Không để
các bạn hiểu
đúng nghĩa của Phật
dạy, không còn bị ảnh hưởng tư tưởng, tưởng giải của các Tổ Đại Thừa nữa.
Khởi duyên
của bài kinh này
là do ông A Nan
hỏi Phật: ‚Bạch
Thế Tôn con
được nghe trước mặt Thế Tôn, con được ghi nhớ trước mặt Thế Tôn: ‚Này A Nan, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều‛,
phải chăng bạch Thế Tôn điều con đã
nghe là đúng, ghi nhớ đúng, tác ý
đúng, thọ trì đúng‛.
Lúc bấy giờ đức Phật trả lời ông
A Nan mà chúng
ta giảng bài
kinh này làm tiêu đề
cho bài pháp hôm nay.
Chúng tôi
xin nhắc lại đoạn kinh này một lần nữa để các bạn lưu
ý. ‚Thật vậy,
này A Nan, điều ông đã nghe là nghe đúng, tác ý đúng, thọ
trì đúng, thuở xưa và nay, này A Nan
Ta nhờ an
trú không, nên nay
an trú rất nhiều‛. Trong
câu này chúng ta phải
hiểu xưa kia trong lúc đang
tu tập đức Phật cũng nhờ an trú trong không này, đến nay
thành tựu được chánh pháp, tức là đức Phật đã chứng đạo, nhưng vẫn an trú thường
xuyên rất nhiều trong không ấy.
Đấy là ý
nghĩa của đoạn kinh này. Nhưng cái khó hiểu là ở không tánh này. Vậy không tánh này là gì?
Trong kinh Tiểu
Không đức Phật
đã đưa ra nhiều ví dụ để mọi người
dễ hiểu, nhưng trước
khi giải thích những
ví dụ này chúng tôi xin
các bạn lưu ý và phải hiểu cho rõ ràng mục đích của đạo Phật.
Vậy mục đích của đạo Phật là gì?
Theo trong
kinh sách Nguyên Thủy thì chân lý thứ ba là mục đích của đạo Phật. Một mục đích
mà người tu tập nào
cũng cần phải đạt
cho bằng được. Mục
đích đó là ‚Diệt Đế‛. Diệt đế là một trạng thái diệt hết
nguyên nhân sinh ra mọi thứ khổ đau, cho
nên khi nào chúng ta tu tập đoạn
diệt hết
tâm dục tức là
diệt hết lòng ham muốn, diệt hết
lòng tham muốn tức là tâm bất động.
Tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ tức là vô tướng tâm định.
Trong vô
tướng tâm định
không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Do ba lậu hoặc
này không có nên gọi là
vô tướng tâm định.
Vô tướng tâm định tức
là tâm không
phóng dật. Cho nên, đức Phật
dạy: ‚Ta thành
Chánh giác là nhờ tâm không phóng dật‛. Tâm không phóng dật tức là tâm
thanh thản, an lạc
và vô sự. Tâm
thanh thản, an lạc
và vô sự tức
là tâm không động hay gọi ‚không tánh‛. Không tánh tức là tâm bất động trước
các ác pháp và các cảm thọ,
chứ không phải
không tánh là ‚Tánh không‛. Các bạn đừng hiểu lầm như các Tổ. Ở đây Phật không nói Tánh không như trong
kinh Đại Bát Nhã của Đại Thừa.
Trong đoạn kinh trên
đây đức Phật
đã dạy:
‘Thật vậy, này A Nan, điều ông đã
nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng,
tác ý đúng,
thọ trì đúng, thuở xưa
và nay. Này A
nan, Ta nhờ an
trú không, nên nay
an trú rất nhiều‛. An trú ‚KHÔNG‛ của Phật giáo
không có nghĩa là Tánh không, Chân không, Trí Tuệ Bát Nhã
Ba La Mật.
Chữ KHÔNG có
nghĩa không chướng ngại pháp, tức là không có dục lậu, hữu lậu và vô
minh lậu.
Dó đó, chữ
KHÔNG TÁNH phải hiểu nghĩa đúng đắn theo
Tứ Diệu Đế, chứ không thể hiểu nghĩa
theo kiểu Đại
Thừa và Thiền
Tông. Không tánh là tánh không, là Phật tánh là sai.
Vậy các bạn
hãy lắng nghe đức Phật định nghĩa chữ
không tánh: ‚Ví như lầu đài Lộc Mẫu này
không có
voi, bò ngựa, ngựa cái, không có
vàng và bạc,
không có đàn bà, đàn
ông tụ hội, và chỉ
có một cái
không
phải không, tức
là sự nhất
trí do duyên chúng Tỳ
kheo; cũng vậy,
này A Nan,
Tỳ kheo không tác ý thôn tưởng, không tác ý nhân tưởng, chỉ tác ý sự nhất
trí, do duyên lâm tưởng. Tâm vị ấy được
thích thú, hân hoan, an
trú hướng đến lâm tưởng. Vị ấy tuệ
tri như sau: ‚cái ưu phiền
do duyên thôn tưởng không có mặt ở
đây; các ưu phiền
do duyên nhân tưởng
không có mặt ở đây.
Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng‛.
Vị ấy tuệ tri: ‚Loại tưởng này không có
thôn tưởng‛. Vị ấy tuệ tri:
‚Loại tưởng này không
có nhân tưởng. Và chỉ có một cái
này không phải không, tức là sự nhất
trí do duyên lâm tưởng‛. Và cái gì không có mặt ở đây, vị
ấy xem cái ấy là
không có. Nhưng đối với cái còn lại,
ở đây vị ấy tuệ tri: ‚Cái kia có, cái
này có‛. Như vậy, này Ananda, cái
này đối với vị ấy là như vậy, thật có
không điên đảo, sự thật là hoàn toàn thanh tịnh, không tánh‛.
Đọc đoạn
kinh này các bạn có hiểu không? Chúng
tôi xin trích ra từng
đoạn ngắn, ở lầu đài
Lộc Mẫu này
không có voi,
bò ngựa, ngựa cái,
không có vàng
và bạc, không
có đàn ông
đàn bà tụ hội,
ý đoạn kinh này đức Phật muốn nói gì? Đức Phật nói trong lầu đài Lộc Mẫu này nếu
có voi bò ngựa cái, vàng bạc, đàn ông, đàn bà tụ hội thì không yên lặng, gây ra
ồn náo và chướng ngại
khiến tâm bất
an, còn nếu không có những loài vật này thì cảnh xung
quanh lầu Lộc Mẫu này sẽ yên lặng không gây ồn náo và chướng ngại
khiến tâm được yên
lặng và bất động, nên Phật dạy: ‚chỉ có một cái không
phải không‛, cái không phải không này là
cái có mà không làm chướng ngại tâm, cho nên không có voi, bò, ngựa, ngựa cái,
vàng bạc, đàn ông đàn bà tụ hội
thì trong lầu đài Lộc Mẫu này yên lặng bất động. Có đúng như vậy
không các bạn? Như vậy không tánh là chỗ bất động tâm, chứ không phải là tánh
không.
Các bạn
hãy lắng nghe
đoạn kinh tiếp:
‚Này Ananda,
Tỳ kheo không tác ý thôn tưởng, không
tác ý
nhân tưởng, chỉ
tác ý sự nhất
trí do duyên lâm tưởng.
Tâm của vị ấy được thích
thú hân hoan, an
trú hướng đến lâm tưởng,
vị ấy tuệ
tri như sau: cái ưu phiền do
duyên thôn tưởng không có mặt ở đây; cái ưu phiền do duyên nhân tưởng không
có mặt ở đây, và chỉ có
một ưu phiền này tức là sự nhất
trí do
duyên lâm tưởng‛.
Đoạn kinh này
xác định không tánh
theo từng đối tượng của lầu đài Lộc Mẫu, ở đây đức Phật nêu đối tượng
thứ nhất không
tánh của lầu đài Lộc Mẫu
là không có
voi, ngựa, ngựa cái, không có vàng bạc, không có đàn
ông, đàn bà v.v.. mà đức Phật gọi chung danh từ này là thôn
tưởng, là nhân
tưởng. Thôn tưởng
có nghĩa là voi, bò ngựa cái, vàng bạc, còn nhân tưởng là đàn bà, đàn
ông v.v..
Nếu có những
vật này ở trong lầu Lộc Mẫu thì làm sao gọi là không động được.
Phải không các bạn? Nếu có vật này
thì sẽ làm động
tâm chúng ta vì chúng là chướng ngại của tâm. Cho nên, đức
Phật bảo: “Cái
ưu phiền do
duyên thôn tưởng và nhân tưởng không có mặt ở đây, và
này Ananda cái này đối với vị ấy là thật có như vậy
không điên đảo, sự thật
hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh”.
Đến đây các
bạn đã hiểu không tánh rồi chứ.
Không tánh chỉ
là tâm bất động, nhưng bất động đối với thôn tưởng và nhân tưởng chứ
không phải bất động hết
các pháp, vì thế chỉ còn
có một ưu phiền
này tức là sự nhất
trí do duyên lâm tưởng.
Vậy lâm tưởng
nghĩa là gì?
Lâm tưởng
là rừng cây
chung quanh lầu đài Lộc Mẫu, vì có rừng cây nên còn có những
chướng ngại trong
tâm. Cho nên,
đoạn kinh dạy: ‚Chỉ
còn có một ưu phiền
này tức là sự nhất trí do duyên
lâm tưởng‛.
Như vậy
không tánh không có nghĩa là không có, mà cũng không có nghĩa là chân không,
tánh không v.v.. như nghĩa của các nhà Đại Thừa.
Không tánh
có nghĩa là không có dục lậu, hữu lậu,
vô minh lậu,
chứ không phải
tánh không của trí tuệ Bát Nhã. Ở
đây, nếu các bạn không hiểu rõ mục đích của đạo Phật là chỗ bất động tâm
trước ác ác pháp và các cảm thọ, nếu các
bạn hiểu khác
nghĩa bất động
này, là các bạn đã hiểu sai lệch bài kinh trên đây.
Đức Phật dạy:
‚Thuở xưa và nay, này Ananda, Ta nhờ
an trú không, nên nay an trú rất nhiều‛.
Thuở xưa có nghĩa
là lúc mới bắt đầu tu tập đức Phật cũng phải tu tập
an trú chỗ bất động
tâm này. Đến
nay khi tu tập đã xong đức Phật cũng bảo: ‚Nên nay an trú rất
nhiều‛. An trú rất nhiều tức là luôn luôn đức Phật sống với tâm bất động
khi đã tu chứng đạo.
Vậy chúng
ta hãy nghe
tiếp Phật dạy:
‚Cũng vậy,
này Ananda, Tỳ kheo không tác ý đối với tất cả những vật gì trên đất này, đất khô,
vùng lầy, sông
và vùng lầy,
các cây có thân và
có gai, núi
và đất bằng,
vị ấy tác ý sự nhất trí do
duyên địa tưởng. Tâm vị ấy được
thích thú, hân hoan an trú, hướng đến địa tưởng vị ấy tuệ tri như
sau: ‚Các ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở
đây, các ưu
phiền do duyên lâm tưởng không có
mặt ở đây.
Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên địa tưởng,
vị ấy tuệ
tri như sau: loại tưởng này không
có nhân tưởng, vị ấy tuệ tri, loại tưởng này không có lâm tưởng và chỉ
có một cái
này không phải không, tức
là sự nhất
trí do duyên địa tưởng‛ và cái gì không có mặt ở đây vị ấy xem cái ấy là không có,
nhưng đối với
cái còn lại, ở
đây vị
ấy tuệ tri: ‚cái kia có, cái
này có‛. Này Ananda, cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có
không điên đảo, sự thật
hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh‛.
Đoạn kinh
trên chỉ còn lâm tưởng là chướng ngại làm cho tâm ưu phiền nhưng lại xả bỏ thôn
tưởng, nhân tưởng
và lâm tưởng
nên
tâm bất động
được các đối tượng này, nhưng lại bị chướng ngại địa tưởng.
Trên đây là
một pháp môn loại trừ các lậu hoặc, các chướng ngại pháp và làm cho tâm bất động.
Điều ở đây các bạn nên lưu ý đó là những loại tưởng được loại trừ lần lượt:
- Đầu
tiên loại trừ tưởng trong
ngôi lầu đài Lộc Mẫu này là thôn
tưởng và nhân tưởng.
- Loại trừ lần thứ hai là lâm tưởng.
- Loại trừ lần thứ ba là địa tưởng.
- Loại trừ lần thứ tư là không vô biên xứ tưởng.
- Loại trừ lần thứ năm là thức vô biên xứ tưởng.
- Loại trừ lần thứ sáu là vô sở hữu tưởng.
- Loại
trừ lần thứ bảy là
phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng.
Như vậy, tất
cả những loại tưởng này đã được loại trừ. Khi loại
trừ xong các loại
tưởng thì còn lại một
cái đó là
vô tướng tâm định.
‚Này Ananda,
vị Tỳ kheo không tác ý Vô sở
hữu xứ tưởng, không tác
ý Phi tưởng
phi
phi tưởng
xứ tưởng, tác
ý sự nhất
trí do
duyên vô tướng
tâm định‛.
Bây giờ các bạn đã
hiểu rõ không tánh là vô tướng tâm định tức là tâm không có dục lậu, hữu lậu,
vô minh lậu.
Tâm không có dục lậu, hữu
lậu, vô minh lậu là
tâm bất động.
Đó là mục đích của đạo Phật
do ly dục ly ác
pháp, chứ không phải Tánh Không, Chân Không Diệu Hữu, Trí Tuệ Bát Nhã. Kinh Tiểu Không ở đây không có những nghĩa đó
xin các bạn chớ hiểu lầm, làm lệch
ý nghĩa của Phật pháp.
Khi tâm bất động như
trên đã nói
thì không có dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu thì tâm được giải thoát
hoàn toàn, nên
người ở trạng thái tâm bất động này liền hiểu rất
rõ: ‚Sanh đã tận Phạm hạnh
đã thành, những việc làm
nên làm đã
làm, không còn phải
trở lại trạng thái
này nữa‛. Vô
tướng tâm định này thật hữu
vi, do tâm tự tạo nên. Phàm
cái gì thuộc hữu vi
do tâm
tự tạo cái ấy là vô thường, chịu
sự đoạn diệt‛.
Đọc đến đoạn
kinh này các bạn thấy
đức Phật đã xác định rất rõ vô tướng
tâm định vẫn là pháp hữu vi do tâm tư (ý thức) tạo nên cái ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt.
Như vậy làm sao các
bạn hiểu nó là
Chân Không diệu hữu,
Trí Tuệ Bát
Nhã, Tánh Không. Những từ này trong kinh sách Đại Thừa chỉ cho Phật tánh là một
pháp vô vi thường hằng bất biến. Nhưng ở
kinh Tiểu Không này dạy không tánh là pháp hữu
vi vô thường chịu sự đoạn diệt.
Cho nên, kinh sách các bạn phải
hiểu đúng nghĩa,
đừng hiểu sai, vì chính hiểu
sai mà
các Tổ mới kiến giải, tưởng giải sinh ra kinh Đại Bát
Nhã, mới có Chân Không Diệu Hữu, Bát Nhã Tâm Kinh. Tất cả những điều này chỉ là
một ảo tưởng của kinh sách Đại Thừa,
còn kinh Tiểu Không
thì không có nghĩa đó. Không có nghĩa đó rất rõ ràng vì vô
tướng tâm định, không
tánh là một pháp hữu vi vô thường, chịu sự đoạn diệt.
Xin các bạn lắng
nghe đoạn kế của
kinh Tiểu Không này: ‚Này Ananda, phàm có những Sa
Môn hay Bà
La Môn nào
trong quá khứ sau khi chứng đạt,
đã an trú cứu cánh vô tướng thanh tịnh không tánh, tất cả
các vị ấy sau khi chứng đạt đều
chỉ an trú cứu cánh vô tướng thanh tịnh
không tánh này‛.
‚Này Ananda,
phàm có
những Sa Môn hay Bà
La Môn nào
trong tương lai, sau khi
chứng đạt sẽ an
trú cứu cánh
vô thượng thanh tịnh không tánh,
tất cả các
vị ấy
sau khi chứng
đạt, sẽ an
trú cứu cánh vô thượng thanh
tịnh không tánh này‛.
‚Này Ananda phàm
có những Sa Môn hay Bà La Môn nào trong
hiện tại sau khi chứng đạt và an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh không tánh
này, do vậy,
này Ananda. Sau khi chứng đạt
Ta sẽ an
trú cứu cánh vô
thượng thanh tịnh
không tánh‛.
Đoạn kinh
trên đây đức Phật đã xác định rõ ràng
và cụ thể.
Người đang tu tập phải
tu tập cho đạt được và an trú bất động tâm này. Người đã
tu tập xong thì luôn
luôn an trú bất động
tâm này. Người
sẽ tu tập
là phải hướng đến an trú
bất động tâm
này. Và đức Phật đã tu
tập xong, Ngài cũng
đang an trú bất động tâm này.
Tóm lại,
không tánh tức là tâm bất động. Tâm bất động
là tâm ly dục ly ác
pháp, đó là cứu
cánh của Phật
giáo, ngoài ra tất
cả các pháp khác là tôn giáo ngoại
đạo.
LỊNG TIN
PHÂI CĨ CĂN CỨ
LỜI PHẬT DẠY
‚Thưa tôn giả Gotama, câu
chú thuật của các Tổ Bà La Môn, y cứ tiếng đồn, truyền thống và
Thánh tạng Bà La Môn. Và
ở đây các vị Bà
La Môn chắc chắn
đi đến kết luận:
‚Chỉ đây là sự
thật, ngoài ra đều sai lầm‛. Ở
đây Gotama nói gì?
Nhưng này
Bharadvaja, có một vị
tôn sư nào giữa
các Bà La
Môn đã nói như sau: ‚Tôi biết việc này, tôi thấy việc này. Chỉ đây
là sự thật ngoài
ra đều là sai lầm‛?
Thưa không,
Tôn Giả Gotama!
Nhưng này
Baharadvaja, có một tôn sư nào của các vị Bà La
Môn, cho đến vị tôn sư của các vị tôn sư trở lui cho đến 7 đời. Các vị đại
tôn sư đã nói
như sau:
‚Chỉ
đây là
sự thật, ngoài
ra đều là sai lầm‛?
Thưa không,
Tôn Giả Gotama!
Như này
Baharadvaja, có một tôn sư nào
của các vị
Bà La Môn, cho đến vị tôn sư
của các
vị tôn sư trở
lui cho đến 7 đời. Các vị đại tôn sư đã nói như sau: ‚Chỉ đây
là sự thật,
ngoài ra đều là sai lầm‛?
Thưa không,
Tôn Giả Gotama!
Nhưng này
Baharadvaja thuở xưa những vị ẩn sĩ giữa các Bà La Môn, những các
tác giả các
chú thuật, những nhà tụng táng của chú
thuật, đã hát đã
nói lên, đọc lên
giống như các vị trước
đã làm
như là Atthaka, Vamaka, Vamadeva, Vasrttha,
Vessamitta, Yamataggi, Angirase, Bharadvdja, Kassapa, Bhagu,
những vị ấy đã nói như sau: ‚Chỉ đây là sự thật ngoài ra đều là sai lầm‛?
Thưa không,
Tôn Giả Gotama.
Này Bharadvaja. Ta nghĩ rằng
lời nói của các Bà La Môn, cũng giống như một chuỗi
người mù, người
trước không thấy, người giữa cũng
không thấy, người cuối cũng không thấy. Này Bharadvaja, Ngươi nghĩ thế nào? Sự
kiện là
như vậy, có phải lòng
tin của các vị Bà La Môn trở
thành không căn
cứ?‛.
(Kinh
Trung Bộ tâp II trang 724, Kinh Canki)
CHÚ GIẢI:
Một thanh
niên Bà La Môn tên là Kapathika hỏi đức Phật về một lòng tin vào Thánh tạng
kinh điển chú thuật
truyền thống từ xa xưa của
Bà La Môn: ‚Tôi biết
việc này, tôi thấy việc này. Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là
sai lầm‛. Và Tôn giả Gotama nói gì về vấn
đề này?
Khi được hỏi
câu này đức
Phật trả lời bằng
một câu hỏi
khác ngay với những vị Bà
La Môn hiện có mặt tại cuộc họp này.
Các vị có ai
dám xác định rằng: ‚Tôi biết việc này, tôi thấy
việc này, chỉ
đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm‛.
Tất cả
các vị Bà
La Môn đều
im lặng không ai
dám trả lời,
chỉ có Ba
La Môn
Bharadvaja
là người có uy tín nhất trong các vị
Bà La Môn
nên đại diện trả lời.
- ‚Thưa
không, Tôn giả Gotama‛.
Ở đây các bạn nên hiểu câu hỏi của đức Phật rất
quả quyết và mạnh mẽ về Thánh tạng Vệ
Đà kinh của Bà
La Môn đúng
hoặc sai. Vì thế câu hỏi này có
hai câu trả lời:
1- xác định
2- phủ định
Ở đây các bà La Môn không dám xác định mà trả lời phủ định vì trả lời
phủ định là thành thật.
Nếu trả lời xác định:
‚Tôi biết việc này, tôi thấy việc này‛
thì đức Phật sẽ hỏi: ‚biết việc này như thế nào?‛.
Về vấn đề kinh tạng
Vệ Đà, đức Phật đã thấu suốt kinh tạng chú thuật này chỉ là
thuyết ngôn ngữ suông, chưa có
một vị nào chứng đắc chân lí ấy,
nên làm sao biết
đâu trả lời
cho chính xác. Nếu trả lời biết thấy
mà không chính xác
rõ ràng thì đức
Phật bác bỏ. Mục
đích của kinh Vệ Đà là những lí luận mơ hồ, ảo tưởng không
thực tế. Không
cụ thể, nên
làm sao lại dám bảo rằng: ‚Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều
là sai lầm‛? Cho nên,
câu hỏi
của đức Phật đơn giản nhưng
trả lời rất khó
khăn.
Ở đoạn kinh này chỉ
có những người
tu chứng đạo mới dám trả lời: ‚Tôi biết
việc này tôi thấy việc này, chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai
lầm‛? Còn những người tu chưa chứng chân
lí thì không bao giờ dám
nói lời
này.
Câu hỏi của đức Phật: ‚Có
tôn sư vị Bà La Môn nào, dù cho đến 7 đời tôn sư và những vị
Bà La Môn Tổ
sư sáng tạo ra
kinh sách Vệ Đà và chú thuật đã chứng được chân lí đó chưa?”.
Do thấu suốt
toàn bộ Thánh kinh Vệ Đà là một loại kinh tưởng
không thực tế. Mục đích mơ
hồ, ảo tưởng.
Một chân lí không
rõ ràng như vậy
thì làm gì có người
tu chứng chân
lí ấy? Do đó, đức Phật mới có câu hỏi: tôn sư bảy đời và những tôn sư
sáng tạo ra kinh sách này có dám nói rằng: ‚Tôi
biết việc này, tôi thấy việc này (tức
là chứng đạo), chỉ
đây là sự thật ngoài ra đều sai lầm?‛.
Người hỏi
câu này là người đã chứng chân lí mới
dám hỏi. Nếu chưa chứng chân lí thì không
dám hỏi câu
này. Tại sao vậy?
Vì có
chứng chân
lí mới biết chân lí. Biết chân lí mới dám hỏi người khác.
Nghiệm xét
qua đoạn kinh trên các bạn nhận xét về Thầy Thông Lạc. Tại sao Thầy
Thông Lạc dám
nói kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ sai? Nếu Thầy Thông Lạc tu
hành chưa chứng được
chân lí giải thoát
của đạo Phật thì Thầy có dám nói kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông sai
không? Nếu Thầy tu chưa chứng thì chỉ
có thuyết giảng
như các Thầy Đại Thừa mà thôi.
Vì thế,
người tu chứng
chân lí mới dám xác
nhận pháp nào
sai, pháp nào
đúng. Ngày xưa đức Phật dám
nói thẳng điều
này, ngày nay Thầy
Thông Lạc cũng vậy, khi tu
chứng mới thấy được cái sai cái đúng
Trên hành
tinh này loài người
chỉ có bốn chân lí, bốn chân lí ấy phải chân thật,
thực tế, cụ thể rõ ràng như chân lí của Phật giáo KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO mới thật là chân lí, dù mọi
người tu
chưa chứng đạo nhưng vẫn nhận
thấy biết rõ ràng cụ thể,
không có mơ hồ, trừu tượng, ảo tưởng.
Bởi vậy,
kinh sách Đại Thừa sai là vì chân lí của
Đại Thừa mơ hồ, ảo tưởng, trừu
tượng cũng giống như
kinh sách Vệ Đà của Bà La
Môn. Lấy câu
hỏi của Phật trong kinh Canki thuộc kinh
Trung Bộ
tập II mà hỏi
các vị Hoà Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng, Ni tu
theo kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông đã có ai chứng được chân lí giải thoát
làm chủ 4 sự khổ đau; sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi chưa? Hay chỉ
là chứng những chân lí ảo tưởng
‚Phật
tánh, Bản lai, Cực
Lạc Tây Phương‛ do chứng những
chân lí ảo tưởng
nên chẳng biết phương pháp nào
chuyển bệnh, làm chủ sự sống chết rõ ràng, cụ thể v.v..
Phần đông đứng
trước bệnh tật sống chết các Ngài chỉ khéo lí luận ‚Chẳng
muội nhân quả‛ để che đậy và lừa
đảo Phật tử. Càng tu hành thì càng phải trả nghiệp, dồn nghiệp v.v.. Chân lí của
Phật là chân lí chuyển nghiệp, chứ đâu phải trả nghiệp, dồn nghiệp, nếu trả
nghiệp, dồn nghiệp thì còn đâu là chân lí. Phải không các bạn?
Người chứng
được chân lí của Phật giáo Nguyên Thủy đều
thấy biết cái
sai của Đại Thừa rất rõ ràng, nhờ có tu chứng như vậy
mới dám nói: ‚Tôi
biết việc này,
tôi thấy việc này chỉ
đây là sự thật,
ngoài ra
đều sai lầm‛.
Đức Phật đã chứng
đạt chân lí giải
thoát thật sự. Vì thế, mới
có bài kinh Canki lưu lại cho đến ngày nay, Ngài chỉ cho mọi người
thấy chân lí của loài
người chỉ có Tứ Diệu
Đế. Tứ Diệu Đế gồm có: khổ, tập, diệt, đạo, ngoài ra
không còn có chân lí nào khác nữa.
Một lần nữa đức Phật đã
xác định trong kinh Đại Bát Niết Bàn
thuộc kinh Trường Bộ tập
I, trang 659:
‚Này Subhadda, trong pháp
luật nào không có
Bát Chánh Đạo thời ở đấy không có Sa Môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba
và thứ tư‛. Câu nói này có nghĩa là trong
giáo pháp nào
không có Bát
Chánh Đạo thời giáo pháp ấy không có tu chứng giải thoát sanh,
già, bệnh, chết
và chấm dứt
luân hồi như đã nói trên, còn giáo pháp nào có Bát Chánh Đạo thì giáo pháp ấy có tu chứng.
Cho nên, những
vị Tổ Sư Tăng, Ni biên soạn và viết ra kinh sách
Đại Thừa, không
có vị Tổ Sư nào
dám bảo rằng:
Ta chứng được chân lí như đức Phật? Họ chỉ khéo lí luận
bằng câu ‚Người nào còn
thấy mình tu chứng là chưa chứng‛. Thường
các Tổ hay
dùng câu:
‚Vô sở đắc‛. Đó
là lối che đậy
lừa đảo tín đồ dễ nhất.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!