LINH HỒN LÀ DO ^
TƯỞNG TRI CỦA NGƯỜI CÒN SỐNG
Chúng tôi xin
trả lời câu hỏi thứ nhất trong bài bài "Tìm Hài Cốt Liệt Sĩ, Một Hành
Trình Đầy Bí Ẩn".
Câu hỏi đã xác định: «Tôi căn cứ để tin rằng đã gặp linh hôn em tôi, anh tôi và
chị tôi, cả linh hôn các cụ là người chứng kiến và chôn cất em tôi. Nhà ngoại cảm
đã nhận dạng được linh hôn, thậm chí còn nhận diện được linh hôn qua tấm ảnh,
đã được nghe tiếng nói của linh hôn. Như vậy linh hôn phải tôn tại dưới một dạng
vật chất nào đó, có hình thù, có khả năng phát ra tiếng nói. Đã là một dạng vật
chất thì vật lý học, hóa học, y học, sinh học, với những phương tiện quang học
và điện tử tinh vi, hẳn sẽ có ngày tìm ra. Các nhà khoa học Việt Nam có thể
đóng góp gì theo hướng đó?"
Câu hỏi này rất khó cho các nhà khoa học trả lời, vì linh hồn
không có dưới dạng vật chất lý học, hóa học, y học, sinh học, quang học, điện tử
tinh vi.
Cách đây 2545 năm có một người đã xác định rằng:
"Không Có Thế Giới Siêu Hình", người xác định điều đó không ai xa lạ
mà chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi Ngài tu chứng đạo xong đã dõng dạc tuyên
bố: "Ba mươi ba cõi Trời là tưởng tri chứ không
phải liễu tri." Lời tuyên bố này đã làm cho Lục Sư Ngoại Đạo trong
thời Đức Phật đầu đã lộn xuống đất.
Lời tuyên bố ấy có nghĩa là thế giới siêu hình không có, chỉ
là tưởng của con người tạo ra. Cho nên không có đời sống sau khi chết. Vì thế,
Ngài cho biết cơ thể của con người có năm phần:
1.
Phần thứ nhất
là Sắc Uẩn.
2.
Phần thứ hai
là Thọ Uẩn.
3.
Phần thứ ba là
Tưởng Uẩn.
4.
Phần thứ tư là
Hành Uẩn.
5. Phần thứ 5 là Thức Uẩn.
Khi một người chết thì năm uẩn này đều tan rã, hoại diệt
không còn lại một chút xíu uẩn nào cả. Nếu ai không tin những lời dạy này là
không tin Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Theo chúng tôi nghĩ trong đời này không có một vị Giáo Chủ
nào làm chủ Sinh, Già, Bệnh, Chết như Đức Phật. Tất cả các vị Giáo Chủ còn nằm
trong qui luật Nhân Quả, còn Đức Phật đã làm chủ Luật Nhân Quả.
Cho nên những lời Đức Phật dạy: "Thế Giới Siêu Hình
Không Có" thì chúng ta biết ngay "Linh Hồn Không Có."
Con người cứ dựa vào sự hoạt động của tưởng uẩn mà cho rằng Linh Hồn
con người là có thật.
Đó là sự hiểu biết mờ mịt của loài
người từ xưa đến nay
đều
hiểu như vậy.
Đừng đem khoa học ra để chứng minh những hiện tượng thế giới
tâm linh, các nhà khoa học đã lầm dù các ông có nghiên cứu cách gì thì cũng
loanh quanh xác định có Linh Hồn, chớ không bao giờ chứng minh được những hiện
tượng đó do đâu mà có, nên các ông cũng đành theo lối mòn mà con người từ xưa
đã truyền lại cho nhau từ đời này đến đời khác là có đời sống sau khi chết tức
là có Linh Hồn.
Theo cái nhìn của Phật giáo thì một con người là do
Năm Uẩn hợp lại mà thành ra. Nhưng muốn có Năm Uẩn hợp lại thì phải có Mười Hai
Nhân Duyên, nếu không có Mười Hai Nhân
Duyên thì không có Thân Ngũ Uẩn.
Và xa hơn nữa là vạn vật trên thế gian này trong vũ trụ đều hiện
hữu, sự
hiện
hữu có mặt của một vật đều do nhiều Mười Hai Nhân Duyên hợp lại. Cho nên một thế
giới có được thì phải có Mười Hai Nhân Duyên duyên kết hợp mới lâp thành. Một
thế giới không thể nào chỉ có một vât thể đơn điệu được. Vì thế Đức Phât gọi thế
giới của chúng ta đang sống là Thế Giới Duyên Hợp.
Ví dụ 1: Nhìn một cây dầu kia đang đứng bên vệ đường, nếu
không có đất, nước, gió, không có không khí và nhiệt độ nóng lạnh, ẩm ướt, nắng
mưa v.v... thì cây dầu kia có thể sống được không?
Ví dụ 2: Một con người sanh ra ở đời, nếu không có cỏ, cây,
thực phẩm để nuôi sống thì con người cũng không thể sanh ra được, nếu có sanh
ra được thì cũng không sống được. Nếu cỏ cây, con người và vạn vât không có mặt
hiện hữu trên hành tinh này thì làm sao gọi là hành tinh sống; thì làm sao gọi
là thế giới của muôn loài.
Nếu quả chăng
con người có sự sống sau khi chết, thì sự sống ấy như thế
nào?
Nếu có sự sống sau khi chết thì thế giới của người chết phải
có một môi trường sống và thực phẩm riêng cho thế giới của người chết, chứ đâu
cần gì chúng ta phải cúng những thực phẩm mà chúng ta đang nuôi cơ thể Ngũ Uẩn.
Thực phẩm đang nuôi cơ thể của chúng ta, đó là những thực phẩm chỉ nuôi sống
thân tứ đại. Thân tứ đại của con người là thân duyên hợp: Đất, Nước, Lửa, Gió.
Do thân bốn đại nên phải nuôi nó bằng thực phẩm bốn đại. Cho nên thực phẩm bốn
đại đâu phải là những thực phẩm để cho thế giới siêu hình nuôi linh hồn. Vì thế,
cúng lễ những thực phẩm hoặc đốt hương, vàng mã của thế giới hữu hình cho thế
giới vô hình là quý vị làm sai, làm theo trí tưởng tượng không thiết thực,
không cụ thể, thiếu khoa học. Quý vị cứ suy nghĩ có đúng không?
Quý vị đang
làm một việc nhảm nhí mê tín, lạc hâu v.v...
Nếu quả chăng có thế giới siêu hình thì những linh hồn đó
phải có một hình dáng khác hình thể con người và các loài động vât khác và nhất
là hình thể linh hồn phải có một hình thể cố định. Vì thế giới siêu hình là thế
giới thường hằng không thay đổi, không tan rã mất mát hoại diệt. Do những điều
kiện này thì không thể nào linh hồn lấy hình dáng của thân con người làm hình
dáng của mình được. Bởi hình dáng thân của con người vô thường, thường thay đổi,
không cố định. Quý vị cứ suy ngẫm có phải vây không?
Chỉ trong một đời người mà đã thay đổi nhiều lần: từ trẻ có
hình dáng khác, đến thanh niên có hình dáng khác và khi già có hình dáng khác,
huống là cách nhau từ kiếp này sang kiếp khác. Cho nên đời này mang hình dáng
này, đời sau mang hình dáng khác.
Xét như vây chúng ta thấy rất rõ linh hồn không thể có hình
dáng theo thân người và thân chúng sinh mà phải có một hình dáng khác. Còn ngược
lại thấy hình dáng linh hồn giống hình dáng thân người chết thì đó là ảo tưởng
của quý vị. Quý vị có biết không?
Cho nên thấy linh hồn giống như người đã chết là thấy
sai, không thât, thấy trong tưởng tri ảo giác.
Thế giới hữu hình của chúng ta do các duyên hợp thành, vì
do các duyên hợp lại mà thành nên phải chịu luật vô thường thay đổi liên tục,
Vì vậy một con người mới sanh ra cho đến 7, 8 chục năm sau thì không giống
nhau. Chúng ta hãy quan sát một con người từ hình dáng của một đứa bé mới sanh
so sánh với hình dáng của một ông cụ già 7, 8 mươi tuổi thì hai hình dáng này
không giống nhau, như vậy chứng tỏ sự vô thường là thật sự có, như trên chúng
tôi đã nói.
Như các bạn thường nghĩ và cho linh hồn là một vật thể
không thay đổi. Vì thế linh hồn là bất tử, nên thường đi tái sanh luân hồi từ
thân này, đến thân khác. Thân thì có trẻ, có già, có chết. Còn linh hồn thì
không già, không trẻ và không chết.
Như vậy cháu
Bích Hằng phải xem bức ảnh của cô Khang rồi mới nhận ra linh hồn của cô Khang
thì như vậy không đúng. Vì sao vậy?
Vì linh hồn của cô Khang bây giờ không còn là hình dáng của
cô Khang nữa, mà là hình dáng bất di bất dịch của linh hồn. Khi linh hồn ấy còn
mang thân xác của cô Khang thì hình dáng ấy là hình dáng xác thân của cô Khang,
chứ đâu phải là hình dáng linh hồn của cô Khang phải không thưa quý vị?
Khi cô Khang chết thì hình dáng của cô Khang cũng không
còn, thì như vậy linh hồn của cô Khang phải trở về với hình dáng nguyên thủy của
nó, thì làm sao linh hồn có hình dáng giống cô Khang được. Vì linh hồn là một vật
không thay đổi, như chúng tôi đã nói ở trên.
Cho nên nhà ngoại cảm Bích Hằng nhìn hình cô Khang rồi mới
nhận ra hình ảnh cô Khang, nhưng hình ảnh cô Khang để trên bàn thờ đâu phải là
hình ảnh cô Khang ở tù. Hình ảnh cô Khang ở tù chỉ còn bộ xương da.
Như vậy nhà ngoại cảm Bích Hằng đã dùng Tưởng Uẩn của mình
tạo ra hình ảnh cô Khang giống trên bàn thờ để tưởng cô hoạt động nói chuyện với
Linh Hồn cô Khang.
Cho nên khi
giáo sư Trần Phương hỏi cô Bích Hằng đều trả lời đúng không sai. Cô Bích hằng
trả lời bằng sự giao cảm Tưởng Uẩn.
Chính mọi người không hiểu chỗ này và nhà ngoại cảm Bích Hằng
cũng không biết nên xem như có Linh Hồn người chết nhập cô nói chuyện, cô chỉ
làm thông dịch trở lại mà thôi.
Chúng tôi cho một ví dụ Linh Hồn giống như nước không có
hình dáng gì cả, khi nước đem đổ vào các chai thì mỗi chai có hình dáng khác
nhau thì nước cũng có hình dáng khác nhau, nhưng nước không đem đổ vào các chai
nào hết thì nước phải trở về hình dáng gốc của nước. Vậy hình dáng nguyên gốc của
nước là gì?
Xin quý vị
vui lòng trả lời cho chúng tôi biết.
Nước có tính
chất chớ không có hình dáng, vì thế chúng ta sờ mó được
Còn Linh Hồn mà quý vị tưởng tượng đặt ra nên không có hình
dáng mà cũng không có tinh chất. Một vật không có hình dáng mà cũng không có
tính chất thì trên thế gian này không có vật đó. Và như vậy Linh Hồn con người
không có. Do Tưởng Tri của quý vị đặt ra khi thấy những hiện tượng của Tưởng Uẩn
mà ý thức của quý vị không giải thích được nên tưởng ra nói Linh Hồn. Cho nên Đức
Phật dạy: "Tưởng Tri chứ không phải Liễu Tri."
Xét ở góc độ này thì nhà ngoại cảm gọi hồn người chết về là
một năng lực trong thân ngũ uẩn của nhà ngoại cảm tạo ra linh hồn của người chết,
chứ không phải có linh hồn người chết thật, vì thế nhà ngoại cảm phải nhìn hình
ảnh người chết rồi mới tạo ra được hình ảnh người chết.
Do đó, chúng
ta suy ra, nếu có thế giới linh hồn của người chết thì những linh hồn ấy không
có hình dáng giống như chúng ta. Tại sao vậy?
Tại vì một linh hồn phải trải qua nhiều lần tái sanh luân hồi,
do đó mỗi lần tái sanh là mỗi lần có hình dáng khác nhau của thân xác, có nhiều
hình dáng khác nhau như vậy thì làm sao linh hồn người chết lại giống cơ thể
người chết được.
Tất cả những sự việc này lần lượt chúng tôi sẽ cố gắng vén
bức màn bí ẩn để quý vị không còn thấy nó là bí ẩn nữa.
Trạng thái ngoại cảm của nhà ngoại cảm đàn ông rất rõ nét,
vì anh Nhã làm việc ngoài ý thức của anh, có nghĩa là trong đầu anh nghe nói
tên (Nhương, Nhường, Nhượng) hoặc tự điều khiển anh viết hoặc vẽ bản đồ chứ
riêng anh không có chủ ý viết hoặc vẽ. Tự trong đầu anh có sự điều khiển trong
vô thức. ("Tôi thấy trong đâu tôi hiện ra như
thê' nào thì tôi vẽ như thê' ấy, tôi cũng chẳng hiểu nữa"). Đây là
lời của nhà ngoại cảm nói, khi được hỏi. Và anh còn nghe được những âm thanh
trong tai ("Tôi thấy trong tai tôi như có âm
thanh ấy").
Qua sự trình bày của nhà ngoại cảm, chúng tôi xin giải
thích để quý vị rõ. Do đâu, cái gì điều khiển trong đầu của nhà ngoại cảm, nên
anh mới vẽ được bản đồ của một vùng đất chưa bao giờ đi đến và vị trí địa thế
ngôi mộ cũng được xem là đúng ở cự ly rộng.
Điều chúng ta muốn biết ở đây là cái gì hoạt động trong đầu
nhà ngoại cảm? Chúng tôi xin trả lời ngay, đó là Tưởng Uẩn của nhà ngoại cảm nó
đang giao cảm và điều khiển anh vẽ bản đồ. Chúng ta đừng nghĩ rằng linh hồn cô
Khang về nhập nhà ngoại cảm, nên khiến anh vẽ bản đồ. Vì nhà ngoại cảm không có
cầu linh hồn cô Khang về nhập như nhà ngoại cảm Bích Hằng phải lâm râm cầu.
Trong bộ óc của con người có nhiều nhóm tế bào não, mỗi
nhóm tế bào não đều làm việc theo phận sự của nó.
Ví dụ: Một người đang thức và đang làm một việc gì đó, hay
đang tư duy suy nghĩ về một vấn đề gì, thì nhóm tế bào não thuộc về ý thức hoạt
động, làm việc, trường hợp đó cũng giống như chúng tôi đang tư duy, suy nghĩ để
viết sách và viết như thế nào để quý bạn dễ hiểu và hiểu một cách cụ thể hơn.
Chúng ta có
thể gọi nhóm tế bào não bộ này là Nhóm Tế Bào Não Bộ Ý
Thức.
Còn trường hợp chúng ta đang ngủ mà bị chiêm bao thì nhóm tế
bào não nào làm việc đây?
Chúng tôi xin giải thích, khi chúng ta đang ngủ thì toàn bộ
nhóm tế bào thuộc về ý thức chắc chắn phải ngưng hoạt động, ví dụ như lúc ngủ mắt
không thấy vât, tai không nghe âm thanh, ý không phân biệt v.v..., như vây rõ
ràng là nhóm tế bào ý thức chúng ta ngưng hoạt động. Vây cái gì hoạt động trong
giấc chiêm bao?
Xin thưa cùng quý vị, khi nhóm tế bào não bộ thuộc về ý thức
không hoạt động, thì Nhóm Tế Bào Thuộc Về Tưởng Thức hoạt
động, do nhóm tế bào não bộ tưởng thức này hoạt động nên người ta mới có chiêm
bao.
Còn trường hợp
của nhà ngoại cảm nam thì hai nhóm tế bào não trong óc anh nó kết hợp (câu hữu)
làm việc với nhau, và sự kết hợp làm việc này mới xảy ra với anh chứ trước kia
anh không có trạng thái này.
Ở đây chúng ta cần phải hiểu thêm về nhóm tế bào não bộ thuộc
về ý thức, khi nó hoạt động thì không vượt qua được không gian và thời gian, vì
thế khoảng cách vách và cách xa nữa như ngăn sông, cách núi, hoặc dưới lòng đất,
dưới đáy biển đại dương v.v... thì nó không thể thấy biết được. Về thời gian,
nó bị chia cắt làm ba thời gian: quá khứ, vị lai và hiện tại.
Quá khứ đã
qua nó không nhớ biết hết được, vị lai thì nó mờ mịt không rõ. Ngược lại nhóm tế
bào não bộ thuộc về Tưởng Thức, khi nó hoạt động thì nó vượt qua hàng rào không
gian và thời gian, nên thời gian và không gian không còn chia cắt và trải dài.
Vì thế nó bắt gặp hay nói cách khác là giao cảm với những gì đã xảy ra ở quá khứ
và vị lai.
Ở trường hợp này nhóm tế bào não Tưởng Thức của nhà ngoại cảm
nam thì quá rõ ràng, không có trạng thái đồng cốt như nhà ngoại cảm Bích Hằng,
nhưng nó hoạt động chưa chính xác 100%. Vì Tưởng Thức của anh tự nó hoạt động
chứ không phải do anh triển khai, điều khiển, nên mức độ hoạt động của nó chưa
hoàn chỉnh và chính xác.
Khi Tưởng thức hoạt động thì anh cảm thấy như mình không chủ
động, tự trong đầu nó điều khiển như thế nào thì anh làm theo như thế ấy, nhưng
ý thức của anh vẫn biết rõ ràng, thâm chí những âm thanh nói trong tai, anh vẫn
nghe và biết rõ. Xét trường hợp trong đầu anh làm việc hai phân sự:
1.
Làm việc bị hạn
cuộc trong không gian và thời gian, có nghĩa là không vượt ra khỏi thời gian,
vì vây thời gian bị chia cắt; không vượt qua không gian, nên không gian còn trải
dài.
2.
Làm việc không
bị hạn cuộc trong không gian và thời gian, có nghĩa là vượt qua không gian và
thời gian. Sự làm việc này gọi là làm việc trong vô thức.
Người tu theo đạo Phật khi nhập được Tứ Thánh Định thì người
ta hiểu biết rất rõ ràng. Trường hợp nhà ngoại cảm nam, ý thức của anh kết hợp
với tưởng thức của anh hoạt động hai mặt:
1. Hữu thức.
2. Vô thức.
Tóm lại trường hợp trong một bộ óc của anh làm việc hai phận
sự hữu hình và vô hình, hay nói cách khác cho dễ hiểu hơn là bộ óc anh có phần
làm việc bị hạn cuộc không gian và thời gian và có phần làm việc không bị hạn
cuộc không gian và thời gian, nhưng chưa chính xác 100%.
Cho nên sự bí
ẩn của anh không có gì bí ẩn, anh sử dụng được những tế bào não ý thức và những
tế bào não tưởng thức, khiến chúng hoạt động khi ý muốn anh khởi ra.
Tóm lại sự bí ẩn của nhà ngoại cảm nam thì không có gì là
bí ẩn cả, chỉ có bộ óc của anh làm việc được hai phần: phần ý thức và phần tưởng
thức. Đó cũng là điều đặc biệt của anh mà ít người có được.
Trường hợp cháu Bích Hằng thì không giống như trường hợp
nhà ngoại cảm nam, hiện tượng của nhà ngoại cảm Bích Hằng xảy ra giống như có một
linh hồn người chết nhập vào cháu như thật.
Khi trực tiếp chứng kiến năng lực của Tưởng Uẩn con người,
nhất là trường hợp của nhà ngoại cảm Bích Hằng, khiến cho mọi người không còn đứng
vững trên lập trường khoa học nữa, cho nên mới có nhiều câu hỏi:
"Như vậy
linh hôn phải tôn tại dưới một dạng vật chất nào đó, có hình thù, có khả năng
phát ra tiếng nói. Đã là một dạng vật chất thì vật lý học, hóa học, y học, sinh
học v.v... Với những phương tiên quang học và điên tử tinh vi, hẳn có ngày tìm
ra. Các nhà khoa học Việt Nam có thể đóng góp gì theo hướng đó?"
Còn lâu lắm các nhà khoa học Việt Nam mới có thể chứng minh
và giải thích những hiện tượng đó bằng hóa học, sinh học, y học, lý học v.v...
Còn bây giờ thì sao? Hay để cho nhân dân Việt Nam sống trong mê tín, phải chịu
tốn hao với một số tiền bạc vô nghĩa (đốt tiến vàng mã, cúng sao giải hạn, cầu
an, cầu siêu v.v...)
Khi đọc bài "Tìm Hài Cốt Liệt Sĩ, Một Hành
Trình Đầy Bí Ẩn" chúng tôi thấy, nếu bài này được phổ biến sâu rộng trong
khắp nước mà các nhà khoa học Việt Nam không có tiếng nói thì chắc chắn nạn mê
tín, dị đoan sẽ lan rộng khắp nơi. Và sẽ có một số người lợi dụng trường hợp
này mà gây tạo ra nhiều loại mê tín khác nữa để lừa đảo người làm tiền một cách
phi pháp luật.
Chúng tôi đọc
bài tâm nguyện của một cư sĩ M.N.C.S ở Long Hải nói rằng: «Những nhà ngoại cảm này thường khoe khoang, Nhà nước
đang tìm kiếm những người tài như họ để trưng dụng vê việc quốc phòng."
Lời nói này chúng tôi e rằng những hạng người ngoại cảm này
chỉ "xạo". Từ xưa đến giờ có nhà ngoại cảm nào làm việc quốc phòng. Lợi
dụng trạng thái tưởng thức không có không gian và thời gian, giao cảm mọi sự việc
xảy ra tạo dựng thế giới siêu hình để tự lừa đảo chính mình và mọi người, chứ từ
xưa đến nay chưa có lịch sử nước nào ghi công lao diệt giặc của những người làm
đồng, làm cốt và những nhà ngoại cảm.
Không bao giờ có những người lên đồng, nhập cốt và ngoại cảm
mà ngăn giặc, đuổi giặc, giữ nước, dựng nước, bắt những kẻ trộm cướp giết người,
hiếp dâm, giữ gìn trật tự, an ninh cho quê hương, xứ sở. Đó là một việc làm
Không Tưởng của quý vị. Nếu các nhà ngoại cảm làm được việc này thì các ông Lạt
Ma Tây Tạng làm gì bỏ nước trốn qua Mỹ khi Trung Quốc sang đánh chiếm Tây Tạng.
Như vậy đủ biết thần thông tưởng hay ngoại cảm chỉ là một việc làm lợi ích nhỏ
như "tìm hài cốt liệt sĩ" chớ không thể làm về việc quốc phòng.
Vì biết rằng các nhà khoa học không thể chứng minh được những
hiện tượng hoạt động của Tưởng Thức, nên trong các tôn giáo người ta cố ý tu tập
để triển khai Tưởng Thức hoạt động ngõ hầu lấy đó tạo dựng thế giới siêu hình
và thần thông để lừa đảo mọi người.
Vì không nhận ra những hiện tượng đó nên mọi người tin tưởng
gia nhập vào tôn giáo, nuôi hy vọng khi chết đi sẽ được sanh về nơi đó (Cực Lạc,
Thiên Đàng), hay có những thần thông pháp thuật.
Do phong thổ, thời tiết, thức ăn nước uống tại địa phương,
hoặc do tai nạn xảy ra gây ảnh hưởng não bộ, hoặc sự phát triển hoạt động của
não bộ không đồng đều, khiến cho Tưởng Thức hoạt động nhiều hơn ý thức (trường
hợp cháu B.H), hoặc ý thức và tưởng thức cùng hoạt động (trường hợp như anh N).
Vì thế biến họ từ một con người bình thường trở thành các
nhà ngoại cảm. Một con người có khả năng đặc biệt là nhờ vào tưởng thức hoạt động
nên hơn những người khác, chớ có gì gọi là tâm linh. Cho nên người ta gọi tâm
linh là vì người ta không biết tưởng thức hoạt động.
Chúng ta
không hiểu được năng lực của tưởng thức khi nó hoạt động không giống như ý thức
chút nào cả:
1- Nó hoạt động rất đặc biệt tại một điểm, nên không có không gian và thời
gian, khoa học không thể chứng minh được.
2- Nó giao cảm được mọi âm thanh sắc tướng, vì các từ
trường của nó. Các
nhà khoa học có thể chứng minh được.
3-
Nó biến hiện
ra muôn hình sắc tướng của những người đã chết không sai một nét nào cả. Đó là
Năng Lực Duyên Hợp Của Tưởng Thức. Các nhà khoa học không thể chứng minh được,
vì nó không phải là vật lý học, hóa học, y học, sinh học v.v...
4- Nó tạo ra một người thứ hai đang tiếp chuyện với ý
thức của nó. Đó là năng lực hợp duyên của tưởng thức, khoa học không thể chứng
minh được.
5- Vì không có không gian, nên nó nhìn suốt trong lòng
đất thấy mọi vât và bất cứ địa phương nào ở nơi đâu, cách xa bao nhiêu nó cũng
biết được. Khoa học có thể chứng minh được vì đó là từ trường của tưởng thức.
6- Vì không có thời gian nên bất cứ chuyện gì đã xảy
ra hoặc sắp xảy ra bao lâu nó cũng biết được. Và biết một cách rất cụ thể. Đó
là từ trường của tưởng thức giao cảm và bắt gặp những hành động, hình ảnh và âm
thanh của mọi sự việc đã xảy ra còn lưu lại trong môi trường sống, khoa học có
thể chứng minh được. Cũng như những sự việc sắp xảy ra trong môi trường sống
nhân quả của mỗi con người trong tương lai nó đều bắt gặp và giao cảm được cả,
khoa học không có thể chứng minh được.
Hiện giờ mọi người hy vọng vào các nhà khoa học Việt Nam,
quang học và điện tử tinh vi để giải đáp: "Linh hồn có hay không?",
nhưng mọi người còn phải chờ đợi lâu lắm, có lẽ mọi người sẽ chết mất mà những
câu hỏi này chưa được giải đáp.
Là một nhà tu tâp thiền định theo Phât giáo, tự bản thân
chúng tôi đã trực tiếp truy tìm thế giới siêu hình để thấy, nghe, hiểu biết,
thì chúng tôi biết nó từ đâu xuất hiện những hiện tượng đó. Vì thế chúng tôi
xác định quả quyết: "Thế giới siêu hình không có,
chỉ là năng lực Tưởng Thức của moi con người còn đang sông tạo ra, chứ người chết
rôi thì không còn lưu lại một vật gì cả." Xưa thái tử Sĩ Đạt Ta khi
tu thành Phât, Ngài cũng xác định: "Thế Giới Siêu
Hình Là Thế Giới Của Tưởng Tri."
Câu hỏi
thứ hai của mọi người nêu lên
tình cảm vui, buồn, quan tâm, ước muốn, giân dữ, tranh cãi của linh hồn để rồi
nêu lên câu hỏi:
"Có một
thê' giới linh hôn ngoài thê' giới con người đang sõng không? Thê giới linh hôn
hoạt động như thê nào? Có khả năng tác động gì vào thê giới của con người đang
sõng? Để đáp ứng mong muõn của linh hôn người thân, người sõng dâng đô cúng lễ,
tiên bạc, đô dùng hằng ngày (dưới dạng vàng mã) là đúng hay nhảm nhí? Linh hôn
có tiêu vong đi không, hay là tôn tại mãi mãi?"
Để trả lời những
câu hỏi này:
1- Ngoài hai trạng thái hình và bóng của cuộc sông con
người hiện hữu trên hành tinh này thì không còn có thế giới linh hôn nào khác nữa.
Thế giới linh hồn mà người ta cảm nhân được là do năng lực
của Tưởng Thức trong mỗi người giao cảm với những từ trường bên ngoài do những
người đã chết (đuọc lưu giữ từ khi còn sống) và những người đang sống phóng xuất
mà tạo ra.
Năng lực ấy (Năng Lực Ngoại Cảm) được phát triển là
do tu tâp các loại thiền định tưởng hoặc bị tai nạn hay bị một cú "sốc"
gì đó trong cuộc đời, khiến
cho phần nhóm tế bào não tưởng
thức hoạt động, đó là trường hợp của các nhà
ngoại cảm Bích Hằng (bị chó điên
cắn), chớ không có tâm linh gì cả.
Tất cả đều do
Tưởng Thức của con người còn đang sống tạo ra, nên sự sinh hoạt của nó cũng
mang đầy tính chất của con người: tình cảm vui, buồn, quan tâm, ước muốn, giận
dữ, tranh cãi v.v...
Nếu quả chăng có thế giới linh hồn của con người thì phải
có sự sinh hoạt khác hơn con người, từ thực phẩm ăn uống, đến tình cảm, truyền
thông, diễn đạt v.v... đều phải khác nhau.
3- Nếu có khả năng tác động vào con người thì có hai
góc độ:
a- Gia hộ con người,
giúp cho con người tiêu tai, thoát nạn, bệnh tật tiêu trừ. Đó là phá vỡ quy luật
nhân quả làm cho cuộc sống thế gian này mất sự
công
bằng, loài người sẽ trở thành hung ác
b- Hủy diệt loài người để cho thế giới linh hồn tăng trưởng.
Đúng vậy, nếu có thế giới linh hồn thì phải diệt thế giới con người để thế giới
linh hồn đông và lớn mạnh.
Vì thế trong hai điều kiện trên đây đều phi đạo đức và phi
nhân quả cả. Vì thế nên thế giới linh hồn không được loài người chấp nhận. Nếu
loài người chấp nhận nó có là tự loài người làm khổ loài người. Cho nên thế giới
linh hồn không bao giờ có.
Những hiện tượng
mà chúng ta cảm nhận và thấy thế giới linh hồn. Đó là do năng lực Tưởng Thức của
người còn sống tạo ra, nó có hai trường hợp:
1.
Không tin
nó là thế giới linh hồn của người chết, mà biết sử dụng năng lực tưởng thức đó
áp dụng vào cuộc sống hiện hữu của con người thì rất có lợi ích như việc tìm
hài cốt liệt sĩ, báo động trước những tai nạn sẽ xảy ra v.v...
2.
Nếu tin nó
là thế giới linh hồn của con người, thì đó là một tai họa rất lớn, gây cho
chúng ta bệnh tật và tai nạn "tiền mất tật mang". Nếu tin nó thì đời
sống của chúng ta hoàn toàn bị lệ thuộc, mất tự chủ, sống thiếu đạo đức. Nếu có
xảy ra điều gì thì cầu cúng van xin làm hao tiền tốn của và công sức.
Vì thế giới
linh hồn không có, nên người thân của chúng ta chết là mất hết chỉ còn nghiệp lực
tiếp tục tương ưng tái sanh luân hồi nên sự cúng lễ, tiền bạc, đồ dùng hằng
ngày (dưới dạng vàng mã) hay tụng kinh cầu siêu v.v... thì có ích lợi gì. Điều
chắc chắn là linh hồn không có mà đã không có thì những việc như trên là nhảm
nhí.
Vì linh hồn
không có thì làm gì có linh hồn tiêu vong hay tồn tại mãi mãi.
Ở đây chúng tôi không suy luận để tranh cãi mà là sự chứng
nghiệm của bản thân chúng tôi. Nhập vào trạng thái Tưởng Thức thì chúng tôi bắt
gặp thế giới linh hồn của con người qua năng lực Tưởng Thức của chúng tôi tạo
ra, chứ không phải thế giới linh hồn của con người có sẵn. Vì thế chúng tôi biết
rất rõ ràng.
Hầu hết mọi người đều có khả năng nhìn thấy linh hồn, nghe
thấy tiếng nói của linh hồn, nhìn thấy hài cốt lấp vùi dưới lớp đất dày mấy mét
v.v... không riêng gì cháu Bích Hằng, nhưng chỉ vì mọi người chưa được triển
khai Tưởng Thức đúng mức hoạt động nên không thấy, không nghe được như cháu
Bích Hằng mà thôi.
Khả năng đặc biệt ấy do một nhóm tế bào não bộ của Tưởng Thức.
Nếu các nhà y học và khoa học chịu khó nghiên cứu bộ não của con người thì sẽ
khám phá ra rất dễ dàng.
4-
Do sự
không hiểu biết, mọi người cho rằng: những thông tin bí ẩn của anh Nhã, anh
Liên, cháu Bích Hằng là những khả năng đặc biệt càng khó khám phá.
Sự thật không phải vậy. Bởi vì thế giới siêu hình không có,
tức là không có linh hồn người chết, không có linh hồn thì làm sao có chất liệu
quang học, y học, vật lý học mà khám phá. Nếu rời khỏi bộ óc con người mà khám
phá thì chẳng bao giờ khám phá ra được thế giới linh hồn.
Cho nên, các
nhà y học và khoa học hãy khám phá nơi bộ óc của những nhà ngoại cảm đang hoạt
động thì có thể sẽ khám phá ra những từ trường của những tế bào não Tưởng Thúc
phóng ra giao cảm với những từ trường còn lưu giữ trong không gian, những từ
trường hình ảnh, âm thanh, sắc tướng, những hành động và tình cảm của mỗi con
người trước khi chết đều còn lưu lại trong không gian.
Điều đó y học và khoa học có thể khám phá ra được. Nhưng có
những điều mà khoa học và y học không thể khám phá ra được, đó là năng lực của
Tưởng Thức, năng lực đó có thể biến tạo ra hàng vạn vạn triệu triệu linh hồn
con người chết và mỗi linh hồn người chết, từ hành động cử chỉ, lời ăn, tiếng
nói đến đặc tướng, cung cách không sai khác như người đó lúc còn sống. Nhất là
những linh hồn do Tưởng thức của nhà ngoại cảm biến hiện ra, lại nói chuyện với
nhà ngoại cảm, nhà ngoại cảm hiện giờ như người trung gian nói lại cho chúng ta
nghe những sự việc xảy ra mà chỉ có những người thân trong gia đình mới biết.
Chúng tôi xin nêu lên một ví dụ để quý vị dễ hiểu hơn.
Trong giấc mộng chúng ta gặp lại ông, bà, cha, mẹ đã chết
cách 10 năm hoặc 20 năm, cùng lúc trong đó chúng ta cũng gặp lại những người
còn sống như anh, chị, em, cô, bác và bà con hàng xóm. Chúng ta đừng hiểu nông
cạn là những linh hồn người còn sống cùng với những linh hồn người chết về gặp
chúng ta trong giấc mộng. Nếu quả chăng những người còn sống xuất hồn gặp chúng
ta thì những người ấy cũng phải nằm mộng như chúng ta. Nhưng sự thật những người
ấy không có nằm mộng. Như vậy những người gặp chúng ta trong giấc mộng là gì?
Đó là do năng
lực Tưởng Thức của chúng ta biến hiện ra, nó có thể biến hiện một số lượng người
và xe cộ đông đúc như chợ Bến Thành, nó có thể biến hiện ra một thủ đô lớn như
thủ đô Hà Nội v.v...
Xét qua giấc mộng thì biết ngay năng lực Tưởng Thức trong
giấc mộng chỉ bằng một phần trăm của Tưởng Thức cháu Bích Hằng khi tìm hài cốt
liệt sĩ, và khả năng Tưởng Thức còn gấp trăm triệu lần khả năng Tưởng Thức của
cháu Bích Hằng hiện giờ, khi nó có thể làm những việc còn siêu việt hơn. Cho
nên những nhà khí công, nhà nhân điện đều dùng khả năng của tưởng thức trị bệnh.
Mọi người với hy vọng: «Trung tâm nghiên cứu tiêm năng con người, xác nhận được sự
tôn tại của linh hôn thì không những có ý nghĩa nhân văn mà còn có ý nghĩa vê
nhiêu mặt khác, kể cả vê hình sự (nêu người bị giêt mà nói ra thì kẻ giêt người
tránh sao khỏi tội?), không những có ý nghĩa quõc gia, mà còn có ý nghĩa quõc tế."
Sự hy vọng của mọi người không thể thành đạt được, là vì
linh hồn không có, chỉ có năng lực Tưởng Thức tạo ra mà thôi.
Vì thế, thiền xuất hồn là một phương tiện tu tâp khai triển
năng lực của Tưởng Thức. Khí công là một môn võ học tâp luyện để triển khai
năng lực Tưởng Thức, Mât Tông cũng là một pháp môn triển khai sự mầu nhiệm của
năng lực Tưởng Thức, Nhân điện cũng là một phương pháp triển khai năng lực Tưởng
Thức để trị bệnh, Tịnh Độ Tông triển khai năng lực Tưởng Thức tạo ra thế giới
siêu hình Cực Lạc Tây Phương ảo tưởng, Thiền Tông là một pháp môn tu tâp triển
khai năng lực Tưởng Giải tạo ra ảo giác, Chân không, Phât tánh v.v...
Cho nên từ trong các tôn giáo cho đến những người có kiến
thức khoa học chưa thấu suốt nền đạo đức nhân bản - nhân quả, nên tin rằng có
thế giới linh hồn người chết, đó là một điều mê tín, lạc hâu mà trong thời đại
này không thể chấp nhân và tha thứ được.
Vì sự thật hiển nhiên là không có thế giới linh hôn người
chết, mà chỉ có sự biến hiện do năng lực Tưởng Thức của con người còn sông tạo
ra. Vì thế Trung Tâm
Nghiên Cứu Tiềm Năng Con Người có ra đời cũng chỉ loanh quanh nghiên cứu trong
đống sách cũ của những người xưa, toàn là sách tưởng do những nhà tưởng học để
lại. Nếu có nghiên cứu xa hơn thì cũng dựa vào những nhà nhân điện tưởng, khí
công tưởng, xuất hồn tưởng, võ công tưởng, thiền tưởng, định tưởng, thần chú tưởng,
ngoại cảm tưởng v.v.... Thì cũng không thể nào giải quyết được những gì mà mọi
người mong đợi.
Còn nếu đem những nhà ngoại cảm áp dụng vào hình sự
thì chúng tôi e rằng không chính xác, vì các nhà ngoại cảm không phải tự mình
điều khiển cái năng lực đó, mà chính năng lực tự động của tưởng thức đó điều
khiển các nhà ngoại cảm, nên có khi chính xác và có khi không chính xác, có
nghĩa là Tưởng Thức của họ, lúc làm việc, lúc không làm việc. Cũng giống như
trường hợp nhà ngoại cảm nam (Anh Nhã), lúc nó làm việc thì chính xác, lúc nó
không làm việc thì anh mò mẫm như người mù dò đường.
Cho nên đem những hình bóng biến hiện linh hồn người chết của
Tưởng Thức vào việc lấy hài cốt liệt sĩ thì tốt nhất, còn về việc hình sự và quốc
phòng thì cũng chẳng khác nào đem sự mê tín vào những vấn đề quan trọng của đất
nước, thì chúng tôi e rằng không có lợi mà có hại nhiều hơn. Vì sự quốc phòng
là do đạo đức nhân bản - nhân quả của toàn dân trong nước đó thịnh trị, hay chiến
tranh đều do hành động ác thiện của họ. Cho nên các nhà ngoại cảm không thể
tham gia vào chiến cuộc được, nếu có tham gia mà đoán sai thì bao nhiêu quân
lính sẽ bị giặc tiêu diệt.
Bởi vì các nhà ngoại cảm không điều khiển được Tưởng Thức của
mình mà bị Tưởng Thức của mình điều khiển lại mình.
Tóm lại bài viết này, vì lợi ích cho mọi người trên hành
tinh này, chúng tôi nói lên sự thật, sự thật 100%. Chúng tôi nói lên không cần
quý vị tin, mà chỉ cần đem lại sự lợi ích cho quý vị, để quý vị trở thành những
người không mê mờ, mù quáng, mê tín v.v... để quý vị không dễ tin vào bất cứ một
việc gì, nhờ đó quý vị không bị kẻ khác lợi dụng Tưởng Thức lừa đảo.
Tưởng Thức
như con dao hai lưỡi, nếu quý vị biết dùng nó thì nó làm lợi ích cho quý vị,
còn quý vị không biết dùng nó, thì nó trở lại làm khổ và làm hại quý vị.
Sự thật là sự thật, không thể nói khác được, chúng tôi nêu
lên một sự thật, thời gian và sự tiến bộ của loài người sẽ xác chứng những điều
này, những điều chúng tôi đã nói ngày hôm nay "Thế Giới Linh Hồn Là Do Tưởng
Tri, Chứ Không Phải Liễu Tri" mong quý vị suy ngẫm, vì nền đạo đức nhân bản
- nhân quả mà loài người cần phải thực hiện để không làm khổ mình khổ người và
tất cả chúng sinh.
Nếu quý vị
tin có linh hồn người chết thì nền đạo đức sẽ mai một và loài người sẽ đánh mất
một vật quý giá vô cùng.
CHÚNG TA SẼ
LÀM GÌ,
KHI BIẾT LINH
HỒN KHÔNG CÓ?
Khi biết linh
hồn không có thì những tục lệ thờ cúng từ xưa đến nay sẽ phải làm như thế nào để
đúng với phong tục thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ v.v... mà không trở thành
mê tín, dị đoan, lạc hậu.
Đạo thờ cúng tổ tiên, ông bà là một đạo đức của dân tộc Việt
Nam. Một đạo đức ân nghĩa sâu dày luôn tỏ lòng biết ơn "Ăn quả nhớ kẻ trông cây, uông nước nhớ nguôn."
Thế mà từ lâu chỉ vì ông bà chúng ta từ xa xưa đã lầm
lạc tưởng là có sự sống sau khi chết. Cho nên mới có sự cúng tế cầu an, cầu
siêu, mới có làm tuần, làm tự, mới có mở cửa mả, đốt tiền vàng mã, kho đụn, quần
áo bằng giấy cho người chết. Và vì thế, ngày tư ngày tết mới có đưa ông táo, rước
ông bà v.v...
Cho nên đạo thờ cúng tổ tiên, ông bà để tỏ lòng biết ơn đã
biến trở thành đạo thờ cúng mê tín, dị đoan.
Khi thờ cúng mê tín dị đoan như vậy trong tinh thần của mọi
người đều dựng lên một thế giới có linh hồn người chết. Vì thế, đến ngày giỗ,
ngày Tết, ngày lễ thì làm mâm cao, cỗ đầy để cúng tế những linh hồn người chết
mà họ tin tưởng rằng những linh hồn người chết này sẽ về thọ hưởng những thực
phẩm của chúng ta dâng cúng.
Nếu quả chăng
có Linh Hồn người chết mà một năm chỉ có cúng một, hai ngày thì những ngày khác
Linh Hồn sẽ chết đói mất. Quý vị cứ suy ngẫm có đúng không?
Đó là một việc làm mà người xưa thiếu cân nhắc suy tư. Chỉ
biết tin theo "xưa bày nay làm"
không cần phải đắn đo suy nghĩ thiệt hơn, đúng hay sai. Nên người xưa mù quáng
đã trở thành những người mê tín, lạc hậu rồi truyền thừa những điều mê tín này
cho con cháu nhiều thế hệ mai sau. Đến ngày nay là một thời đại văn minh khoa học,
thế mà tục lệ mê tín này vẫn còn tồn tại không bỏ được.
Con người thời
đại này mà thiếu sáng suốt, sống trong điên đảo tưởng, điên đảo tình cảm, mê
tín, lạc hậu v.v... thì sao được gọi là con người văn minh khoa học hiện đại
hóa.
Người xưa đâu phải là thần thánh cái gì cũng biết, cái gì
cũng làm đúng. Cho nên đâu phải những gì của người xưa làm là đều đúng hết sao?
Không có Linh Hồn mà bảo có Linh Hồn nên mới bày ra cúng kiếng.
Nếu linh hồn thật sự ăn uống thì những linh hồn ông bà cha mẹ của chúng ta đã chết
đói từ lâu, vì mỗi năm con cháu chỉ cúng bái tế lễ có một hoặc hai lần trong
năm thì còn những ngày khác linh hồn lấy cái gì mà ăn. Quý phật tử cứ suy ngẫm
có đúng không?
Mà nếu linh hồn
có ăn thật thì liệu chúng ta có làm nuôi những linh hồn này nổi không. Khi họ
ăn không ngồi rồi mà còn rủ rê các linh hồn khác nữa.
Bởi có những
phong tục tập quán lạc hậu và mê tín mà mọi người không chịu bỏ nên đành phải tốn
hao một số tiền rất lớn về việc ma chay, tuần tự, cầu siêu, cầu an, đốt giấy tiền
vàng mã một cách nhảm nhí, vô ích.
Như quý vị đều
biết con người cũng là một loài động vật như bao nhiêu loài động vật khác,
nhưng con người là một loài động vật cao cấp nên sự hiểu biết phát triển của
con người lần lần tách ra khỏi loài động vật. Nhờ tách ra khỏi loài động vật
nên con người không còn sống đời sống hoang dã như các loài động vật khác.
Sự tiến hóa từ cơ thể đến tinh thần của con người
hôm nay chúng ta thấy rõ rệt. Con người có nhiều tiến bộ về mọi mặt. Chúng ta cứ
thử đem so sánh người xưa với người nay từ cách thức ăn uống, cho đến cách thức
ăn mặc và cuối cùng là ngôn ngữ. Loài người đã sử dụng một cách tiến bộ mà
không có một loài thú vật nào trên hành tinh này sánh kịp.
Từ chỗ mê mờ chúng ta hiểu sai lầm con người có Linh Hồn,
bây giờ chúng ta lại hiểu biết Linh Hồn không có. Cho nên cách thức lễ bái cúng
kiếng là để tượng trưng lòng biết ơn sâu xa của chúng ta đối với những người đã
khuất chứ không phải cúng cho linh hồn những thực phẩm về ăn uống. Sự cúng bái
là để tỏ lòng biết ân; là để kỷ niệm nhớ lại ngày mất mát to lớn trong kiếp làm
người của chúng ta.
Cho nên chúng ta chọn lấy ngày mất mát đó làm một ngày kỷ
niệm để con cháu đoàn tụ và cũng để nhắc nhở cho con cháu nhớ đến công ơn tổ
tiên, ông bà, cha mẹ đã dày công để lại cho con cháu một sự sống có ý nghĩa.
Đứng trước những phong tục tâp quán mê tín, dị đoan, lạc
hâu chúng ta phải mạnh mẽ gạt bỏ đừng sợ những dư luân theo lối mòn của người
xưa lên án như thế này, như thế khác. Đó là những người quá thủ cựu nhằm để bảo
vệ những phong tục văn hóa hủ lâu, mê tín, lạc hâu.
Mục đích của chúng ta là gạt bỏ những phong tục mù quáng,
mê tín, lạc hâu là vì những văn hóa mê tín, lạc hâu đó thường làm hao tiền, tốn
công, tốn của mọi người mà chẳng có ích lợi gì thiết thực.
Chúng ta gạt bỏ những phong tục văn hóa mê tín, lạc hâu nhằm
để xây lại một nền văn hóa có ý nghĩa đạo đức làm người. Vì làm người luôn luôn
phải giữ gìn ơn nghĩa trọn vẹn của nền đạo đức dân tộc Việt Nam "ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uông nước nhớ nguồn",
mà không bị ảnh hưởng mê tín, lạc hâu v.v... của nước khác.
Trong cơ thể con người có năm uẩn, nhưng mỗi uẩn phải làm
việc theo nhiệm vụ của nó. Nếu một con người bình thường thì có ba uẩn làm việc
gồm như sau:
1- Sắc uẩn.
2- Hành uẩn
3- Thọ uẩn.
Ba uẩn này hoạt động thì con người không có gì mầu nhiệm,
nhưng khi có Tưởng Uẩn hoạt động với ba uẩn kia thì con người có nhiều điều mầu
nhiệm mà trí thức con người không thể giải thích được, dù khoa học hiện đại
cũng không làm sáng tỏ. Khi người ta không giải thích được những hiện tượng kỳ
lạ của thân tâm con người thì người ta thường gọi là thiêng liêng hay là tâm
linh.
Khi Tưởng Uẩn hoạt động nơi hai bàn tay thì chúng ta gọi là
Sự Mầu Nhiệm Của Những Bàn Tay. Thường Tưởng Uẩn hoạt động theo sáu căn của con
người, có khi đồng thời nó hoạt động cả hai căn, có khi nó chỉ có một căn, khi
nó hoạt động vào đôi bàn tay thì nó sờ vào thân chỗ nào có bệnh là bệnh giảm bớt
và lành hẳn. Chúng ta hãy đọc những câu chuyện sau đây thì sẽ rõ.
|
Sự MẦU NHIÊM
CỦA Những bàN tay
Mùa thu năm 1989 tại Athen, thủ đô Hy Lạp, đã tiến hành Hội
nghị Quốc tế về những phương pháp trị bệnh ngoài tiêu chuẩn. Tại hội nghị này
người ta trao đổi và tặng cho cô Djouna Davitasivili huy chương vàng của Viện
Hàn Lâm Ngoại giao Liên hợp quốc, và huy chương "Tiến sỹ y học".
Vậy cô Djouna là ai và có gì đặc biệt để xứng đáng được hưởng
những phần thưởng cao quý này?
Cô Djouna sinh ra và lớn lên ở Cuban (Liên Xô cũ), hồi nhỏ
cô đã cảm thấy có khả năng kỳ lạ mà người khác không có. Cô có khả năng trị các
bệnh (cho bạn bè và người thân) như cục bướu, mụn cơm, hay cầm máu cho những vết
thương nhẹ.
Ở thôn quê, nơi cô sinh sống, những bệnh lặt vặt đều được
chữa trị bằng đôi tay của Djouna. Dù thời đó, người ta sẵn sàng kết luận là ma
quỷ đồng bóng, nhưng mọi người không cho cô bé Djouna là phù thủy, vì trên thực
tế cô chữa hết bệnh bằng tay không.
Và với đôi bàn tay nhiệm mầu này, Djouna đã cứu cha mình khỏi
tử thần vì ông lên cơn động kinh lớn do chấn thương sọ não. Cô chỉ vuốt lên đầu
người cha khi ông ngất đi, và ông đã khỏi.
Lớn lên Djouna vào đại học y khoa. Cái kiến thức y học giúp
cô chữa trị tốt hơn. Với đôi tay mầu nhiệm, Djouna có thể chuẩn đoán bệnh mà
không cần thiết bị dụng cụ y tế. Djouna đã đạt đến điểm cốt yếu: "Tất cả
những gì đang sống đều phải có một môi trường sinh vật học."
Song nó tượng
trưng cho cái gì?
Điều đó còn
huyền bí.
Khi người ta
không hiểu tại sao đôi bàn tay trị bệnh mầu nhiệm của Djouna như thế nào nên
dùng những danh từ mù mờ để che lấp những gì khoa học và tri thức của con người
chưa biết "Tất cả những gì đang sông đêu phải
có một môi trường sinh vật học."
Những danh từ môi trường sinh vật học người ta không thể
hình dung được sự sống trong vũ trụ, nhưng khi nói đến sự sống trong vũ trụ do
một vòng tròn 12 nhân duyên, hễ duyên này có thì duyên kia có và khi hợp đủ 12
duyên thì thế giới đau khổ hiện bày. Nếu 12 duyên này bắt đầu diệt một duyên
thì các duyên kia đồng thời diệt theo và như vậy thế giới khổ đau sẽ bị diệt.
Cho nên nói môi trường sinh vật học là những danh từ khoa học. Vậy đôi tay của
Djouna là môi trường sinh học gì?
Khi người ta không trả lời được thì bảo rằng đó là
Tâm Linh. Vậy tâm linh là cái gì? Có phải chăng Tâm Linh là những gì mà con người
không thể giải thích được phải không?
Đúng vậy khi những gì không giải thích được thì chỉ còn biết
dùng những từ Tâm Linh để tránh né sự ngu dốt, sự không hiểu biết của mình.
Con người rất kỳ lạ, cái gì không hiểu, không giải thích được
thì phủ nhận hoặc cho đó là Tâm Linh chứ không chịu khó tìm hiểu những điều Kỳ
Lạ đó là do cái gì làm ra.
Theo chúng tôi nghĩ trên đời này không có cái gì Kỳ Lạ và
cũng không có cái gì Mầu Nhiệm. Những kỳ lạ và mầu nhiệm là vì chúng ta chưa hiểu
biết mà thôi. Có rất nhiều chuyện về đôi tay, vậy chúng ta hãy đọc tiếp "Sự
Mầu Nhiệm Của Đôi Bàn Tay."
Vài nhà bác học và hầu hết những người không tin những điều
kỳ lạ này đều phủ nhận. Nhưng đối với Djouna tuy không giải thích được nhưng nó
vẫn nó tồn tại.
Đối với mọi người dù tin hay không tin nhưng đôi bàn tay trị
bệnh của Djouna trị bệnh thì nó vẫn trị được bệnh.
Với bàn tay mình, Djouna điều trị được một số bệnh với chứng
thực khoa học. Cô đã giúp các bác sĩ xác định đúng căn bệnh, phương pháp trị liệu
tốt hơn. Năm 1988, tại Matxcơva đã xuất hiện cuốn sách "Tôi nghe bàn tay
mình" của Djouna (Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật Hà Nội dịch và xuất bản
năm 1995). Cuốn sách này nói về khả năng Thiên Phú Tuyệt Vời và nỗi đau của chị
khi chưa được công nhận, vì có nhiều người hiểu sai rồi bài xích.
Viện giám định Quốc gia Liên Xô năm 1989 đã quan tâm đến những
kết luận của Bộ Y tế, chính thức công nhận phương pháp chữa bệnh bằng đôi bàn
tay của Djouna.
Thê' nhưng
Djouna vẫn chỉ là người duy nhất có hai bàn tay mầu nhiêm qua ngần ấy năm. Cô vẫn
chưa hiểu nguyên nhân vì đâu mà có và chưa thể huấn luyện lại cho người khác
hay cho cộng đông biêt chữa bênh. Không hê có thê hệ thứ hai của Djouna biêt chữa
bệnh.
Đúng vậy chính Djouna tự không biết đôi tay của mình làm
sao mà có khả năng trị bệnh như vậy. Hầu hết mọi người trên thế gian này cũng
không hiểu biết huống là Djouna.
Những điều khó hiểu này chỉ có những người am tường Phật
giáo tu hành chứng đạo thì biết rất rõ sự mầu nhiệm này từ đâu lưu xuất ra. Sự
mầu nhiệm này thật sự thì không mầu nhiệm chút nào cả, nếu chúng ta biết rằng
Tưởng Uẩn trong thân chúng ta làm ra những sự mầu nhiệm này thì không còn gì là
mầu nhiệm được nữa.
Theo Phật giáo, trong thân người có Năm Uẩn, Sắc Uẩn
hoạt động thì con người sống bình thường không có cái gì là mầu nhiệm cả, chỉ
khi nào Tưởng Uẩn hoạt động thì tri thức con người không giải thích được nên gọi
nó là Mầu Nhiệm. Nếu Tưởng Uẩn hoạt động nơi căn nào thì căn đó mầu nhiệm. Như
Djouna thì Tưởng Uẩn hoạt động nơi đôi tay nên đôi tay của Djouna trị hết bệnh
cho mọi người.
Ở Việt nam có một thời xuất hiện một ông thầy trị bệnh bằng
nước lã, ông ta chỉ dùng tay mình rờ vào chai hoặc ly nước rồi cho người bệnh uống
là bệnh hết, rồi lại có xuất hiện một ông thầy lá cây, cứ ông ta rờ lá cây bất
cứ lá cây nào, khi được tay ông ta rờ vào rồi đem về nấu uống là hết bệnh.
Tất cả những hiện tượng này xảy ra đều do Tưởng Uẩn hoạt
đông. Khi người ta không hiểu thì cho rằng: "Bao sự kỳ lạ quanh ta mà khoa
học hiện đại chưa có lời giải trình thỏa đáng". Trái tim Thích Quảng Đức,
nhục thân Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường để lại đang thờ tại chùa Đậu đâu có gì
là lạ mà chỉ là sự không hiểu biết của mọi người mà thấy kỳ lạ.
Khi trái tim của Hòa Thượng Thích Quảng Đức đốt không cháy
là do Tưởng Uẩn của Hòa Thượng Thích Quảng Đức xen vào hoạt động trong khi ý
chí dũng cảm ngút ngàn của Hòa Thượng quyết liệt chống lại chế độ độc tài kỳ thị
tôn giáo của gia đình trị Ngô Đình Diệm.
Còn nhục thân
của Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường được duy trì đến ngày nay còn để lại như hai
bộ xương khô cũng là do Tưởng Uẩn của hai Ngài, khi còn sống hai Ngài tu tập
thân tâm đều rơi vào Không Tưởng Định nên Tưởng Uẩn của hai Ngài hoạt động tác
dụng vào thân nên khi chết nhục thân hai Ngài không bị hoại diệt, sình trương
hôi thối như các thân người khác. Cho nên khi biết Tưởng Uẩn thì cuộc sống
quanh chúng ta đâu còn cho là Bí Ẩn Kỳ Lạ, đâu còn cho là Tâm Linh.
Có một nhóm người không hiểu biết Tưởng Uẩn nên khi nghe
nói đôi tay trị bệnh của Djouna thì tuyên bố ở Việt Nam sẽ có những người biết
dạy cho nhau cách tạo ra và sử dụng năng lượng sinh học (mà gọi là "nhân
điện", "ngoại cảm", "trường sinh học".) để chữa bệnh bằng
đôi tay mầu nhiệm, nhất là từ năm 1991 tới nay.
"Phương
pháp chữa bệnh bằng năng lượng sinh học (nhân điện) đã được các nước trên thế
giới công nhân như Liên Xô, Mỹ, Venezuela...
Tính đến nay,
ở nước ta có hàng ngàn đôi bàn tay mầu nhiệm như vậy. Gia đình Nhân điện Việt
Nam ra đời theo quy luật khách quan và nhu cầu bức thiết của cuộc sông đời thường.
Bước đầu những người có "đôi bàn tay mầu nhiệm" làm từ thiện, chữa bệnh
cho những ai tự nguyện, kể cả các trường hợp đã cùng đường, sau khi qua nhiều bệnh
viện, nhiều thầy thuôc.
Theo những tư
liệu mà một sô' cơ sở nhân điện ở Việt Nam còn lưu giữ được (hô sơ bệnh án, ảnh
chụp, băng video, thư cảm ơn, giấy xác nhận...) thì họ đã tự chữa hoặc chữa cho
người khác khỏi hoặc đỡ hẳn một sô' chứng bệnh như: hội chứng đau (đầu, cổ,
lưng, tứ chi, bụng, ngực.) mất ngủ kéo dài, suy nhược, cao huyết áp, thấp khớp,
hen suyễn, động kinh, suy tim, viêm tấy phần mềm...
Vậy đấy, những điều bình thường đang xảy ra trong cuộc sông
quanh ta, trong đó có những bàn tay mầu nhiệm chữa bệnh bằng nhân điện - Năng
lượng sinh học."
' GS.TS.
NGUYỄN ĐÌNH PHƯ
(Trong tập "Nhân điện - những phát hiện và ứng dụng"
NXB VHTT1996)
Chúng ta đã nghe GS. TS. Nguyễn Đình Phư quảng cáo Nhân Điện
như bài viết trên đây. Vây nhân diện là gì?
Người ta cứ nghĩ rằng trong mỗi thân con người có những
dòng điện vô hình nhưng luyện tâp có kết quả thì dùng nó sẽ trị được nhiều thứ
bệnh. Khi luyện tâp họ dùng cái gì để luyện tâp, vì là nhân điện vô hình thì
không thể dùng ý thức được, cho nên họ dùng TƯỞNG UẨN để tâp luyện khi thành
công trị bệnh được có phải là do TƯỞNG UẨN không?
Cô Djouna không dùng TƯỞNG UẨN luyện nhân điện mà tự đôi
tay cô có công năng trị hết tất cả các thứ bệnh thì như vây đâu phải là nhân điện.
Khi quý vị luyện tâp nhân điện thì quý vị cho cái gì trị bệnh đều là nhân điện
hết sao. Trước khi có nhân điện quý vị đã dùng TƯỞNG UẨN để luyện tâp như thế
nào quý vị biết không? Nếu quý vị quả quyết có nhân điện trị bệnh mà bệnh nào
cũng hết thì từ khi có nhân diện đến bây giờ thì bệnh viện sẽ đóng cửa vì còn
ai đến bệnh viện trị bệnh. Quý vị đừng quảng cáo ca ngợi nhân điện nhiều quá mà
thành quý vị nói không thât. Hiện giờ quý vị cứ đến bệnh viện mà xem. Bệnh viện
không còn giường cho bệnh nhân nằm.
Nhân điện do luyện tâp bằng TƯỞNG UẨN mới có nhân điện. Cho
nên khi trị bệnh không phải bệnh nào cũng hết. Bệnh nhân nào hết bệnh là bệnh
nhân ấy phải hợp với TƯỞNG UẨN của người trị bệnh tức là TƯỞNG UẨN người trị bệnh
và người bệnh phải tương ưng còn nếu không tương ưng thì không bao giờ hết bệnh.
Đôi tay của Djouna tuy trị hết bệnh nhưng bệnh nhân nào có
TƯỞNG UẨN tương ưng với TƯỞNG UẨN đôi tay của Djouna thì mới hết bệnh. Nên khi
TƯỞNG UẨN không hoạt động thì đôi tay không còn mầu nhiệm trị bệnh được nữa. Hầu
hết những người trị bệnh bằng TƯỞNG UẨN thì chỉ có thời gian rồi sau đó không
còn trị được ai cả.
Do biết TƯỞNG UẨN nên chúng ta không thấy có TÂM LINH, có sự
MẦU NHIỆM mà đó chỉ là một sự hoạt động tự nhiên NĂM UẨN của con người. Nhưng tại
sao người có TƯỞNG UẨN hoạt động mà cũng có người TƯỞNG UẨN không hoạt động.
Thường con
người ai cũng có TƯỞNG UẨN, nhưng TƯỞNG UẨN vẫn nằm im lìm không hoạt động, chỉ
khi nào có một cú "sốc" chết đi sống lại thì TƯỞNG UẨN mới hoạt động
như nhà ngoại cảm Bích Hằng bị chó điên cắn.
Theo chúng
tôi hiểu biết hiện giờ có một số người có khả năng TƯỞNG UẨN hoạt động. Để chứng
minh được những điều này chúng ta nên nghiên cứu lại những chuyện đã xảy ra được
báo chí và được viết ra thành sách. Chúng ta hiện giờ chỉ chịu khó nghiêm cứu
thì sẽ biết rõ những điều kỳ lạ và mầu nhiệm.
|
Sự BÍ ẨN KỲ LẠ CỦA MỘT TRÁI TIM
Ngọn lửa tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức phản đối Mỹ
- Diệm đã gần 40 năm đã đi vào lịch sử đấu tranh của giới Phật giáo Việt Nam chống
xâm lược.
Thân xác Ngài
sau 40 giờ hỏa táng, xương thịt của Ngài đã trở về tro bụi - nhưng kỳ lạ thay:
trái tim của Ngài vẫn còn nguyên vẹn!
Khi miền Nam giải phóng - năm 1975, trái tim đó được chuyển
gửi và giữ gìn ở Ngân hàng nhà nước Việt Nam và sau đó được đưa ra Hà Nội để
các nhà Khoa học làm công việc nghiên cứu. Với người dân thì trái tim Hòa Thượng
Thích Quảng Đức vẫn là điều bí ẩn. Nhưng đối với chúng tôi thì không có bí ẩn
gì cả, vì đó là lúc Hòa Thượng còn sống trước cái chết tự nguyện, tự thiêu vì
Phật pháp nên tinh thần ý chí dũng cảm sắt đá của Hòa Thượng rất mạnh, do đó TƯỞNG
UẨN của Hòa Thượng bắt đầu hoạt động trong ngọn lửa tự thiêu, vì thế trái tim
không bao giờ cháy. Cháy làm sao được khi TƯỞNG UẨN hoạt động mà người đời
không hiểu gọi là mầu nhiệm.
KHOA HỌC TÂM
LINH
CỦA cOn người
Chúng tôi xin
thuật lại một câu chuyện nữa mà người đời không hiểu cho rằng câu chuyện này kỳ
lạ:
"Theo
ông Dalai Lama thì khi trải qua một quá trình thiên định lâu dài con người có
thể loại bỏ được những ý nghĩ và cảm xúc mang tính tiêu cực và thù địch. Trong
khi đó các nhà tâm lý học Tây phương lại không đông ý với luận điển này. Họ cho
rằng những ý nghĩ và cảm xúc như vậy là thuộc vê bẩm sinh của con người. Đạo Phật
Tây Tạng lại cho rằng luận điểm của Tây phương là không rõ ràng."
Thiền định của các ông Dalai Lama khác với thiền định của Đức
Phật. Trong khi Đức Phật dạy: "Ý làm chủ, ý dẫn
đầu các pháp và tu tập phải làm chủ các cảm thọ" thì các Dalai Lama
lại dạy: "loại bỏ ý nghĩ và cảm xúc mang tính tiêu
cực và thù địch."
Các ông Dalai
Lama dạy: "loại bỏ ý nghĩ mang tính tiêu cực và
thù địch." Vậy lấy cái gì loại bỏ ý nghĩ mang tính tiêu cực? Các
ông nói được mà các ông không biết lấy cái gì loại bỏ ý nghĩ ác
Trong khi Đức Phật dạy rất dễ hiểu: Lấy ý thức "Ngăn ác diệt ác pháp." Bởi trong kinh Pháp
Cú dạy: "Ý làm chủ, ý tạo tác, ý dân đâu các
pháp...."
Sự chống đối giữa các nhà khoa học Tây phương và
ông Dalai Lama chưa ngã ngũ ai đúng ai sai thì các nhà khoa học thí nghiệm cuộc
ngồi thiền của Dalai Lama.
"Cuộc thử
nghiệm diễn ra khi ông Dalai Lama đang ngôi thiên thì cho nổ một phát súng ngay
bên cạnh. Nhưng lạ thay, ông Dalai Lama vẫn ngôi thiên bình thường không hê có
một chút phản ứng nào - điêu mà các nhà khoa học Mỹ chưa từng thấy ở bất kỳ một
cuộc thử nghiệm trước đây!"
Khi các vị Dalai Lama
không ngôi thiền, không nhập định tâm rất bình
thường như mọi người mà cho một tiếng nổ rất lớn gân
bên mà các vị Dalai Lama không giật mình thì
đó các Ngài ở trong tâm bất động. Đó mới chính là thiền
định của Phật giáo, còn các ông ngồi thiền nhập định mà không giật
mình thì đó là tà thiền tà định của ngoại đạo
Khi thân tâm đều rơi vào Định Không Tưởng thì dù cho bom nổ
bên cạnh thân tâm cũng không nhúc nhích. Bình thường mọi người nghe tiếng nổ lớn
đều phản ứng giật mình, đó là một phản xạ tự nhiên nhưng ở người nhập định thì
tâm bất động vì thế sự phản xạ tự nhiên cũng không còn.
Cho nên các nhà khoa
học thử nghiệm với một người nhập thiền định thì sự thử nghiệm vẫn hoài công vô
ích. Vì thiền định mà đem thử nghiệm với người bình thường thì cho đó là điều kỳ
lạ, chớ sự thật không có gì kỳ
lạ cả. Vì thiền
định là Tưởng Uẩn hoạt động nên mới có Định Không
Tưởng.
Chúng tôi xin
thuật lại một câu chuyện nữa mà người đời không hiểu cho là mầu nhiệm:
Người ta nói đến hoa Vô Ưu là nói đến sự không buồn phiền,
đó là người ta khéo tưởng tượng một Đức Phật sinh ra nơi gốc cây Vô Ưu có nghĩa
là một bậc Thánh không còn phiền não.
Bao đời con người cũng hay tưởng tượng huyền thoại một đấng
Giáo Chủ rồi bịa ra hoa Vô Ưu để ca ngợi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một bậc
Thánh từ cung Trời Đâu Suất sinh về thế gian nên mới có những hiện tượng hoa Vô
Ưu nở.
Hiện giờ ở Việt
Nam người ta trồng cây Vô Ưu rất nhiều, hoa nở liên tục mùa nào cũng có hoa nở.
Do đó chứng tỏ người ta khéo ca ngợi Đức Phật mà thành dối trá lừa đảo mọi người.
Cho nên trên cuộc đời này đừng bao giờ nghe người ta nói mà hãy nhìn rõ mọi việc
người ta làm rồi mới có tin.
Khi thấy hoa
Vô Ưu tại đền thờ Phật và đền thờ đức Trần Nhân Tông tại TP Hồ Chí Minh ở Việt
Nam mùa nào cũng nở thì người ta lại lý luận Phật giáo Việt Nam hưng thịnh.
Chúng ta hãy nghe trích bài ca ngợi Phật giáo Việt
Nam của Ngô Văn Quán viết: "Đức
Phật ra đời, do năng lượng bởi nguôn tâm vô nhiễm của Ngài đã chiêu cảm cho Vô
Ưu nở hoa. Đạo Phật truyên vào Việt Nam được sự gia trì của Phật, các Tổ, các
Thánh Hiên, các bậc Giác Ngộ của dân tộc với năng lượng của nguôn tâm vô nhiễm
đã chiêu cảm để đất nước và con người Việt Nam thăng hoa. Cũng có thể do tâm Phật
của những hội viên Trung tâm trong cả nước phát nguyện và quyết tâm ứng dụng những
lời Phật dạy vào cuộc sông đã giúp cho mọi người thăng hoa trong tâm hôn, hăng
hái xây dựng đất nước. Chính tâm từ bi ấy đã chiêu cảm cho loài hoa này nở liên
tục." Lời ca ngợi này có đúng không?
Phật giáo Việt Nam đang đi lên hay đang xuống dốc, nếu
chúng ta không lầm thì Phật giáo Việt Nam đang lúng túng trước hai ngả đường,
không biết sẽ đi đường nào: Nam Tông và Bắc Tông. Nam Tông thì ức chế tâm, còn
Bắc Tông thì mê tín. Còn con đường chính gốc của Phật giáo làm chủ sinh, già, bệnh,
chết thì không biết đâu mà tu tập.
Còn hoa Vô Ưu nở hay không nở thì có liên hệ gì với tâm con
người. Nếu bảo rằng nhờ hoa Vô Ưu nở thì Đức Phật đâu cần tu tập làm gì. Sáu
năm khổ hạnh tưởng như thân xác Ngài như gần chết, nếu không nhờ bát sữa của
cháu bé chăn bò thì Đức Phật có chứng đạo được không?
Trong sự tu tập rất gian khổ vô cùng, nhất là khi chưa biết
pháp tu tập còn mò mẫm đường đi như người mù dùng gậy dò đường. Vì thế Đức Phật
phải dũng cảm phát nguyện: "Nếu không chứng đạo
thề nát xương không rời khỏi cội bồ đề." Như vậy hoa Vô Ưu nở hay
không nở có gì liên hệ với sự tu tập của Đức Phật đâu.
Cho nên ở đời người ta hay thêu dệt và ca ngợi một cách vô
lý, thế mà ai cũng nghe và tin theo một cách mù quáng, thật là điên đảo tưởng
mà không biết.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!