Đến đây quý vị đã thấy rõ từ SƠ THIỀN của ngoại đạo đã trở thành TỨ CHÁNH CẦN của Phật giáo.
Phật
giáo đã làm đảo lộn tất cả pháp môn tu
hành của ngoại đạo,
làm cho chúng điên đầu. Nhất là
kinh sách Đại thừa
và Thiền tông đang bị dao
động mạnh bởi sóng gió
Tứ Chánh Cần. Khi tu tập theo
giáo pháp của đức
Phật, thì quý vị nên nhớ
phải tu tập TỨ CHÁNH CẦN. Đó là những
pháp đầu tiên đánh vào cơ quan đầu não của giặc sinh
tử luân hồi. Cho nên những đòn đánh ngăn ác, diệt
ác pháp như sấm sét, như vũ bão thì mới mong ngăn
và diệt ác pháp được.
Khi tu tập phải đem hết ý chí dũng mãnh, kiên cường gan dạ đánh đòn nào phải chính xác và đầy đủ sức mạnh thì mới mong ngăn và diệt được
ác pháp, chớ tu tập sìu sìu cho lấy có thì không bao
giờ quét sạch hôn trầm, thùy miên, vô ký và ngoan
không.
Quý vị tu tập thì
phải thật tu, tu cho đúng pháp,
phải
đi
kinh hành nhiều,
tu mà ngồi nhiều thì sinh ra lười biếng. Tu hành như vậy chẳng
đi đến đâu cả, chỉ phí công sức và mất thời
giờ vô ích.
Trong TỨ CHÁNH CẦN gồm có bốn pháp tu tập:
PHÁP TU... THỜI KHÓA... TỨ VÔ LƯỢNG... TỨ BẤT HOẠI...
1- Chánh Niệm Tĩnh Giác Định.
2- Định Vô Lậu.
3- Định Sáng Suốt.
4- Định Niệm Hơi Thở.
Những loại định này đều tu tập trên bốn chỗ: thân, thọ, tâm và pháp (Tứ Niệm Xứ).
Vì thế,
người mới vào tu đều phải bắt đầu tu tập bốn loại
định này. Nếu ai không tu tập bốn loại định này
mà tu tập pháp nào khác là tu tập sai
pháp Tứ
Chánh Cần, là tu theo ngoại đạo.
Tứ
Chánh Cần của Phật là pháp môn NGĂN ÁC, DIỆT ÁC PHÁP tuyệt vời,
nếu
không có pháp môn này thì mọi người tu tập đều bị ức chế ý thức.
Vậy ác pháp cần phải ngăn và
diệt
là gì?
Ác pháp tức là TÀ NIỆM, nó có 2 phần:
1- Tà niệm thuộc về tâm: Có nghĩa là tâm ham
muốn, lo lắng, sợ
hãi, buồn rầu, giận hờn,
ghen tức, căm thù, thương
nhớ, phiền não, v.v...
2- Tà niệm thuộc về thân: Có nghĩa là thân
bị bệnh khổ, đau nhức chỗ này, đau nhức chỗ kia,
ngứa ngáy, chóng mặt, đau lưng, đi đứng không vững vàng, mỏi mệt, hôn trầm, v.v...
Những
tà niệm này thường xảy ra trong thân tâm
(thân, thọ, tâm, pháp) của chúng ta, khiến
cho cuộc sống của chúng ta bất an. Vì thế, chúng ta
phải ngăn và diệt chúng,
để luôn sống và tăng trưởng trong Thiện Pháp.
SINH THIỆN, TĂNG TRƯỞNG THIỆN PHÁP, câu này không có nghĩa dạy chúng ta đi làm việc từ thiện, đi làm phước giúp người bất hạnh trong
xã hội, mà dạy chúng ta nên sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.
Vậy sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh thì phải sống như thế nào?
Như trong pháp môn Tứ Chánh Cần, Phật dạy:
“Sinh thiện, tăng trưởng thiện pháp”. Thiện pháp ở đây có nghĩa là TÂM BẤT
ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ, chớ không có nghĩa thiện đơn
thuần. Hằng ngày giữ gìn và bảo vệ Tâm Bất Động
thì đó là những điều toàn thiện, rất thiện. Thiện đó mới thật sự là thiện, thiện không làm khổ mình,
khổ người và
khổ tất chúng sinh.
Bởi pháp thiện Tâm Bất Động là thiện cứu
cánh, nó là chân lý của Phật giáo. Nếu ai từng sống với nó là người
chứng đạo. Cho nên, chứng
đạo của đạo Phật là chứng
đạo một cách dễ dàng không có khó khăn, mệt nhọc chút nào cả.
✿✿✿
|
|
. . .
TỨ NIỆM XỨ
|
hi tu tập Tứ Chánh Cần thuần thục, thì
không còn ác pháp tới lui nữa, đức Phật
cảm nhận thân tâm mình tham, sân, si giảm bớt
thấy rất rõ ràng. Đồng thời
trạng thái tâm bất động,
thanh thản, an lạc và vô sự rõ ràng hơn, và
mỗi ngày đức Phật càng tăng thời gian kéo dài
thêm trạng thái đó.
Lúc bấy giờ, đức
Phật thấy tâm mình rất lạ
lùng, là luôn luôn cảm nhận
toàn thân tâm của mình
trong hơi thở ra và hơi thở vào, từ canh này sang canh khác, không có một niệm
nào xen vào; không một ác pháp nào khởi ra được, nhất là các ác pháp bên ngoài không tác động vào được thân tâm. Do trạng thái này, đức Phật không còn phải
ngăn, diệt dục và ác pháp như trong pháp môn tu tập
TỨ CHÁNH CẦN.
Khi tu tập pháp môn Tứ
Chánh Cần thì niệm
dục và niệm ác pháp khởi liên tục, còn bây giờ thì khác
xa, tâm không có bất kỳ một niệm ác hay dục
khởi lên một cách rất tự nhiên, chớ không phải còn gò bó ra công tu tập như ngày
xưa
nữa.
Với cách quán xét thân, thọ, tâm, pháp như vậy,
từ ngày này sang ngày khác, chỉ duy nhất có
một cảm nhận quán xét trên toàn thân. Khi
trạng thái này xuất hiện thì sự
tu tập TÂM BẤT ĐỘNG của đức Phật rất dễ dàng và
thoải mái.
Suốt thời gian còn lại hơn 7 ngày, trong 49 ngày
tu tập dưới cội bồ đề, đức Phật thấy rất rõ tâm
mình có một cảm nhận trên thân quán thân
như vậy, không có một tâm niệm nào khác nữa. Trong suốt 7 ngày đêm mà đức Phật tưởng chừng
như trong một khoảng thời gian rất ngắn, chỉ hơn
một phút. Ở trạng thái tâm này kéo dài cho đến khi
tâm VÔ LẬU
hoàn toàn. Nhờ tâm Vô Lậu hoàn
toàn nên mới có đầy đủ TỨ THẦN TÚC. Đó là lúc chứng đạo giải thoát.
Từ trạng thái tu tập tâm này, đức
Phật mới đặt cho nó một cái tên đúng nghĩa
quán bốn chỗ của nó: “TỨ NIỆM XỨ”.
Khởi đầu đức Phật tu tập SƠ THIỀN của ngoại đạo, nhưng do sáng kiến biết sáng tạo ra những pháp tu hành để ly dục, ly ác, làm chủ sinh, già,
bệnh, chết, tức là làm chủ thân tâm. Và cuối cùng
đức Phật thành tựu tâm VÔ LẬU bằng pháp môn
TỨ NIỆM
XỨ, chứ không phải
nhập
Sơ Thiền theo pháp môn của ngoại
đạo.
Bởi vậy, pháp môn Tứ Niệm Xứ chỉ có đạo Phật mới
có, còn tất cả các tôn giáo khác đều
không có pháp môn này. Tại sao lại gọi là TỨ NIỆM XỨ?
Tứ Niệm Xứ có nghĩa là bốn nơi dùng để
quán
xét, nó gồm có:
1- THÂN là phần cơ thể đầu, mình, hai tay và
hai chân.
2- THỌ là các cảm thọ của thân và tâm.
3- TÂM là phần sáu thức tiếp xúc sáu trần.
4- PHÁP là thân, thọ, tâm và sáu trần đang xung
quanh chúng ta.
Trong bốn nơi này, chỉ cần quán xét một nơi
là quán xét tất cả bốn nơi. Cho nên mới gọi là TỨ NIỆM XỨ.
Trên Tứ Niệm Xứ có
ba giai đoạn tu tập:
1- TỨ CHÁNH CẦN tu tập trên Tứ Niệm Xứ.
(Giai đoạn này người mới
tu vẫn tu tập được và tu tập
như vậy mới có căn bản)
2- TỨ NIỆM XỨ tu tập trên Tứ Niệm Xứ. (Giai đoạn rất khó tu, nếu mất căn bản thì không nhiếp
phục được tham ưu trên thân, thọ, tâm và pháp)
3- THÂN HÀNH NIỆM tu tập trên Tứ Niệm Xứ.
(Giai đoạn này là giai đoạn cuối cùng của Tứ
Niệm Xứ, nó chuyên tu tập lệnh để thực hiện Tứ
Như Ý Túc)
TỨ CHÁNH CẦN tu tập trên Tứ Niệm Xứ là phương
pháp tu tập lớp Chánh Tinh Tấn, lớp thứ 6
trong Bát Chánh Đạo. Còn TỨ NIỆM XỨ tu tập
trên Tứ Niệm Xứ là phương pháp tu tập lớp thứ
bảy,
tức là lớp CHÁNH NIỆM trong Bát Chánh Đạo. Lớp thứ bảy là lớp tu chứng đạo của Phật giáo. Ngoài pháp môn TỨ NIỆM XỨ thì không có pháp
nào tu chứng đạo giải thoát được.
Bởi trên Tứ Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập,
cho nên có những bài kinh đức Phật dạy tu tập Tứ
Niệm Xứ, nhưng kỳ thực là dạy tu tập TỨ CHÁNH
CẦN
trên Tứ Niệm Xứ. Đây, chúng ta hãy lắng nghe
Phật dạy: “Những Tỳ kheo nào, này các Tỳ
kheo, mới xuất gia tu chẳng bao lâu, mới đến trong
những pháp luật này. Những Tỳ kheo ấy,
này các Tỳ kheo, cần phải được khích
lệ (samàdapetabbà), cần phải được hướng dẫn, cần
phải được an trú, tu tập Bốn Niệm Xứ (thân, thọ, tâm,
pháp). Hãy chuyên chú với tâm thanh tịnh,
định tỉnh nhất tâm để có chánh
trí như thật đối với các pháp”.
Cho nên, người mới xuất gia vẫn tu tập pháp
môn Tứ Niệm Xứ, nhưng phải tu tập ở giai đoạn đầu
là TỨ CHÁNH CẦN trên Tứ Niệm Xứ.
Bởi vậy, nếu một người không có tu tập thì
không thể nào hiểu được pháp môn Tứ Niệm Xứ, và cũng
không hiểu được Giới Luật.
Thưa các bạn! Các bạn muốn biết
rõ pháp môn TỨ NIỆM XỨ thì hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Một thời, Thế Tôn ở Vesàli tại rừng Ambapàli. Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỳ kheo: Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo cần phải trú Chánh Niệm Tĩnh Giác.
Đây là lời giáo giới của Như Lai cho các Thầy.
Và này các Tỳ kheo, thế nào là Tỳ kheo Chánh Niệm? Ở đây, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo trú quán
thân trên thân, nhiệt
tâm,
tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán thọ trên
các thọ, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời; trú quán tâm trên tâm,
nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham
ưu ở
đời; trú quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm,
tĩnh giác chánh niệm nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này các Tỳ kheo, là Tỳ kheo Chánh Niệm”.
Đoạn kinh trên đây dạy chúng ta cách thức
chánh niệm, tức là học lớp Chánh Niệm. Vậy
CHÁNH NIỆM là gì?
Theo đoạn kinh này, thì Chánh
Niệm là niệm
THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ. Niệm thanh thản, an lạc và vô sự
hiện tiền trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì tà niệm không bao giờ xen
vào được. Nếu tà niệm xen vào được thì tức khắc phải nhiếp phục, không được để chúng tác động
vào thân, thọ, tâm và
pháp.
Như đã nói ở phần Tứ Chánh
Cần, TÀ NIỆM là các niệm dục và ác pháp trên thân tâm. Nhưng
sang giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ, thân tâm chỉ
còn các tà niệm vi tế, chứ không
còn các tà niệm thô
như lúc mới tu tập ngăn ác, diệt ác pháp.
Vậy còn TRÊN THÂN QUÁN THÂN là như thế nào?
Trên thân quán thân có nghĩa là dùng mắt nhìn
thấy, tai lắng nghe, thân cảm nhận xúc chạm và ý
thức quan sát ngay trên thân. Nếu thân có đau nhức chỗ nào liền biết ngay, thân đi biết thân đi, thân ngồi
biết thân ngồi, thân nằm
biết thân nằm, thân đứng biết thân đứng, v.v...
Tuy nói trên thân quán thân nhưng thật sự là
đang quán bốn chỗ: thân, thọ, tâm và pháp. Vì
biết thân là biết thọ, biết thọ là biết tâm, biết
tâm là biết pháp, biết pháp là biết thân. Cho
nên trên TỨ NIỆM XỨ, biết chỗ này thì liền biết chỗ
khác. Bốn chỗ này như một khối. Tuy nói bốn
nhưng mà một.
Quán thân trên thân, tức là tâm tỉnh thức
trên thân, nên thân xảy ra một điều gì dù lớn lao hay nhỏ nhặt tâm đều biết rất rõ. Cho nên nói trên
thân quán thân chớ kỳ thực là quán TÂM BẤT ĐỘNG, nếu Tâm Bất Động suốt bảy ngày đêm là
tu tập chứng đạo. Còn ngược lại,
trong bảy ngày đêm tâm thường bị hôn trầm, thùy miên, vô ký và
loạn tưởng thì nên dùng pháp NGĂN ÁC, DIỆT ÁC, để mà diệt các ác pháp này.
Bởi vậy, pháp môn TỨ NIỆM XỨ là một pháp môn tu tập để chứng
đạo.
Pháp môn này rất quan
trọng, nếu ai
không tu tập nó thì không bao giờ chứng
đạo. Cho nên chúng ta cần phải thông suốt
đường lối tu tập như thế nào đúng và như thế nào
sai.
Một lần nữa chúng tôi xin nhắc các bạn: Phải tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN rồi sau mới tu
tập đến pháp môn TỨ NIỆM XỨ. Nếu không biết thì
đừng nên tu tập, bởi có tu tập cũng chỉ uổng công mà thôi.
Các bạn đừng nghe nói pháp môn TỨ NIỆM
XỨ mà ham tu cao. Pháp môn này dành cho
những bậc GIỚI LUẬT nghiêm túc, dành cho những bậc tâm đã BẤT ĐỘNG trước các ác pháp và các cảm thọ, chớ không phải pháp môn này bất cứ ai muốn tu tập là đều tu tập được. Nếu
các
bạn tu tập mà không biết khả năng trình độ
của mình thì đó là tu tập sai pháp, xin quý vị cần
lưu tâm.
Bất cứ
thân
làm điều gì đều biết: Thân ăn biết
thân ăn, thân ngủ biết
thân ngủ, thân quét sân biết
thân quét sân, thân lặt rau biết thân lặt rau, thân
ngồi yên biết thân ngồi yên
và khi thân ngồi yên bất động thì biết hơi thở ra, hơi thở vô trên thân. Tất cả hành động đều được xem là trên thân quán thân. Dù quán hơi thở ra, hơi thở vô cũng chính là trên thân quán thân.
Trên thân quán thân được như vậy là phải có sức tỉnh thức. Đây, chúng ta hãy nghe đức Phật dạy
cách thức tu tập tỉnh thức: “Và này các Tỳ
kheo, thế nào là Tỳ kheo tĩnh giác? Ở đây, này
các Tỳ kheo, Tỳ kheo tĩnh giác khi đi tới, đi lui;
tĩnh giác khi ngó tới, ngó lui; tĩnh giác khi co tay, duỗi
tay; tĩnh giác khi mang áo sanghati
(tăng già lê), mang bát, mang y; tĩnh giác khi
ăn, uống, khi
nhai, nếm; tĩnh giác khi đại tiện, tiểu tiện; tĩnh giác khi đi, đứng, khi ngồi, nằm; khi thức, khi nói, khi
im lặng đều tĩnh
giác. Này các Tỳ kheo, như vậy Tỳ kheo sống tĩnh giác”. Đoạn
kinh trên đây đã xác định sự tĩnh giác trên thân hành của chúng
ta. Vậy THÂN HÀNH của chúng ta là gì?
Thân hành của mỗi người được chia ra làm hai
phần:
1- Thân hành
nội. (hơi thở)
2- Thân hành ngoại. (tất cả mọi sự hoạt
động của thân)
Thân hành hoạt động gồm có
ba nơi:
1- Thân
2- Miệng
3- Ý
Như vậy, muốn tĩnh giác trên thân hành thì các bạn hãy phản tỉnh lại thân, miệng, ý của mình. Khi phản tỉnh lại thân, miệng, ý của mình là các bạn hãy chủ
động
điều
khiển thân hành,
khẩu hành và ý hành, khiến cho thân hành, khẩu hành,
ý hành của các bạn không có lỗi lầm. Thân hành, Khẩu hành, Ý hành của các bạn không
có lỗi lầm tức là Chánh Niệm, còn có lỗi lầm là có Tà Niệm.
Bài kinh này đức Phật
dạy chúng ta phải phản tỉnh
lại thân hành,
khẩu hành và ý hành, nói chung
là dạy chú ý tất cả các hành động của
thân, đó là tĩnh giác. Nhưng nếu nghe như vậy, rồi
các bạn tu tập chỉ lo chú ý tập trung trên thân hành một
cách ức chế tâm cho hết niệm khởi, thì đó là một điều tu sai lệch pháp hết sức.
Đó là các bạn đã hiểu sai, biến pháp xả tâm của Phật thành pháp ức chế.
Đức Phật rất sợ chúng ta tu tập Tứ Niệm Xứ
lầm lạc thì tai hại không lường được về hậu quả.
Bởi vì pháp môn Tứ Niệm
Xứ là một pháp môn
độc nhất để đưa con người có đủ năng lực làm chủ
nhân quả, tức là làm chủ mọi sự hoạt động của chúng
ta hằng ngày. Tức là như lời đức Phật dạy ở
đoạn kinh trên: “Tỳ
kheo
phải sống
an
trú
chánh niệm tĩnh giác”.
Cho nên, chúng
ta hãy
hiểu cho rõ ràng, để biết
cách
sống AN TRÚ CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC mà không sai lầm trên pháp môn Tứ niệm Xứ.
Đây, xin các bạn hãy
lắng nghe
đức Phật dạy
tiếp:
“Vậy này các Tỳ kheo, các Thầy phải gội sạch hai
pháp cơ bản về các thiện pháp, và thế nào là hai
pháp cơ bản về các thiện pháp? Chính là Giới
khéo thanh tịnh và Tri kiến chánh trực. Này các Tỳ
kheo, khi nào các Thầy được Giới khéo thanh tịnh và Tri kiến chánh trực, các Thầy hãy y cứ trên giới, an trú trên giới tu tập Bốn Niệm Xứ: thân, thọ, tâm, pháp”. (kinh Tương Ưng tập 5 và Tăng Chi Bộ kinh tập 1).
Đoạn kinh trên dạy rất rõ ràng: “Giới luật và Tri kiến”. Bởi vậy, muốn khắc phục những tham ưu trên thân, thọ, tâm và pháp thì phải y cứ
trên GIỚI LUẬT, sống không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt
nào, thì mới mong đẩy lui các chướng ngại
pháp trên đó (khắc
phục tham ưu).
Thưa các bạn! Trong kinh Ước Nguyện, đức
Phật cũng đã nhắc nhở chúng ta rất nhiều về giới
luật. Vì giới luật rất quan trọng trên con đường tu
tập giải thoát. Muốn ước nguyện kết quả một điều gì trong sự tu tập thì giới luật phải nghiêm chỉnh.
Ở đây, tu tập Tứ Niệm Xứ đức Phật cũng dạy chúng
ta lấy GIỚI LUẬT và TRI KIẾN làm nền tảng
cho sự nhiếp phục những tham ưu trên TỨ NIỆM XỨ, nghĩa là muốn đẩy lui những
sự khổ đau trên thân, thọ, tâm và pháp thì giới luật phải
nghiêm chỉnh. Giới luật nghiêm chỉnh thì tri
kiến thanh tịnh, tri kiến thanh tịnh thì giới luật mới nghiêm chỉnh. Giới luật làm thanh tịnh tri kiến,
tri kiến làm thanh tịnh giới
luật. Đó là nền
tảng vững chắc để chúng ta tu tập Tứ Niệm Xứ mà
làm chủ bốn sự đau khổ: sanh, già, bệnh, chết của đời người.
Bởi vậy, pháp môn Tứ Niệm Xứ là ngọn đèn soi sáng, là chỗ nương tựa vững chắc cho chúng ta. Đây, các
bạn
hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ những lời đức Phật nhắc nhở ông A Nan: “Này
Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình,
hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa
một điều gì khác; dùng chánh
pháp làm ngọn đèn, dùng
chánh pháp làm chỗ nương
tựa,
chớ nương tựa một điều gì khác. Này Ananda, thế nào là Tỳ
kheo tự mình là
ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa
một điều gì khác; dùng chánh pháp làm ngọn
đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa
một điều gì khác?
Ở đây, này Ananda, Tỳ kheo trú quán
thân trên thân, nhiệt tâm, tĩnh
giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán thọ trên các thọ,
nhiệt tâm, tĩnh
giác chánh niệm, nhiếp
phục tham ưu ở đời; trú quán tâm trên tâm, nhiệt tâm,
tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu
ở đời; trú quán pháp trên các pháp, nhiệt
tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như
vậy, này Ananda, Tỳ kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự
mình nương tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác; dùng chánh pháp
làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác”.
Các bạn có nghe chăng? Tứ
Niệm Xứ là ngọn đèn chánh pháp, là chỗ nương
tựa vững chắc cho các bạn. Như vậy, Tứ Niệm Xứ đúng là một pháp
môn rất quý báu nên đức Phật lặp đi lặp lại nhiều
lần, để chúng ta đừng quên pháp môn này.
Ở đoạn kinh trên, đức Phật dạy chúng ta 2 điều:
1) Lấy mình làm ngọn đèn, làm chỗ nương tựa vững
chắc, là ý muốn dạy điều gì đây?
Xin thưa cùng các bạn! “Tự
mình là ngọn đèn cho
chính mình, tự mình nương tựa chính mình,
không nương tựa một điều gì khác”. Để thấu rõ và
xác định ý nghĩa của câu này, chúng tôi xin lặp lại:
“Tự mình là ngọn
đèn cho chính mình, tự
mình nương tựa chính mình”. Đó là Tri Kiến của
chúng ta đấy các bạn ạ!
2) Dùng chánh pháp làm ngọn đèn soi sáng,
dùng chánh
pháp
làm
chỗ
nương tựa,
không
nương tựa một điều gì khác, là ý Phật muốn dạy pháp
môn gì đây?
Xin thưa cùng các bạn! Đó là Giới đức,
Giới hạnh, Giới hành và pháp môn Tứ Niệm Xứ.
Đọc đến những đoạn kinh trên đây, chắc các bạn
đã thấu hiểu và phân
biệt chánh
pháp của Phật là
pháp nào, còn tà pháp của ngoại đạo là pháp nào?
Nếu không có những lời xác định chánh pháp của
Phật, thì đứng trước rừng
kinh sách hiện giờ, các
bạn dễ rơi vào kiến giải tưởng của ngoại đạo.
Như chúng tôi đã nói ở đoạn trước, nếu một
người không có tu tập thì không thể nào hiểu được pháp môn Tứ Niệm Xứ, và cũng không hiểu được
Giới Luật. Bởi vì trong khi trên TỨ NIỆM XỨ có ba giai đoạn tu tập, thì Giới đức, Giới hạnh và
Giới hành cũng là ba hành động đạo đức hàng
ngày để tu tập GIỚI LUẬT.
Thực
hiện giới luật là phải luôn luôn thực hiện
với tri kiến, cho nên kinh dạy: “Giới luật ở đâu là tri kiến ở đó, tri kiến ở đâu
là giới luật ở đó, giới
luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”. Nếu người tu sĩ và người cư sĩ không
thực hiện giới luật nghiêm chỉnh, còn vi
phạm những lỗi nhỏ nhặt, không thấy xấu hổ
và sợ hãi thì tu Tứ Niệm Xứ chẳng bao giờ có kết quả
rốt ráo, chỉ hoài công vô ích mà thôi, uổng phí một
đời tu.
Ngoại đạo không bao giờ
có pháp môn Tứ Niệm
Xứ, cho nên ngoại đạo không có ai tu
chứng đạo giải thoát. Nhờ có pháp môn Tứ Niệm Xứ nên ngoại
đạo không thể lừa dối phật tử,
lấy pháp môn của mình cho là pháp môn của Phật được.
Tóm lại, khi tu hành theo Phật giáo thì không
nên tu tập bất cứ
một pháp môn nào khác, mà chỉ nên
tu tập Tri Kiến, Giới Luật và Tứ Niệm Xứ.
Trước khi nhập diệt, đức Phật đã di
chúc: “Sau khi Ta nhập diệt,
các vị Tỳ kheo hãy lấy GIỚI LUẬT và GIÁO PHÁP của Ta mà làm THẦY”. Giáo pháp mà Ngài đã di chúc ở đây là pháp môn TỨ NIỆM XỨ.
Pháp môn Tứ Niệm Xứ là pháp môn nhiếp tâm BẤT ĐỘNG cuối cùng của Phật giáo, vì chính người tu tập sống được với tâm Bất Động là đã chứng
đạo. Ở đây không
còn tu pháp môn nào
khác nữa. Cho nên pháp môn Tứ Niệm Xứ
được xem là pháp môn tu tập cuối cùng của Phật giáo,
gọi là CHÁNH NIỆM. Nơi đây tất cả năng lực làm chủ
thân tâm sẽ được xuất hiện trên mảnh đất Bất Động.
BẢY GIÁC CHI cũng xuất hiện đầy đủ trên tâm
Bất Động này. Vì thế, quý vị đừng vội vàng
tu tập Tứ Niệm Xứ, mà nên xét lại tâm mình đã
Bất Động chưa, nếu tâm BẤT ĐỘNG thì mới
tu tập TỨ NIỆM XỨ, còn chưa thì nên trở lại tu
tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN.
Vì vậy, xin quý vị đừng hiểu rằng 49 ngày đức Phật
ngồi dưới cội bồ đề là tu tập Bốn Thiền, tức là từ Sơ Thiền,
Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền
của ngoại đạo. Sự thật, trong gần 6 tuần đầu, đức
Phật tu tập ngăn ác diệt ác pháp, sinh
thiện tăng trưởng thiện pháp trong pháp môn TỨ CHÁNH
CẦN. Kế đó, hơn 7 ngày cuối cùng, đức Phật an trú tự nhiên trên TỨ NIỆM XỨ để quét sạch các tà niệm vi tế của thân tâm, cho đến khi BẢY GIÁC CHI
sung mãn thì TỨ THẦN TÚC và TAM MINH
xuất hiện. Một kết quả tâm VÔ LẬU hoàn toàn.
Đến đây, chặng đường tu hành làm chủ sinh, già, bệnh
chết của đức Phật đã thành công.
HẾT
|
THỜI KHÓA
TU TẬP Trong thời Đức phật (trong tạng kinh pali)
|
|
. . .
Thank you for evaluating
Wondershare PDF Splitter.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!