|
|
NIỆM GIỚI
|
iệm Giới như thế nào? Các nhà Đại
thừa dạy niệm Giới bằng cách mỗi
nửa tháng một kỳ, ngày 14 hoặc ngày 30, họ tập
trung nhau lại tụng Giới. Đó là cách thức của họ niệm
Giới. Niệm Giới như vậy dù một triệu kiếp
tu hành giới luật cũng không nghiêm trì thanh
tịnh được. Họ đâu biết rằng giới luật là hành động
sống đạo đức của một vị Thánh tăng, Thánh ni. Nếu họ tụng giới
luật suông như vậy thì không có ý nghĩa
và lợi ích gì cả, đó chỉ là hình thức che đậy sự phá
giới của họ.
Cho nên hầu hết các thầy Đại thừa
niệm Giới như vậy đều sống phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới.
Các nhà Đại thừa hiểu không đúng pháp Tứ Bất Hoại Tịnh, nên thực hành sai, do thực hành sai mà thân tâm ô nhiễm
không thanh tịnh, cuối cùng
tu Tứ
Bất
Hoại Tịnh mà thành Tứ
Hoại Tịnh, không có giải thoát chút nào. Vậy, niệm Giới như thế nào cho đúng?
Muốn niệm Giới cho đúng, thì phải học giới
luật cho thông suốt, khi giới luật đã học thông suốt, thì chúng ta quán xét và tư duy những đức hạnh
nào của giới dạy về đạo đức làm Người,
và những giới luật nào dạy về giới đức làm Thánh.
Chúng ta đã hiểu rõ các đức hạnh của giới xong,
thì từ đó hằng ngày chúng ta quyết tâm phải sống cho đúng những đạo đức
làm
Người và làm
Thánh. Nhờ có quán sát và tư duy như vậy nên
sống
đúng giới luật nghiêm túc; do sống đúng giới
luật nghiêm túc nên thân tâm thanh tịnh ly dục, ly
ác pháp.
Người tư duy quán sát và sống đúng giới luật như vậy, nên gọi là NIỆM GIỚI BẤT HOẠI TỊNH. Niệm như vậy mới gọi là niệm Giới, chứ không
phải niệm Giới theo kiểu các nhà Đại thừa tụng
một bài Giới là xong. Niệm Giới như vậy gọi là
Niệm Giới Đại Thừa, chứ không
phải Niệm Giới Bất Hoại Tịnh.
Đây,
chúng ta
hãy lắng nghe đức Phật dạy
niệm Giới: “Lại nữa này Mahànàma, Thánh đệ
tử tùy niệm các giới của mình: “Giới
không bị bẻ vụn, không bị sứt mẻ, không bị vết chấm, không bị uế tạp, đưa đến giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến thiền định”.
Này Mahànàma,
trong khi Thánh đệ tử tùy niệm Giới,
trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối,
không bị sân chi phối, không bị si chi phối;
Trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực, nhờ dựa vào Giới.
Và
này Mahànàma, một Thánh đệ tử, với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến giới pháp. Người có hân hoan nên hỷ sanh.
Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc
thọ, tâm được định tĩnh.
Này Mahànàma,
về vị Thánh đệ tử này, được
nói như sau: “Với mọi người không bình thản,
vị ấy sống bình thản. Với mọi người có não hại,
vị ấy
sống không não hại. Nhập được pháp lưu, đó là vị ấy tu tập niệm Giới”.
(Kinh
Tăng Chi, tập 3, trang19)
Đây là một trong những bài kinh để xác chứng
lời đức Phật dạy. Như
vậy
mà các tổ dám cả gan thay đổi, khiến cho người đời sau tu tập sai lạc, đó
là các tổ dạy sai pháp của đức Phật. Còn những
pháp các tổ bịa đặt ra cũng đều gán cho là đức
Phật
thuyết. Bởi vậy, từ 25 thế kỷ nay, người ta mang tiếng tu theo đạo Phật, chứ kỳ thật là người
ta tu
theo đạo của các tổ. Cho nên hằng triệu
vạn người tu hành mà chẳng có ai làm chủ sanh, già,
bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Quý phật tử nên nhớ, nếu chúng ta quyết tâm
tu hành tìm cầu sự
giải thoát của đạo Phật, thì chỉ cần
tu Tứ Bất Hoại Tịnh là cũng đã thành tựu viên
mãn con đường tu tập, có nghĩa là chúng ta sẽ làm chủ
bốn sự khổ đau của kiếp người: sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi, thì cần gì còn phải
tu các pháp môn khác.
Còn nói quý phật tử
tu Tứ Bất Hoại Tịnh câu
hữu với Định Vô Lậu, là nhắc quý vị tư duy, quán xét,
suy ngẫm về Phật, Pháp, Tăng và Giới,
để chúng ta thực hiện sống cho đúng như Phật, như Pháp,
như chúng Thánh Tăng và như Giới
luật đã
dạy,
để không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào.
Đó là cách
thức quét sạch lậu
hoặc trong chúng ta, nên mới gọi là câu hữu với Định Vô Lậu. Chứ
kỳ thực chúng ta không có tu Định Vô Lậu, mà tu Tứ Bất
Hoại Tịnh.
Tóm lại, một người
quyết tâm tu hành để tìm cầu
sự giải thoát, thì chỉ cần tu Tứ Bất Hoại Tịnh
là cũng đủ sự giải thoát rồi, đâu cần gì phải tu
nhiều pháp môn.
Ví dụ: Chúng ta quyết sống như Phật thì khi
gặp chướng ngại pháp trong tâm, chúng ta nhất định không sân, không phiền
não,
không đau khổ.
Sống và làm y như Phật thì ngay đó thân tâm thanh
tịnh, hay nói cách khác là tâm bất động
trước các ác pháp. Tu hành chỉ có như vậy mà thôi,
thế mà chẳng ai làm được cả!
Pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh là một pháp môn hay tuyệt vời, nếu một người quyết tử tu tập thì sẽ
có kết quả ngay liền, không còn phải chờ đợi
kéo dài từ năm này đến tháng kia hoặc năm nọ.
Nhưng
muốn tu tập pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh thì chúng ta nên nghiên
cứu thật kỹ các cuốn
sách “THỌ TAM QUY, NGŨ GIỚI”, “GIÁO ÁN
RÈN
NHÂN CÁCH...” (LỚP TAM QUY, LỚP NGŨ GIỚI... tập I, II, III...). Đó là các cuốn sách dạy
đức hạnh sống của đức
Phật, của chúng Thánh
Tăng trong thời đức Phật còn tại thế.
✿✿✿
|
|
. . .
TẠI SAO TA PHẢI NIỆM PHẬT?
|
ài
kinh TỨ BẤT HOẠI TỊNH đức Phật dạy
Niệm Phật rất tuyệt
vời, nhưng đến bài
kinh này đức Phật dạy Niệm Phật là dạy chúng ta
sống
với đức hiếu sinh thân hành, khẩu hành và ý
hành còn tuyệt vời hơn nữa. Bởi vì đức hiếu sinh
là một tâm hồn cao thượng sẽ đem đến cho mình, cho người
và muôn loài vạn vật một tình thương
chan hòa, một cuộc sống bình an, yên vui, muôn
loài không làm khổ cho nhau. Niệm Phật như vậy mới thật sự là niệm Phật. “NIỆM PHẬT LÀ BAN
TÌNH THƯƠNG
YÊU ĐẾN VỚI MỌI NGƯỜI”. Niệm Phật như vậy mới có đầy đủ công đức Niệm
Phật.
Đây, quý vị
hãy đọc đoạn kinh này thì mới biết
đức Phật dạy niệm Phật như thế nào đúng, như thế nào
sai:
“Thành La Phiệt có một ông Hoàng
tánh rất hung bạo, thêm vào đó, quyền thế và địa vị của
ông có thể giúp ông thủ tiêu tội án
trước pháp luật. Đối với ông, chưa có một lời phải nào, một đạo
giáo nào cảm hóa được.
Một hôm, ông gặp Phật khi Phật du hóa xứ
này.
Mới nhìn thấy đức
Phật, lòng ông bỗng cảm
phục như voi dữ trước người
quản tượng. Đức Phật dạy
ông vài lời sơ lược: “Hãy
tưởng niệm Phật
đà, hãy từ bi thương người,
hãy hùng lực cứu người”.
Ông cung kính vâng lời. Nhưng khi về đến nhà, vừa thấy người hành khất chướng mắt, ông
liền đùng đùng nổi giận. Lời vàng của Phật không còn
trong lòng ông nữa. Khi ông toan đánh đuổi người
ấy, bỗng sực nhớ lại hình dáng từ nghiêm của Phật. ông liền dịu lại, như khi bố thí chút đỉnh
gì. Tối hôm đó, vợ ông lấy làm lạ, gạn hỏi đầu
đuôi. Ông bèn tuần tự thuật lại. Nhờ thuật lại, ông
nhớ lại rõ ràng hình dung đức Phật và lời Ngài
dạy.
Đêm hôm ấy, ông suy nghĩ mông lung, ông nghĩ: “Nhớ Phật phải nhớ đến người
nghèo khổ. Tưởng Phật phải tưởng đến người nghèo
khổ. Nhớ Phật phải nhớ đến người
khổ đau. Tưởng Phật
phải tưởng đến người khổ đau”. Rồi
mới sáng,
PHÁP TU... THỜI KHÓA... TỨ VÔ LƯỢNG... TỨ BẤT HOẠI...
ông đi tìm Phật. Giữa đường,
ông gặp một người
hành khất ốm liệt bên vệ đường. Không suy nghĩ,
ông đến ân cần hỏi
han và dốc hết
tiền trong túi ra cho.
Người ấy e sợ cám ơn rối rít. Nhưng ông chỉ bảo:
“Vì tưởng nhớ Phật nên tôi giúp anh. Anh nhận
tiền này khiến tôi được
phước, thế là tôi ơn
anh chứ nào anh ơn gì tôi? ”.
Người hành khất nghe thế, lấy làm lạ vì không
lạ gì tính nết của ông và uy danh của đức Phật
nữa.
Bỗng nhiên người ấy
cất tiếng niệm: “NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT”
(kính lễ đấng giác ngộ).
Ông Hoàng cũng bất
giác niệm theo và đi mau tìm Phật. Khi gặp được Ngài, ông thuật
rõ đầu đuôi mọi việc. Nghe xong, đức
Phật mỉm cười hiền từ bảo: “Phải! Niệm Phật ông phải tưởng niệm người nghèo
khó là để giúp đỡ họ. Tưởng niệm người nghèo khó để giúp đỡ họ là tưởng
niệm Phật đó”. (Kinh Tạp
Bảo
Tàng)
Đọc bài kinh này, quý phật tử đã hiểu biết
niệm Phật như thế nào đúng và như thế nào sai.
Đọc suốt trong tạng kinh Nikaya, chúng
tôi không thấy chỗ nào đức Phật dạy niệm Phật là thầm đọc danh hiệu Phật, như trong kinh Di Đà phát
triển, cũng như kinh “Tìm Hiểu Pháp Môn
Niệm Phật” của các sư Nam tông tưởng giải viết ra, dạy niệm 108 âm
của
9 công đức của Phật. Sao
các sư
dám
kiến giải sai lời Phật dạy như
vậy mà còn viết sách lưu lại cho hậu thế, một việc làm tội
lỗi rất lớn đối với Phật giáo, các sư có thấy không? Chính những kiến giải ấy mà các sư có thấy ai tu
chứng quả A La Hán chưa? Phật giáo bây giờ quý sư thầy đều
vi phạm giới luật, chỉ có giới không ăn
uống phi thời mà còn bẻ vụn tan nát, huống là các giới
khác.
✿✿✿
|
|
. . .
NHỮNG CÂU HỎI CỦA
PHẬT TỬ
TP
HỒ CHÍ MINH
|
- Chúng con xin hỏi, mong Thầy hoan hỷ trả lời để chúng con biết niệm Phật như thế nào là
đúng như lời Phật dạy, như thế nào là các tổ kiến tưởng giải ra dạy. Và tu tập niệm Phật như vậy có ích lợi gì? Kết quả có được Phật Di Đà
rước về cõi Cực Lạc hay không?
Như trong
kinh Di Đà dạy,
Niệm Phật bảy ngày
đêm tâm không loạn thì thấy được Phật Di Đà và Thánh chúng. Đến ngày lâm chung
sẽ được đức Phật Di Đà và Thánh chúng đến rước
về cõi Cực Lạc Tây Phương.
Như vậy có đúng không? Xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy cho chúng con. Chúng con
xin trích ra một đoạn trong kinh Di Đà đã dạy: “Thất nhựt nhất tâm bất
loạn chuyên trì danh
hiệu A Di Đà Phật, dữ chư Thánh
chúng hiện tại kỳ tiền...”. Lời dạy này có phải là của đức
|
Phật Thích Ca Mâu Ni không?
- Kính bạch Thầy, gần đây chúng con có đọc một tập sách của sư Hộ Pháp, một danh tăng
của hệ phái Phật giáo Nam tông tại Việt Nam, biên
soạn theo kiến tưởng giải của một nhà sư Miến Điện, tập sách được lấy tên “Tìm Hiểu Pháp Môn Niệm Phật”.
Trong sách “TÌM HIỂU PHÁP
MÔN NIỆM PHẬT”, có đoạn sư Hộ Pháp viết, con xin trích ra đây:
“Thuở bần sư ở xứ
Myanmar. Một hôm, đọc một tờ đặc san Phật giáo gặp một bài pháp dạy về
Phương pháp niệm ÂN
ĐỨC PHẬT bằng phương tiện xâu chuỗi 108
hột, do một Ngài Đại Trưởng
Lão (không nhớ rõ pháp danh) đã phát hiện ra 9
ân đức Phật gồm có 108 âm và xâu chuỗi có 108 hột.
Ngài dạy phương pháp niệm mỗi âm, đồng
thời lần theo mỗi hột. Khi niệm đủ 9 Ân Đức Phật
gồm có 108 âm, đồng thời lần
theo chuỗi đủ 108
hột... giúp cho hành giả kiểm
soát được tâm mình. Còn như các đề mục thiền định khác thì không có tính ưu việt này”. Đây là một phương pháp tu tập
ức chế tâm tương tự như các trường phái Thiền,
Mật, Tịnh được hướng dẫn trong kinh sách phát triển. Trong cuốn sách này còn có đoạn sư Hộ Pháp
nói kết quả tu tập niệm 9 công đức
Phật mà con xin trích dưới đây:
“Đây là những kết quả của niệm 9 Ân Đức
Phật, gồm có:
1- Được phần đông chúng sinh kính trọng.
2- Thiện tâm trong
sạch thanh tịnh.
3- Khi sắp chết, tâm bình tĩnh
sáng
suốt không mê muội. Sau khi chết, do thiện nghiệp này cho
quả tái sinh làm người cao quý hoặc chư thiên
cao quý.
4- Tái sinh
kiếp nào cũng thuộc hàng chúng
sinh
cao quý.
5- Có sắc thân xinh đẹp
đáng ngưỡng mộ.
6- Các bộ phận trong thân thể đều xinh đẹp đáng yêu quý.
7- Thân có hương thơm.
8- Miệng có
mùi hương thơm tỏa ra.
9- Có trí tuệ nhiều.
10- Có trí tuệ sâu
sắc.
11- Có trí tuệ sắc bén.
12- Có trí tuệ nhanh nhẹn.
13- Có trí tuệ phong phú.
14- Có trí tuệ phi thường.
15- Nói lời hay có lợi ích...
16- Kiếp vị lai có duyên lành gặp đức Phật, lắng nghe chánh pháp dễ dàng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh đạo - Thánh quả và Niết bàn”.
Vậy xin Thầy
hoan hỷ chỉ dạy cho chúng con được
rõ: Đây có phải là
pháp
môn
Phật
dạy
không?
TRẢ LỜI NHỮNG CÂU
HỎI:
|
rả lời câu hỏi 1: Đọc những đoạn kinh này
và
so sánh với kinh Nguyên thủy của Phật
dạy thì quý phật tử sẽ thấy kinh sách này niệm
Phật không tương ưng với lời dạy niệm Phật trong
kinh sách Nguyên thủy. Lời
dạy trong kinh Di Đà không
phải Phật thuyết mà của các tổ thuyết.
Nếu đem lời
Phật dạy niệm Phật trong kinh Nguyên thủy so sánh với kinh Di Đà dạy niệm
Phật thì không tương ưng, mà không tương ưng
là kinh sách của ngoại đạo, và như vậy quý phật tử không
nên tin theo; không
nên tu tập theo.
Trong các kinh Tịnh Độ hay dẫn chứng
huyền thoại khi người niệm Phật thường hay biết ngày,
biết giờ chết. Đó là một
loại thiền tưởng do ức chế
vọng tưởng mà sinh ra những giao cảm tưởng biết ngày
nào chết, mà pháp môn Tịnh độ cho là hay
tuyệt. Đối với Phật giáo Nguyên thủy thì đó là
một phương pháp tỉnh thức trong kinh sách Nguyên thủy dạy, rất dễ dàng tu tập không có khó
khăn, không có mệt nhọc.
Tu niệm Phật chỉ mới có tỉnh thức ở giai đoạn
đầu: biết ngày giờ chết, đó là một việc thường
trong Phật giáo Nguyên thủy, còn ba giai đoạn tỉnh
thức nữa mà kinh sách phát triển không biết. Người tu theo Phật giáo Nguyên
thủy là người tu
tập làm chủ sinh tử luân hồi, muốn chết hồi
nào là chết, muốn sống hồi nào là sống, quyền chết, sống trong bàn tay của họ, chứ đâu phải chỉ
có tu tập biết ngày
giờ chết là đủ.
Người tu Tịnh độ là tu theo tha lực cầu cúng,
chứ không biết cách thức tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Cho nên mới
có những bài sám kệ của những
nhà sư Tịnh độ dạy cầu khấn:
“Cầu cho tôi chết biết ngày,
Biết giờ, biết khắc, biết rày tánh linh.
Cầu cho bệnh khổ khỏi mình,
Lòng không trìu mến chuyện tình thế gian.
Cầu cho thần thức nhẹ nhàng,
Y
như thiền định họ Bàng thuở xưa”.
Đọc qua bài sám này thì chúng ta biết pháp
môn Tịnh độ là của Bà La Môn chứ không phải của Phật giáo. Vì Phật giáo là một tôn giáo tự lực cứu
mình chứ không cầu
khấn ai cả.
Lấy con
người làm chúa tể, tự con người phải cứu lấy con
người, chứ không có thần thánh, quỷ ma nào cứu
con người được. Cho nên đức Phật dạy: “Các con hãy tự thắp đuốc
lên mà đi, Ta chỉ là người
hướng đạo mà thôi”. Đó là điều xác định rõ ràng: Những gì trong kinh sách Tịnh độ dạy không phải
là Phật dạy, xin quý phật tử lưu ý để tự chọn lấy
con đường tu cho đúng.
✿✿✿
|
rả lời câu hỏi 2: Pháp môn niệm Phật trong cuốn sách “TÌM
HIỂU PHÁP MÔN
NIỆM PHẬT” của sư Hộ Pháp biên soạn thật công
phu, Ngài giải thích từng đức hạnh rất
rõ ràng, nên khi mới đọc cứ nghĩ tưởng rằng Ngài dạy niệm Phật là dạy sống đúng 9 đức
hạnh của Phật, nào ngờ không phải vậy. Khi đọc xong sách mới biết
Ngài chịu ảnh hưởng của
một nhà sư Miến Điện dạy niệm 108 âm trong 9 đức
hạnh
của Phật, chứ không phải sống 9 đức hạnh như Phật như lời Phật dạy
trong kinh Nguyên thủy.
Ngài dạy niệm công đức
Phật cũng giống như
các
tổ Đại thừa dạy niệm hồng danh Phật. Những phương pháp tu hành đó là những phương pháp ức
chế tâm khiến cho tâm hết vọng niệm. Nhưng khi
tâm không còn vọng niệm thì hành
giả rơi vào một trạng thái tưởng giống như người đang ở trong
giấc mộng. Nếu người tu niệm Phật với tâm tham
cầu được vãng sinh Cực Lạc thì thấy Phật Di Đà và Thánh chúng qua hình ảnh của các họa sĩ vẽ
trong kinh Vô Lượng Quang, kinh Di Đà, kinh Quy
Ngươn và kinh Tây Quy Trực Chỉ. Còn tu
theo các sư niệm 108 âm trong 9 công đức của
Phật thì khi không còn vọng niệm sẽ rơi vào xúc tưởng
hỷ lạc, và lần lượt xuất hiện các loại pháp
tưởng giống như thiền sư A-chan-cha của Thái Lan.
Tóm lại, những
pháp môn tu hành như vậy có
lợi ích gì cho bản thân mình và cho mọi người?
Vậy mà các Ngài
phải ra công tu tập quá vất vả, khổ sở.
Theo đạo Phật tu đâu là có kết quả ngay liền đó.
Tu ít có kết quả ít, tu nhiều có kết quả
nhiều. Do tu tập đức hạnh giới luật nên kết quả như
vậy. Phật dạy: “Pháp Ta không có thời gian,
đến để mà thấy...”.
Kết quả của Phật giáo là lòng yêu thương sự
sống
của muôn loài; là tâm bất động trước các ác
pháp và các cảm thọ; là tâm
thanh thản, an lạc và
vô sự.
HẾT
|
ĐỨC HIẾU SINH
Với kẻ sống hiếu sinh, Ngày nào cũng ngày tốt.
Với kẻ sống hiếu sinh, Ngày nào cũng ngày lành, Các nghiệp đều thanh tịnh, Luôn thành tựu hiếu sinh.
Này hỡi các tu sinh, Chỉ nên sống hiếu sinh, Khiến mọi loài chúng sinh Được sống trong an lành.
Nếu không hại chúng sinh, Không lấy của không cho, Không tà dâm, nói xấu, Không uống rượu say xỉn, Thì cần gì cầu cúng,
Thì cần gì niệm Phật, Thì cần gì thiền định, Thì cần gì tụng kinh.
|
|
. . .
|
MỤC LỤC
Lời tựa .........................................................................5
PHÁP TU CỦA PHẬT
từ Tứ Chánh Cần đến Tứ Niệm Xứ ............9
Lời nói đầu ................................................................11
Tứ chánh cần .............................................................18
Tứ niệm xứ ................................................................24
THỜI KHÓA TU TẬP
TRONG THỜI ĐỨC PHẬT ...............39
Lời nói đầu ................................................................41
Lời phật dạy: Người tu sĩ có 9
điều
cần tu tập hằng ngày .......................45
Phụ chú .....................................................................47
Vị tỳ kheo phải làm gì khi
thọ nhận
của cúng dường?
..........................56
Ước nguyện của tân tỳ kheo ...............................58
Ước nguyện của cựu tỳ kheo ..............................59
Ước nguyện trước khi thọ thực ...........................60
Ước nguyện sau
khi thọ thực ..............................62
Trau dồi TỨ VÔ LƯỢNG TÂM ............................65
Lời nói đầu ................................................................67
Thành phần và hành
tướng của tứ vô lượng tâm .......71
I- Từ Vô Lượng:
........................................................71
A) Trau dồi từ tâm nơi Thân hành ......................73
B) Trau dồi tâm từ nơi miệng (Khẩu hành)
........83
|
. . .
C) Trau dồi tâm từ nơi Ý hành ...........................86
II- Bi Vô Lượng: .......................................................89
III- Hỷ Vô Lượng:
.....................................................93
A) Hỷ vô
lượng dục lạc (Vui theo ngũ dục
lạc) . 93
B) Hỷ tâm vô lượng giải thoát ............................97
IV- Xả Vô Lượng:....................................................102
1) Tu tập
xả cái gì? ...........................................105
2) Cách thức tu tập
xả tâm ................................108
3) Nguyên nhân của chứng buồn ngủ
...............121
4) Nguyên nhân đưa đến hôn trầm ...................126
5) Cách đối trị hôn trầm ...................................127
Niệm Phật TỨ BẤT HOẠI TỊNH ........................135
Lời nói đầu ..............................................................137
Pháp môn niệm Phật tứ bất hoại tịnh ......................142
Niệm Phật ...............................................................144
Niệm Pháp ..............................................................154
Niệm Tăng ..............................................................157
Niệm Giới ...............................................................161
Tại sao ta phải niệm phật? ......................................166
Những câu hỏi của phật tử ......................................170
Tp Hồ Chí Minh ........................170
Trả lời những câu hỏi
..............................................173
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!