PHÁP TU CỦA PHẬT
LÀM CHỦ SINH, GIÀ, BỆNH CHẾT:
1- PHÁP TU CỦA PHẬT
(từ TỨ CHÁNH CẦN đến TỨ NIỆM XỨ)
2-
THỜI KHÓA TU TẬP TRONG THỜI ĐỨC PHẬT
3- (TRAU DỒI)
TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
4- (NIỆM PHẬT) TỨ BẤT HOẠI TỊNH
|
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
|
PL: 2557 - DL: 2013
|
|
|
|
L ỜI TỰA
|
i n h r a l à m n g ư ờ i l à m ộ t đ i ề u k h ó , g ặ p đ ư ợ c C h á n h p h á p c ò n k h ó h ơ n .
Đúng vậy, hơn
2500 năm
sau khi đức Phật nhập diệt, Chánh
pháp của Ngài đã bị phủ lên bao lớp triết học trừu tượng, bao lớp tôn giáo ức chế, mơ hồ, tưởng giải, dựa dẫm vào tha lực. Bởi vậy, đạo Phật từ một phương pháp tu hành thực tế, dùng ý thức dẫn thân
tâm vào Thiện pháp một cách tự nhiên để vượt qua nhân quả, làm chủ
4 nỗi khổ: sinh, già, bệnh, chết của đời người, bị biến thành một
tôn giáo cầu, cúng, tụng, niệm,
mong chờ khi chết được tái sinh vào các thế giới
5
|
ảo tưởng, do tưởng tri của con người dựng lên; bị biến thành các pháp tu ức chế tâm
không
vọng tưởng, nhắm
đến các trạng thái định tưởng, “Phật tánh”...
các thần thông biến hóa, biết chuyện quá khứ, vị lai, v.v... Nhưng các kết quả này đâu giúp tâm con người hết tham, sân, si,
mạn, nghi. Cho nên tu mãi mà vẫn không thể nào làm chủ được sự sống chết, không thể chấm dứt tái sanh luân hồi.
May mắn thay cho nhân loại, khi giờ đây Chánh pháp của Phật một lần nữa được trùng tuyên, sống dậy trở lại như những gì nó vốn có. Đạo Phật được dựng lại với một phương pháp tu tập rõ ràng, cụ thể, tỉ mỉ, có lớp lang từ thấp đến
cao qua những bài giảng,
qua những cuốn sách của đức Trưởng lão Thích Thông Lạc. Đó là những tác phẩm tâm huyết, kết quả kinh nghiệm từ cả một cuộc đời gian khổ tu hành, giành chiến thắng trước giặc sinh tử của Trưởng Lão.
Sau khi đức Trưởng Lão Thích Thông Lạc nhập diệt, Tu Viện Chơn Như biên soạn tập sách nhỏ này, tập hợp bốn cuốn sách mỏng từ những tác phẩm của Thầy:
6
|
1- Pháp tu của Phật (từ Tứ Chánh Cần đến Tứ Niệm Xứ): chỉ rõ cách thức tu
tập của đạo Phật được sinh ra từ kinh nghiệm tu hành giải thoát của chính đức Phật. Đó là một phương pháp do Ngài tự mình tìm ra, hoàn toàn khác biệt với cách thức tu hành của các tôn giáo khác.
(Nếu quý phật tử và bạn đọc muốn tìm hiểu toàn bộ quá trình tu hành của đức Phật, từ lúc xuất gia đi tìm đạo cho đến khi chứng quả Vô Lậu giải thoát,
xin mời tìm đọc cuốn
sách “ P h ậ t g i á o c ó đ ư ờ n g l ố i r i ê n g b i ệ t ” , của đức Trưởng lão Thích Thông Lạc)
2- Thời khóa tu tập trong thời đức Phật: phân tích Thời khóa biểu tu tập mà đức Phật chế ra cho chúng Tỳ kheo tăng và Tỳ kheo ni, từ đó chỉ ra pháp hành của đạo Phật là “ x ả t â m ” khỏi các chướng ngại pháp.
3- (Trau dồi) Tứ Vô Lượng Tâm: pháp hành cụ thể để tu
tập tăng trưởng bốn tâm Vô Lượng: từ, bi,
hỷ, xả, mà đức Trưởng Lão thường nhắc đến bốn tâm này
bằng một cụm từ
7
|
thuần Việt
là:
“ Y ê u t
h ư ơ n g v
à t
h a t
h ứ ” .
4- (Niệm Phật) Tứ Bất Hoại Tịnh: phương pháp tu
tập niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới theo đúng kinh sách Nguyên thủy, để đạt đến sự giải thoát hoàn toàn như Phật, như Pháp, như chúng Thánh Tăng và như Giới luật.
Mong rằng tập sách nhỏ này giúp cho quý phật tử và bạn đọc nhìn nhận ra một Phật pháp chân chánh, từ đó áp dụng vào đời sống và sự tu hành của bản thân, để vượt thoát được mọi sự khổ đau mà nhân quả
đang
vây quanh quý bạn.
Kính ghi
Tu
Viện
Chơn
Như
8
|
PHÁP TU
CỦA PHẬT
từ
Tứ
chánh cần
đến
Tứ
niệm xứ
9
|
|
|
|
L ỜI NÓI ĐẦU
|
au khi chứng đạt hai loại định Không
Vô Biên Xứ Tưởng và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, tiếp đó thực hành 6 năm khổ hạnh tối đa, đức Phật nhận thấy không có sự giải thoát. Nhìn lại tâm mình, đức Phật thấy tâm tham, sân, si, mạn, nghi
vẫn còn nguyên, và Ngài không thể làm chủ được 4 nỗi khổ: sinh, già, bệnh, chết.
Đức Phật tư duy suy nghĩ, các phương pháp tu tập như vậy của ngoại đạo không thể đem đến kết quả giải thoát, bởi chúng đều ức chế thân tâm và còn tạo ra sự đau khổ nhiều hơn. Vì vậy, đức
11
PHÁP TU... THỜI KHÓA... TỨ VÔ LƯỢNG... TỨ BẤT HOẠI...
Phật
ném bỏ tất cả.
Dưới cội cây bồ đề bên dòng sông Ni Liên, đức Phật nhớ lại phương pháp ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền mà khi còn bé Ngài ngồi dưới cội cây hồng táo tu tập bắt chước vua cha, đó cũng là pháp tu ức chế. Ngài suy nghĩ: “ T u t ậ p S ơ T h i ề n l y d ụ c , l y á c p h á p n h ư v ậ y l à ứ c c h ế t â m . C ố g ắ n g g i ữ g ì n t â m k h ô n g v ọ n g n i ệ m t h ì l à m s a o l y d ụ c , l y á c p h á p đ ư ợ c ? ”
Tự đặt ra câu hỏi rồi Ngài lại tiếp tục tư duy suy nghĩ: “ D ụ c l à l ò n g h a m m u ố n c ủ a m ì n h , m à l ò n g c ò n h a m m
u ố n l à c ò n đ a u k h ổ , c h o n ê n p h ả i
d ứ t
t r ừ l ò n g h a m m u ố n . N h ư n g d ứ t
t r ừ l ò n g h a m m u ố n b ằ n g c á c h n à o ? ”
Câu hỏi được đặt ra nhưng câu trả lời chưa có, nên Ngài lại tiếp tục tư duy: “ T r o n g t â m t a t h ư ờ n g h a y b ị c h ư ớ n g n g ạ i d o c á c á c p h á p b ê n n
g o à i t á c đ ộ n g v à o l à m c h o n ó k h ổ đ a u . N h ữ n g đ ố i
t ư ợ n g b ê n n g o à i p h ầ n đ ô n g l à á c p h á p , n ê n k h i
c h ú n g
12
Trưởng Lão THÍCH THÔNG LẠC
t á c đ ộ n g v à o t h â n h a y t â m l à c h ú n g t a t h ấ y b ấ t a n l i ề n . N h ư v ậ y , m ụ c đ í c h l y
d ụ c , l y á c p h á p c ò n c ó n g h ĩ a l à n g ă n n g ừ a l ò n g d ụ c b ê n t r o n g , t ứ c l à k h ô n g c h o k h ở i
l ê n l ò n g h a m m u ố n , n ế u c ó k h ở i l ê n l ò n g h a m m u ố n t h ì p h ả i q u á n x é t t ư d u y d i ệ t n ó n g a y l i ề n ” . Như vậy chúng ta mới có pháp tu
tập ly dục, ly ác pháp, chớ chỉ nói suông Ly Dục, Ly Ác Pháp thì
đâu có pháp
hành, thì biết tu tập ly dục, ly ác pháp như thế nào?
Bởi vậy, khi đức Phật ngồi dưới cội cây bồ đề tư duy về các vị thầy ngoại đạo dạy tu tập Sơ Thiền, họ đều nói ly dục, ly ác pháp, nhưng kỳ thực là không có pháp ly dục, ly ác pháp, mà chỉ có pháp ức chế ý
thức, khiến
cho ý thức không còn niệm khởi. Vì thế tâm tham, sân, si, mạn, nghi không bao giờ ly và diệt nó được. Cho nên kinh sách Đại thừa và kinh sách Thiền tông dạy không bao giờ tu tập chứng đạo, làm chủ sinh, già, bệnh, chết được.
Nếu quý vị nghiên cứu kỹ thì sẽ thấy
giáo pháp của Phật dạy ly dục, ly ác pháp
có pháp
13
PHÁP TU... THỜI KHÓA... TỨ VÔ LƯỢNG... TỨ BẤT HOẠI...
môn tu tập
hẳn hoi.
Giới - Định - Tuệ là phương hướng
xác định đường lối tu tập theo Phật giáo từ thấp đến
cao. Nếu ai chưa tu Giới mà tu Định là tu sai pháp của Phật. Nếu ai chưa nhập được Định
mà bảo mình có trí Tuệ là người này lừa đảo người khác.
Căn cứ vào Giới - Định - Tuệ mà chúng ta biết được người tu đúng hay tu
sai pháp Phật; biết được người tu theo pháp Phật hay tu theo pháp ngoại đạo. Đó là chúng ta chỉ căn cứ vào
Giới, Định, Tuệ mà còn biết sai đúng như vậy, huống là chúng ta căn cứ vào Bát Chánh Đạo thì pháp môn ngoại đạo không thể lừa phật tử được.
Nhờ đó, kinh sách Đại thừa và kinh sách Thiền tông Trung Quốc không còn dối trá lừa người khác được. Những kinh sách này rất khôn ngoan,
muốn
biến kinh sách của mình
thành những lời Phật thuyết, nên chúng dựng lên bộ sử
33 vị tổ sư Ấn Độ và Trung Hoa.
Trước giờ thị tịch, đức Phật chỉ di chúc:
14
Trưởng Lão THÍCH THÔNG LẠC
“ C á c t h ầ y T ỳ k h e o !
S a u k h i
t a t ị c h , h ã y l ấ y G i ớ i L u ậ t c ủ a T a l à m T h ầ y , đ ừ n g l ấ y a i l à m T h ầ y ” .
May mắn thay
cho đời sau, nhờ có lời dạy của đức Phật như vậy mà quý phật tử không bị lầm mưu kế gian
xảo của Đại thừa và Thiền tông Trung Quốc.
Vào đầu kinh sách Đại thừa, cuốn nào cũng có câu này
giới thiệu: “ N h ư t h ị
n g ã v ă n , n h ấ t t h ờ i P h ậ t
t ạ i
X á V ệ q u ố c , K ỳ T h ọ C ấ p C ô Đ ộ c v i ê n , d ữ K ỳ Đ à . . . ” . Đọc câu này ít ai để ý, nên
cứ lầm tưởng kinh sách đó do Phật thuyết. Cho nên từ xưa
đến
nay, có biết bao nhiêu người học tu theo các tổ Trung Quốc mà cứ ngỡ mình tu
theo Phật. Thật là tội nghiệp!
Trở lại với đức Phật, lúc này Ngài đang âm thầm lặng lẽ một hình một bóng tu hành dưới cội cây bồ đề. Mỗi lần muốn ly dục, ly ác pháp thì
đức Phật lại tư duy cách thức tu tập như thế nào để không ức chế ý
thức giống ngoại đạo. Do tư duy suy nghĩ như vậy, nên Ngài tự nghĩ ra pháp
15
PHÁP TU... THỜI KHÓA... TỨ VÔ LƯỢNG... TỨ BẤT HOẠI...
tu tập xả tâm, ngăn ác và diệt ác pháp, sinh thiện và tăng trưởng thiện pháp.
Từ đó, đức Phật nỗ lực tu tập hằng ngày
không biếng trễ, dùng tri kiến quán xét vào tâm của mình rất tỉnh táo, từng phút, từng giây tác ý để ngăn và diệt lòng ham muốn. Nhờ chế ra pháp tu hành như vậy mà lòng ham muốn càng lúc càng giảm, càng lìa ra. Cuối cùng tâm dục lần lượt bị diệt mất.
Về ác pháp cũng tu tập như vậy, mỗi khi có ác pháp nào tác động vào thân tâm thì đức Phật liền quán xét tư duy ngăn chặn và diệt ác pháp đó ngay liền.
Nhờ phương pháp tu tập hiệu quả như vậy, nên đức Phật cảm thấy tâm mình càng lúc càng ly dục, ly bất thiện pháp rất nhiều. Cứ như vậy, Ngài tiếp tục tu
hành cho đến khi tâm rất
tự nhiên trở nên Bất Động, Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự.
Do kết quả này và cộng với sự siêng năng cần mẫn tu tập, nên Ngài đặt tên phương pháp tu tập này là Tứ Chánh Cần,
tức là bốn pháp chân
16
Trưởng Lão THÍCH THÔNG LẠC
chánh cần phải tu tập hằng ngày. Pháp môn này được sinh ra từ đức Phật. Cho nên người nào tu thiền theo Phật giáo, muốn ly dục, ly ác pháp đều phải tu tập Tứ Chánh Cần.
Kính ghi
Tu
Viện
Chơn
Như
17
|
|
. . .
TỨ CHÁNH CẦN
|
hư chúng ta ai cũng biết, khi đức Phật đến
cội cây bồ đề tu tập với pháp môn
đầu tiên là pháp SƠ THIỀN của ngoại đạo.
Ngồi dưới cội bồ đề, Ngài nhớ lại lúc còn bé ngồi
dưới cây hồng táo tu tập ly dục, ly ác pháp nhập
Sơ Thiền. Cũng với mục đích tu tập nhập SƠ THIỀN như ngoại đạo, nhưng
đức Phật không
tu tập hành pháp theo lối
ly dục, ly ác pháp
ức chế
thân tâm của họ, mà hành theo pháp do
sáng kiến xả tâm ly dục, ly ác pháp của mình, biến pháp
hành này
thành những
hành động “NGĂN ÁC
DIỆT ÁC PHÁP, SINH THIỆN TĂNG TRƯỞNG THIỆN PHÁP”.
Với pháp hành này, suốt ngày đêm, từ canh một
đến canh hai, từ canh ba đến canh tư, canh
năm, rồi từ ngày này sang ngày khác, đức Phật
18
Trưởng Lão THÍCH THÔNG LẠC
nhiệt tâm ngăn và diệt lòng ham muốn
và các ác
pháp cho đến khi tâm bất
động, thanh thản, an lạc
và vô
sự hoàn toàn, thì khi đó đức
Phật để tâm tự nhiên kéo dài 7 ngày đêm. Sau khi ở trong trạng
thái này suốt 7 ngày đêm như vậy thì biết
mình đã chứng đạo.
Lúc mới tu tập, tâm còn chướng
ngại
pháp rất nhiều như sóng, nên đức
Phật ngăn và diệt các ác pháp
đó không lúc nào ngơi nghỉ, nhưng khi các ác pháp đó không còn nữa, thì đức Phật cảm nhận
tâm mình bất động, thanh thản, an lạc và vô sự
luôn luôn đang ở trên bốn chỗ của thân, thọ, tâm
và pháp, vì thế Ngài gọi trạng thái tâm
đó là pháp môn TỨ NIỆM XỨ. Do từ đức Phật tự tu tập theo sáng kiến của mình mà đạo Phật mới có những
pháp môn Tứ Chánh Cần và pháp môn Tứ
Niệm Xứ.
Bốn mươi chín ngày dưới cội bồ đề, đức Phật tư
duy suy nghĩ theo sự kiến giải của mình, nên tự
sáng tạo ra pháp môn tu tập ly dục, ly ác pháp đúng pháp. Vì vậy, cuối cùng thân tâm Ngài được giải thoát hoàn toàn, đó là nhờ
2 pháp môn TỨ CHÁNH CẦN và TỨ NIỆM XỨ. Đây cũng là các pháp
môn căn bản nhất của Phật giáo, mà đầu tiên chúng
ta tu tập thường nghe nói đến. Tất cả ngoại
đạo không làm sao có
được
hai pháp môn này. Chỉ
có đạo Phật mới có hai pháp môn này là do đức
19
PHÁP TU... THỜI KHÓA... TỨ VÔ LƯỢNG... TỨ BẤT HOẠI...
Phật tự tu mà tìm ra.
Trở lại vấn đề tu tập của đức
Phật, khi tu tập
đến đây, Ngài thấy giai
đoạn tu tập SƠ THIỀN đầu tiên theo kinh nghiệm
bản thân của mình
thì
không giống ngoại đạo chút nào cả, nên đức
Phật liền đặt cho pháp hành này cái tên TỨ CHÁNH CẦN. Tứ Chánh Cần là bốn điều cần phải siêng năng
tu hành hằng ngày không nên biếng trễ. Bốn điều
cần nên tu tập này như sau:
1- Ngăn các ác pháp.
2- Diệt các ác pháp.
3- Sinh các thiện
pháp.
4- Tăng trưởng các thiện
pháp.
Một cái tên mà xác định được sự tu tập SƠ THIỀN của Phật giáo. Vì vậy đức Phật còn gọi pháp
môn Tứ Chánh Cần này với một cái tên rất
gần thiền định: “ĐỊNH TƯ
CỤ”, tức là phương pháp tu tập Sơ Thiền. Còn trong Bát Chánh Đạo,
Tứ
Chánh Cần là lớp thứ 6, lớp CHÁNH TINH
TẤN.
Như vậy, muốn tu tập Sơ Thiền thì không phải
trên pháp SƠ THIỀN mà tu tập, mà
phải tu tập trên pháp
môn TỨ CHÁNH CẦN rồi đến TỨ NIỆM XỨ. Sự tu tập như vậy khác hẳn với ngoại đạo. Vì
ngoại đạo không bao giờ có phương pháp tu tập
thiền định theo kiểu này.
20
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!