạnh đã  thành, những  việc gì nên  làm  đã  làm,  sau đời   này   sẽ không có đời khác nữa‛.
Kính  thưa  các  bạn!  Từ  khi có  kinh sách Đại Thừa cho đến nay, các bạn chưa từng nghe các  bậc  tôn  túc  Tổ  sư, từ  người  khởi  sự  biên soạn kinh sách Đại Thừa cho đến hiện nay các vị  tôn  túc  Hòa  Thượng,  Thượng  Tọa, Đại  Đức Tăng  Ni đều  đã  học  và  tu  tập  giáo  pháp  kiến



giải chưa có vị nào dám tuyên bố. ‚Tôi đã tu chứng đạo, làm chủ sanh, già, bệnh, chết, chấm dứt  luân  hồi‛.  Chính  vì con đường của Đại Thừa không thể tu chứng được, cho nên họ đâu  dám  nói:  ‚Tôi   biết   việc   này,  tôi  thấy việc này, chỉ đây là sự thật ngoài ra  đều là sai lầm‛.
Mục đích giải thoát  của  Đại  Thừa mù mờ, ảo tưởng không rõ ràng, không cụ thể. Vì thế, các Thầy Đại Thừa giống như những người mù, một chuỗi người mù ôm lưng nhau, người trước không thấy, người giữa cũng không thấy và người cuối cũng không thấy. Cho nên đâu dám bảo: ‚Sanh đã tận, Phạm hạnh  đã thành, những việc gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ  không có đời khác nữa‛.  Riêng Phật  giáo Nguyên  Thủy  khi chứng  đạt  đều  nói  câu  này mà còn dám nói: ‚Tôi  biết  việc này, tôi thấy việc này, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là sai lầm‛. Không thấy mục đích giải thoát cho nên lòng   tin  của   các  Thầy   Đại   Thừa  trở   thành không   có   căn   cứ.   Nhưng   lại   muốn   che  đậy những  điều  sai  lầm  này  nên  các  Tổ   sư  Đại Thừa  bảo  như  trên  đã  nói:  ‚Ai thấy mình tu chứng đắc là chưa chứng đắc (vô sở đắc), chứng đắc  không thấy mình đắc  mới  là



chứng đắc‛.  Lời  dạy  này  là  một  lối  lý  luận khéo  léo  gian  xảo.  Từ  đó  về  sau các  Thầy  Đại Thừa  thường  dùng  những  từ  này  ‚vô  sở  đắc‛. Khi nghe  ai  nói  chứng  đắc.  Cho  nên,  người Phật tử khó phân biệt người tu sĩ của Phật giáo tu chứng hay chưa tu chứng, còn xét về giới luật thì các Ngài lý luận: ‚Hạnh trực thì  đâu cần giữ  giới‛.  Cho nên  ‚Tự  tại  vô  ngại  đói  ăn, khát  uống, mệt  ngủ‛.  Do lí luận này nên mới có Nam Tuyền sát miêu, Lâm Tế chém rắn, Thượng Sĩ Tuệ Trung ăn thịt uống rượu và Tế Điên Hòa Thượng ăn thịt chó uống rượu li bì.
Giáo pháp tu hành phải đặt trọn lòng tin có  căn  cứ  rõ  ràng,  cụ  thể,  thực  tế,  chứ  không thể chỉ có lòng tin suông được. Nếu chỉ có lòng tin suông  là  lòng  tin mù  quáng.  Từ   lâu  quý Phật tử đã  đặt trọn lòng tin vào kinh sách Đại Thừa  không  căn  cứ  vững  chắc.  Kinh Đại  Thừa là  một  loại  kinh sách  có  một  mục  đích  giải thoát  mơ hồ,  trừu  tượng,  ảo  tưởng,  không  thực tế, không  cụ  thể. Cho nên, đức Phật  dạy: ‚Lời nói  của  các  Bà  La  Môn cũng  giống  như chuỗi  người  mù,  người  trước không thấy, người  giữa  không thấy, người  cuối  cùng cũng  không  thấy. Này  Bharadvaja, Ngươi




nghĩ thế nào?  Có phải lòng tin của các Bà
La Môn trở thành  không có căn cứ?‛.

Xưa đức  Phật  chỉ  vạch  giáo  pháp  của  Bà La  Môn  sai  như  vậy.  Hiện giờ  chúng  tôi  cũng vậy,  vạch  trần  bộ  mặt  thật  của  Đại  Thừa,  từ bao lâu thế kỷ nay biết bao nhiêu thế hệ trẻ đã bị lừa, chẳng có ai tu hành ra gì. Chỉ toàn là tu danh, tu lợi, tu chùa to, Phật lớn, tu ăn tu ngủ. Thật là đau lòng. Phải không các bạn?
May ra chúng ta còn có những bài kinh Nguyên  Thủy  để  so sánh,  xác  chứng  kinh sách Đại  Thừa  là  kinh sách  của  ngoại  đạo  lồng  vào giáo  pháp  của  đức  Phật  để  lừa  gạt  tín đồ  Phật giáo,  biến tín đồ  Phật  giáo  thành  tín đồ  ngoại đạo mê tín, lạc hậu, chỉ có tin một cách mù quáng, để làm tay sai cho những người đầu cơ tôn giáo làm giàu trên mồ hôi nước mắt của hàng ngàn tín đồ.  Và  thiêu  hủy biết bao nhiêu tiền  của  do lòng  mê  tín của  đồng  bào  cả  nước cúng kính.





HỘ TRÌ CHÂN LÍ


LỜI PHẬT DẠY

‚Thưa Tôn giả Gotama, cho đến mức  độ nào  là  hộ  trì chân lí?  Cho đến mức  độ nào  chân   lí hộ  trì?  chúng  con xin  hỏi Tôn giả  Gotama về hộ  trì chân
lí‛.
(Kinh Trung  Bộ tập II Trang  227, Kinh Canki)


CHÚ GIẢI:
Kính thưa các bạn! Bất cứ một tôn giáo nào,  khi các  bạn  muốn  đến với  tôn  giáo  ấy  thì lòng  tin của  các  bạn  là  trước  tiên,  khi có  lòng tin thì các bạn mới  siêng năng thực hành giáo pháp  của  tôn  giáo  đó.  Thực  hành  giáo  pháp  đó
gọi  là  hộ  trì chân  lí,  nhưng  khi hộ  trì chân  lí
mà các bạn chưa giác ngộ và chưa chứng đạt chân  lí đó  thì các  bạn  không  nên  vội  kết  luận một  chiều:  ‚Chỉ đây  là  sự  thật,  ngoài  ra là sai lầm‛.  Bởi  vì các  bạn là  những  người  đang



tu  tập  giáo  pháp  đó  chứ  chưa phải  là  người  tu chứng đạo.
Cho nên, đoạn kinh trên đây do một vị Bà La  Môn  hỏi  Phật:  ‚Cho  đến   mức  độ   nào người  tín đồ  hộ  trì chân lí hay  nói  cách khác  chân  lí được  hộ  trì‛.  Ở   đây  các  bạn nên  lưu ý:  ‚Cho đến  mức độ  nào người  tín đồ  hộ  trì chân  lí‛.  Lời dạy  này  có  nghĩa  là các bạn phải hiểu biết về chân lí ở  mức độ  phải thông  suốt  như  thật.  Nếu  sự  hiểu  biết  của  các bạn chưa thông suốt chân lí như thật mà vội tu tập là các bạn tu tập không đúng pháp, lòng tin của các bạn là tin mù quáng, Tin  mù quáng mà các bạn tu tập thì cũng chỉ hoài công vô ích mà thôi. Khi các bạn đã  ngộ được chân lí, thì sự tu tập của các bạn là do lòng tin không mù quáng, lòng tin chân thật. Từ lòng tin chân thật mà tu tập,  đó  là  các  bạn hộ  trì chân  lí hay nói  cách khác  là  chân  lí được  hộ  trì. Chân  lí còn  đang hộ  trì thì sự  tu  hành  của  các  bạn  chưa chứng đạt chân lí,  chưa chứng đạt chân lí thì các bạn không  được quyền  kết  luận:  ‚Chỉ  đây  là  sự thật, ngoài ra đều sai lầm‛.
Câu  này  dạy  rất  rõ  người  tu  chưa chứng đạo  thì không  có  quyền  nói  pháp  mình  đúng nói pháp người khác sai. Các bạn có hiểu chưa?



Ví  du:ï  Đức  Phật  là  người  đã  tu  tập  giác ngộ  và  chúng  đạt  chân  lí, nên  Người  có  quyền kết luận: ‚Chỉ đây là  sự  thật,  ngoài  ra điều là   sai  lầm‛.   Thầy  Thông  Lạc  cũng  vậy,  là người đã  làm chủ được sanh, già, bệnh, chết và chứng  ngộ  được chân  lí.  Người  có  quyền  nói: “Đây   là  giáo  pháp   Nguyên  Thủy của  Phật  là đúng,  là  sự  thật;  còn  giáo  pháp  Đại Thừa  và Thiền Đông Độ là sai lầm, không đúng chánh pháp,   là giáo pháp  của  ngoại đạo  lừa  đảo  mọi người”.
Chúng  ta  hãy  đọc  kỹ  đoạn kinh này,  đức Phật  đã   dạy:  ‚Này  Bharadvaja, nếu  người nào có lòng tin và nói: ‚đây là lòng tin của tôi‛,   người   ấy   là   người   hộ   trì  chân   lí, nhưng  người  ấy  không  được  kết luận  một chiều: ‚Chỉ đây  là  sự  thật, ngoài ra  đều là sai lầm‛.
Đoạn  kinh trên  đức  Phật  đã  xác  định rõ ràng:  chỉ  mới  có  lòng  tin tu  tập  giáo  pháp  thì các  bạn  không  được quyền  nói  đúng,  nói  sai giáo pháp của ai cả. Vì nói đúng, nói sai là các bạn sai. Trên  đây  là  người  mới  có  lòng  tin và chưa chắc  lòng  tin đó  đã  đúng.  Người  mới  có lòng  tin thì sự  tu  tập  chỉ  ở    giai  đoạn  hộ  trì



chân  lí bằng  lòng  tin của  mình  mà  thôi,  chưa có sâu xa.
Khi các  bạn đến  chùa  nghe thuyết  giảng, các  bạn  phải  suy tư  cân  nhắc  mọi lý  lẽ  để  tìm hiểu chân lí mà các bạn cần phải hiểu. Khi tìm hiểu chân lí ấy có đồng một quan điểm với các bạn không? Nếu thấy chân lí đó đồng một quan điểm với các bạn thì các bạn nói: ‚Tôi chấp nhận chân lí này,  vì nó  có  đồng  một quan điểm với tôi, tôi  sẽ hộ  trì chân lí này‛.  Khi các  bạn tìm hiểu  và  chấp  nhận tu theo  chân  lí này  đồng  một  quan  điểm thì các  bạn  không được kết luận một chiều như trong kinh đã dạy:
‚chỉ đây là sự thật ngoài ra là sai lầm‛.

Trên  đây  là  giai  đoạn  2  hộ  trì chân  lí bằng nghe thuyết giảng, tuỳ văn cùng một quan điểm. Nhưng  ở   đây chưa phải là  giác ngộ  chân
lí.

Những điều chúng tôi chú giải trên đây là đức Phật đã dạy: ‚Này Bharadvaja, nếu có người  có  lòng  tùy  hỉ...;  nếu  có  người  có lòng tùy văn...; nếu có người có sự cân nhắc...,  suy  tư  các  lý  do...;  nếu  có  người chấp nhận  một quan điểm  và  nói:  ‚Đây  là sự chấp nhận quan  điểm của tôi‛, người ấy



hộ  trì chân lí nhưng   người  ấy  không  đi đến kết luận một chiều: ‚đây là sự thật, ngoài  ra là  sai lầm‛.  Cho đến  như vậy  này Bharadvaja,  là  hộ   trì chân lí chúng  tôi chủ  trương  hộ   trì chân lí nhưng   ở    đây chưa  phải sự giác ngộ chân lí…‛.
Tóm lại  hộ  trì chân  lí có  5 điều  cần  phải thông hiểu:
1- Tín (lòng tin).

2- Tùy hỉ hợp ý.

3- Tùy văn (nghe thuyết giảng).

4- Cân nhắc suy tư các lý do.

5- Chấp nhận cùng quan điểm.

Người mới tu tập còn nằm trong năm điều này  tức là  đang hộ  trì chân lí,  chứ không  phải giác  ngộ  chân  lí mà  cũng  chưa chứng  đạt  chân lí.  Chưa chứng  đạt  chân  lí thì không  được  kết luận  vội vàng cho pháp  môn  của mình  đang tu tập là đúng mà các pháp môn khác là sai. Chừøng  nào  chứng  đạt  được chân  lí thì mới  cho rằng: ‚Chỉ có đây là sự thật, ngoài ra là sai lầm‛.



Â


GIÁC NGỘ CHÂN LÍ


LỜI PHẬT DẠY

‚Thưa Tôn giả Gotama. Cho đến mức  độ nào  là giác ngộ chân lí? chúng con  xin   hỏi  Tôn  giả  Gotama  về  giác
ngộ chân lí‛.
(Kinh Trung  Bộ tập II, kinh Canki trang 728)


CHÚ GIẢI:
Giác  ngộ  chân  lí tức  là  hiểu  rõ  chân  lí. Vậy chân lí ở  đây là gì?
Đoạn kinh trên đây do Bà La Môn Bharadvaja hỏi đức Phật muốn giác ngộ chân lí phải làm sao?
Theo Phật giáo Nguyên Thủy thì chân lí không  phải  ở    đâu  xa  mà  ở    tại  nơi  tâm  con người. Nếu một người còn tâm tham, sân, si mà không biết mình  còn tâm tham, sân, si là người ấy  chưa ngộ  chân  lí.  Người  giác  ngộ  chân  lí là người  biết  rõ  tâm  có  tham  biết  tâm  có  tham,



tâm có sân biết tâm có sân, tâm có si biết tâm có si. Người biết như vậy là người đã giác ngộ chân lí.
Người  giác ngộ  chân  lí là  người  ngay trên bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp mà nhiếp phục các  ác  pháp  và  ly  các  dục. Nhờ  có  ly  dục  ly  ác pháp trên bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp là họ chứng đạt được chân lí.
Người  chưa giác  ngộ  chân  lí,  nên  nghe ai nói gì hợp với quan điểm của mình  là tin ngay liền. Tin  một  cách mù quáng, vì thế, bỏ hết  cả cuộc đời đi theo tôn giáo mà chẳng có lợi ích gì và sự tu hành cũng chẳng đến đâu cả. Các bạn có thấy mọi người tín ngưỡng tôn giáo với lòng tin mù quáng không?
Các  Thầy  Đại  Thừa  tin mù  quáng  theo kinh sách  Đại  thừa,  cả  cuộc  đời  của  quý  Thầy chỉ chạy theo danh và lợi để  rồi chết trong đau khổ và bệnh tật, chẳng có nếm được mùi vị giải thoát.
Đây,  các  bạn  hãy  nghe  đức  Phật  dạy  mà suy ngẫm lại các Thầy Đại Thừa: ‚Này Bharadvaja,  Tỳ  kheo  sống  gần  một  làng hay một thị trấn. Một gia chủ hay con trai của một gia chủ đi đến vị ấy và tìm hiểu vị

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


ấy trong  ba pháp, tức là tham  pháp, sân pháp  và  si  pháp.  Người  này  nghĩ  rằng:
‚Không  hiểu vị  Tôn  giả  ấy  có  còn  tham ái hay  không? Do những tham  ái này, tâm vị ấy bị chi phối dầu không biết vẫn nói: ‚Tôi biết‛,  dầu  không  thấy  vẫn  nói: ‚Tôi thấy‛ hay xui khiến người khác có những hành động khiến   người   ấy   không được  hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài‛. Đoạn kinh này đã  xác  định rõ  ràng.  Nếu  xét  thấy  vị  Tỳ  kheo nào còn bị tham pháp, sân pháp, si pháp thì người ấy chưa chứng đạt chân lí. Người chưa chứng đạt  chân  lí chỉ  là  người  mới  hộ trì chân lí.  Người  mới  hộ  trì chân  lí mà  nói  người  này sai,  người  kia  đúng  là  người  mù  mắt  mà  nói mầu sắc.
Cho  nên,  vấn  đề   tu  tập  theo  Phật  giáo hành giả phải giác ngộ chân lí. Nhưng giác ngộ chân lí cũng chưa được quyền nói: ‚Chỉ đây  là sự thật, ngoài ra là sai lầm‛.
Người chưa giác ngộ chân lí giống như các Thầy Đại thừa không biết, không thấy vẫn nói thấy  biết  để   lừa  đảo  dạy  người  khác  tu  tập khiến cho người khác phí công sức, tốn tiền bạc mà chẳng được  sự an vui lợi ích gì: ‚Do những tham   ái  này,  tâm  vị  ấy  bị  chi  phối dầu



không  biết  vẫn  nói: ‚Tôi biết‛,  dầu  không thấy  vẫn nói: ‚Tôi thấy‛  hay xui khiến người   khác   có   những   hành động khiến người  ấy  không  được hạnh  phúc‛. Bài kinh này  dạy  rất  đúng  tâm  lý  của  các  thầy  Đại Thừa. Phải không các bạn?
Tu  hành  chưa  đến  đâu,  chỉ  ở    trên  kinh sách  thuyết  giảng  chữ  nghĩa,  tâm  còn  tham, sân,  si  mà  nói  ‚tôi  thấy,  tôi  biết‛, thật  là  lừa đảo người khác, toàn là nói vọng ngữ. Cho nên, bảo sao khi các vị  chết  phải chịu bệnh tật  khổ đau vô cùng.
Những bài kinh trên đây là đức Phật cảnh cáo  các  Thầy  giảng  pháp  khi  tu  hành  chưa chứng đạt chân lí mà dạy người khác tu thì chẳng  đem lại  lợi ích cho ai  cả.  Mong  các  bạn hiểu cho.



Â


TÂM  CỊN THAM, SÂN, SI LÀ THUYẾT PHÁP  KHƠNG ĐÚNG PHÁP


LỜI PHẬT DẠY

‚Tôn giả ấy thuyết pháp, pháp ấy thâm sâu   khó   thấy, khó   chứng tịch tịnh, thù thắng, vượt ngoài luận lí suông, tế    nhị   được   người   trí  chấp nhận, pháp ấy không thể do một người có lòng tham,  lòng sân, lòng si khéo thuyết  giảng  được? Sau  khi  xem xét  vị ấy  và  thấy  vị  ấy  trong sạch  không có những  tham,   sân,  si  pháp,  người  này sinh  lòng tin đối với vị ấy. Với lòng tin sanh, người này đến gần, khi  đến gần, thân cận  giao  thiệp, do thân  cận  giao thiệp, nên lắng nghe,  người ấy nghe pháp,  liền  thọ trì pháp,  rồi tìm hiểu ý nghĩa các pháp được thọ trì, trong  khi tìm hiểu ý  nghĩa, các  pháp  được hoan hỉ chấp  nhận. Khi các pháp được hoan hỉ  chấp nhận,  ước  muốn  sinh  khi  ước muốn sinh.  Liền cố gắng, sau khi  cố





gắng liền cân nhắc, sau khi  cân nhắc người  ấy  tinh cần‛.  Trong khi tinh cần người  ấy  tự  thân chứng  ngộ  tối  thượng chân  lí,  và  khi  thể  nhập  chân  lí ấy  với trí tuệ, người ấy thấy.
‚Trong  khi  tinh  cần   người   ấy   tự thân chứng ngộ  tối  thượng  chân lí,  và khi   thể   nhập   chân   lí ấy   với   trí tuệ, người ấy thấy. Cho đến mức  độ này là sự giác  ngộ  chân lí,  cho  đến  mức   độ  này, chân lý  được  giác  ngộ  và  cho  đến  mức độ   này,  chúng  tôi   chủ  trương  sự  giác ngộ chân lí, nhưng  như  vậy chưa  phải là chứng đạt chân lí‛.
(Kinh Trung  Bộ tậâp II – trang 731, kinh Canki)


CHÚ GIẢI:
Kính thưa các bạn! Khi chúng ta muốn nghe một vị thầy thuyết pháp thì phải tìm hiểu vị  Thầy  đó  tâm  còn  tham,  sân,  si  hay  không? Nếu một  vị  Thầy đó  tâm còn tham,  sân,  si  mà thuyết  pháp  thì phần  nhiều  họ  là  những  người



nhai lại bã mía của người khác, hoặc của người xưa, họ không thể giảng những pháp thâm sâu, khó thấy, khó chứng,  tịch tịnh, thù thắng  vượt ngoài  luận  lí suông,  tế  nhị  thực  tế,  cụ   thể không trừu tượng, không ảo giác v.v..
Khi  xem  xét  một  vị  Thầy  như  vậy  thì chúng  ta  không  đủ  lòng  tin với  họ,  họ  chưa đủ trình độ dạy người khác tu tập, chưa xứng đáng làm thầy của chúng ta.
Kính  thưa  các  bạn!  Hiện giờ  các  bạn  xét qua các  Thầy  Đại  Thừa,  các  vị  Thiền  Sư Đông Độ, các bạn có thấy họ hết tham, sân, si chưa? Chính  họ cũng không biết pháp nào tu tập hết tâm  tham,  sân,  si;  chính  họ  cũng  không  giác ngộ  được  chân  lí ly  tham,  sân,  si;  chính  họ cũng không nhận ra được chân lí tham, sân, si, thì làm  sao họ  hộ  trì chân  lí và  biết  lấy  giáo pháp gì mà hộ trì.
Nếu  các  bạn  bảo  rằng:  chân  lí là  Trí  Tuệ Bát Nhã, Phật tánh, Chân không, Tánh không, Bản  lai diện mục,  Cực lạc,Tây Phương v.v.. thì chúng tôi e rằng đó là chân lí ảo.
Xin  thưa  cùng  các  bạn!  Các  bạn  có  biết chân lí của đạo Phật là gì không? Các bạn hãy nghiên  cứu  Tứ Diệu   Đế mà  xem thì biết  ngay liền. Chân  lí đầu tiên của đạo Phật  các  bạn có



biết  không?  Đó  là  tâm  tham,  sân,  si  của  các bạn. Các bạn có biết không? Nếu các bạn biết tâm  có  tham  là  biết  tâm  có  tham,  tâm  không tham là biết tâm không tham đó là các bạn ngộ chân  lí.  Tâm  có  tham  các  bạn không  biết  tâm có tham là các bạn chưa ngộ chân lí.  Ngộ chân lí không  phải  khó.  Phải  không  các  bạn?  Chân lí là  một  sự  thật  của  con người.  Cho nên,  tâm tham,  sân,  si  là  chân  lí không  ai  có  thể  phủ nhận  được. Ngoài  tâm  tham,  sân,  si  đi  tìm chân lí thì không có các bạn ạ!
Cho nên, một vị Thầy tâm còn tham, sân, si mà thuyết giảng dạy đạo cho người khác tu tập  thì làm  sao người  ta  tu  tập  được. Thuyết giảng theo kiểu nghĩa lý suông, không có một chút kinh nghiêm trong tu tập, thì làm sao người  khác  biết  đâu  mà  tu  tập  cho hết  tham sân, si?
Bởi  vậy  trong  đoạn kinh này  dạy  rất  rõ ràng:  ‚Người  kia lại  xem xét thêm  vị  ấy  về các  pháp  tham,   sân,  si  do  những  tham, sân, si pháp này, tâm của vị ấy bị chi  phối đến  nỗi dầu  không  biết  vẫn  nói ‚Tôi biết‛, dầu  không  thấy  vẫn  nói ‚Tôi  thấy‛,  hay xui  khiến người khác có những hành động



tu hành, khiến người ấy không được hạnh
phúc, phải đau khổ lâu dài‛.

Đây  các  bạn  thấy  chưa?  Một  người  tâm còn tham, sân, si mà dạy người tu hành thì đức Phật  không  chấp  nhận,  cho đó  là  những  người lừa đảo.
Còn xét thấy người ấy tâm hết tham, sân, si  mà  thuyết  giảng  thì những  bài  thuyết  giảng của  họ  thâm  sâu,  khó  thấy,  khó  chứng,  tịch tịnh,  thù  thắng,  vượt  ngoài  lí luận  suông,  tế nhị,  thực  tế,  cụ  thể,  rõ  ràng.  Khi được nghe người  ấy  thuyết  giảng  thì sinh  lòng  tin pháp, tin một cách tuyệt đối.
Ở    đây,  chúng  ta  thấy  rõ  ràng  đức  Phật dạy phải tìm một vị Thầy tâm không còn tham pháp,  sân  pháp,  si  pháp,  phải  gần  gũi  vị  Thầy đó  thưa hỏi và  thọ trì những pháp  mà  vị  Thầy đó  đã   tu  tập  tâm  không  còn  tham  pháp,  sân pháp  và  si  pháp.  Đó  là  sự  giác  ngộ  chân  lí và như vậy là chân lí được giác ngộ, cho nên ở  đây mới  giác  ngộ  đúng  chân  lí,  ngoài  tham  pháp, sân  pháp,  si  pháp  mà  giác  ngộ  chân  lí thì không bao giờ có chân lí mà giác ngộ.
Do thấu hiểu bài kinh này nên chúng ta biết rất  rõ  là  kinh sách  Đại  Thừa  không  đúng lời Phật dạy, vì chân lí của kinh sách Đại Thừa



không phải là chân lí của con người mà là chân lí ảo  tưởng.  Chân  lí ảo  tưởng  là  không  phải chân lí.  Cho nên, kinh sách Đại thừa không có chân lí. Muốn giác ngộ chân lí không phải khó, vì chân lí không ở  đâu xa mà ở  ngay trong mỗi người.  Như  bài  kinh trên  đã  dạy chỉ  cần  thân cận  với  một  vị  thầy  chứng  đạt  chân  lí, thì chúng ta sẽ giác ngộ  chân lí dễ  dàng. Khi giác ngộ được chân lí thì không bao giờ bị ngoại đạo lừa đảo bằng câu: ‚Chỉ đây  là  sự  thật, ngoài ra là sai lầm‛.
Cho nên, người giác ngộ chân lí thì không bao giờ  còn  thối  chuyển  trên  đường  tu  tập,  chỉ còn chứng đạt chân lí nữa mà thôi.
Tóm lại, muốn giác ngộ chân lí thì chỉ cần thân cận với một vị Thầy tâm không còn tham, sân, si. Vị ấy sẽ chỉ dạy cho các bạn giác ngộ chân lí và  hướng dẫn cho các bạn biết cách  hộ trì và  chứng  đạt  chân  lí một  cách  dễ   dàng không có khó khăn, không sợ lạc vào tà pháp.





0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!