HƯƠNG ĐẠO ĐỨC
LỜI PHẬT DẠY
“Ít giá trị hương này Hương già la, chiên đàn Chỉ hương người đức hạnh Xông ngát
mấy trời xa”.
Kinh Pháp Cú
CHÚ GIẢI:
Người tu
hành theo Phật giáo phải lấy giới luật (đức hạnh) làm cuộc sống.
Vì chính giới luật đức hạnh mới
xác định giá trị của một người tu giải
thoát. Người tu
hành phạm giới,
phá giới
như đa số các
tu sĩ và cư
sĩ hiện
giờ
bên Đại Thừa, Nam
Tông, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông
thì không xứng đáng là đệ tử Phật, không xứng đáng là tín đồ Phật giáo. Họ chỉ là những tu sĩ và cư sĩ của
Bà La Môn Giáo mang danh Phật giáo, chứ chẳng có chút gì là Phật giáo cả.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Cho
nên, trong kinh Pháp
Cú dạy: không mùi hương nào bay
ngược chiều gió mà chỉ có hương đạo đức (Giới luật):
“Không một
hương hoa nào Bay ngược chiều gió thổi Chỉ hương người đức hạnh Bay ngược gió bốn
phương”.
Người giữ
gìn giới luật
nghiêm túc là
người giữ
gìn thanh danh và uy tín của Phật giáo. Trước lúc nhập Niết Bàn, đức Phật đã di
chúc: “Giới luật còn là Phật giáo còn, giới luật mất là Phật giáo mất”. Nếu tu sĩ và cư sĩ
cố gắng giữ
gìn giới luật
nghiêm chỉnh không hề vi phạm
thì ngày hôm nay Phật giáo đâu có ra nông nổi như thế này.
Hương giới
luật không có một mùi
hương hoa nào sánh bằng. Vì thế, kinh Pháp Cú dạy:
“Chỉ hương
người đức hạnh
Xông ngát mấy
trời xa”.
Đúng vậy, người
giữ gìn giới luật nghiêm túc,
không hề vi phạm một
lỗi nhỏ nhặt
nào, thì cả thế giới đều
biết họ.
Đó là hương
giới luật xông khắp mấy trời xa.
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
Giữ giới luật
mà không bị ức chế tâm, không bị gò
bó trói buộc
mình thì nhất định phải có giới hành. Giới hành tức là ba
mươi bảy pháp hành (37 phẩm
trợ đạo) để tu
tập ly dục ly ác pháp.
Cho nên,
trên đường tu tập cầu giải thoát thì giới
luật là hành động đạo đức đời sống của người tu sĩ Phật giáo. Nếu ai không chấp
nhận giới luật, thì xin
các bạn vui
lòng đừng theo Phật giáo. Vì có theo nó thì chẳng có
ích lợi gì cho bạn mà chính bạn đã làm cho Phật giáo băng hoại; làm cho Phật
giáo mất gốc; làm cho Phật giáo suy đồi. Đó
là mùi thối
bay khắp muôn phương. Các
bạn hãy suy nghĩ lại
đi! Có đúng không hỡi các bạn?
GIỚI HẠNH
LỜI PHẬT DẠY
“Những ai có
giới hạnh An trú không phóng dật Chánh trí, chơn giải thoát Ác ma không thấy đường”.
Kinh Pháp Cú
CHÚ GIẢI:
Người tu
sĩ và người
cư sĩ đã tu tập
theo Phật giáo
thì phải biết giới
luật rất là quan trọng. Nếu
người tu sĩ
và người cư sĩ
nào sống không đúng
giới luật thì tu
hành chỉ phí công mà thôi. Vả lại, còn phạm tội rất nặng,
đó
là tội làm
cho Phật giáo suy đồi, biến Phật giáo
thành một
tôn giáo mê tín
lạc hậu;
biến Phật giáo thành một nghề mê
tín lừa đảo người khác để sống (thầy tụng)...
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
Người tu
sĩ và người
cư sĩ đã tu tập theo Phật
giáo thì có ba điều
kiện quan trọng cần phải lưu ý:
1- Phải sống đúng giới luật không hề vi phạm lỗi nhỏ nhặt nào.
2- Phải
luôn tu tập
an trú và giữ tâm không
phóng dật bằng
các pháp ly dục ly ác
pháp.
3- Phải
luôn dùng Chánh
Tri Kiến trước các ác pháp và các
cảm thọ.
Nếu người tu
sĩ và người cư sĩ Phật giáo tu tập
và giữ gìn
tâm được như vậy
là thành Chánh Giác không
có khó khăn, không có mệt nhọc. Bởi vậy, Đạo Phật tu hành không phải
khó. Khó là chỗ chúng ta không bền chí, thiếu nghị lực,
không gan dạ
mà thôi. Phải
không hỡi các bạn?
“Những ai có
giới hạnh An trú không phóng dật Chánh trí, chơn giải thoát”.
Xin các bạn ghi
nhớ ba câu kệ này, nó đã
xác định được
mục đích và con
đường tu
theo Phật giáo một cách cụ thể và rõ ràng. Cho nên, các bạn tụng kinh,
trì chú, niệm Phật, lạy hồng danh chư Phật sám hối, chỉ
là một hành động
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
mê tín, lạc
hậu của những giáo điều ngoại đạo, chứ
trong kinh sách Nguyên
Thủy đức Phật luôn dạy chúng ta ngăn ác diệt ác pháp,
sống trong thiện và mãi mãi sống trong thiện. Đó là chân giải thoát của Phật
giáo.
Õ
BỜ BÊN NÀY,
BỜ BÊN KIA
LỜI PHẬT DẠY
“1- Tà kiến, này
Bà La Môn, là
bờ bên này, Chánh kiến là bờ bên kia.
2- Tà tư
duy là bờ
bên này, Chánh tư duy là bờ bên kia.
3- Tà ngữ là
bờ bên này, Chánh ngữ là bờ bên kia.
4- Tà nghiệp
là bờ bên
này, Chánh nghiệp là bờ bên kia.
5- Tà mạng
là bờ
bên này, Chánh mạng là bờ bên kia.
6- Tà tinh tấn
là bờ bên này, Chánh tinh tấn là bờ bên kia.
7- Tà niệm
là bờ
bên này, Chánh niệm là bờ bên kia.
8- Tà định là bờ bên
này, Chánh định là bờ bên kia.
9- Tà trí là
bờ bên này, Chánh trí là bờ bên kia.
10- Này Bà
La Môn, Tà giải thoát là bờ bên
này, Chánh giải thoát
là bờ bên
kia.
Này Bà
La Môn, đây là bờ bên
này,
đây là bờ
bên kia”.
“Ít người giữa nhân loại,
Đến được bờ
bên kia Còn số người còn lại Xuôi ngược chạy bờ này Những ai hành trì pháp
Theo Chánh
pháp khéo dạy
Sẽ đến bờ
bên kia…”.
(Tăng Chi Bộ
Kinh tập 4 trang 557)
CHÚ GIẢI:
Theo Phật
giáo xác định cho chúng ta thấy hai lộ trình:
1- Lộ trình đau khổ.
2- Lộ trình hết đau khổ.
Lộ trình đau khổ
là bờ bên
này, lộ trình hết
đau khổ là bờ bên
kia. Tà là
đau khổ,
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
chánh là hết khổ
đau; ác là đau khổ,
thiện là hết khổ đau.
Đọc đoạn
kinh trên đây, chúng ta xét thấy sự giải thoát của Phật giáo rất rõ ràng và dễ
dàng không có
khó khăn. Bởi vì
cần có
chánh tri kiến hiểu biết thiện
và ác là giải thoát ở
ngay đó, như bờ bên này và bờ bên kia.
Đức Phật dạy: “Tà kiến, này Bà La Môn,
là bờ
bên này, Chánh kiến
là bờ bên kia”. Vậy, Tà kiến và Chánh kiến là gì?
Tà kiến là
thấy đúng, thấy sai, thấy phải, thấy trái, thấy trắng, thấy đen, thấy tốt, thấy
xấu, v.v.. do đó, thường ở bờ bên này chịu
nhiều khổ đau.
Chánh kiến là
thấy nhân, thấy
quả do thấy nhân
quả như thật
nên ở bờ
bên kia không còn khổ đau. Chúng
tôi thường khuyên mọi người: “Chớ
nhìn mọi việc
đúng sai phải trái
mà hãy nhìn nó
là thiện ác thì cuộc
đời các bạn sẽ được an
vui và hạnh phúc ngay liền”.
Đức
Phật dạy: “Tà
tư duy là bờ bên này, Chánh tư duy là
bờ bên kia”.
Vậy, Tà tư duy và Chánh tư duy
nghĩa là gì?
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Muốn hiểu rõ
lời dạy này thì phải hiểu nghĩa tư duy. Tư duy là sự suy nghĩ.
Tà tư duy là
suy nghĩ một điều gì, điều đó làm khổ mình,
khổ người và khổ cả
hai. Nói cho rõ ràng
hơn là sự suy nghĩ
làm cho chúng ta buồn
khổ, phiền não, tức giận
căm ghét, thương nhớ, lo sợ, âu sầu,
v.v.. Sự suy nghĩ như vậy là không
giải thoát mà đức Phật dạy:
“Tà tư duy là bờ bên
này”. Bờ bên này là bờ đau khổ, địa ngục.
Vì thế, Đạo Phật không
chấp nhận những sự tư duy như vậy, đó
là những tư duy của người
không có trí còn
sống trong mê mờ ngu si.
Chánh tư duy
là sự
suy nghĩ một điều
gì mà điều đó
không làm khổ
mình, khổ người, khổ
cả hai. Chánh
tư duy là một sự suy nghĩ làm cho chúng ta không buồn phiền,
không làm cho ta tức giận,
không làm cho ta
lo lắng sợ hãi, không làm cho ta bất toại nguyện,
v.v.. Sự suy nghĩ như vậy, mang đến cho chúng ta một
tâm hồn
an vui và hạnh phúc
biến cảnh thế gian
thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Cho nên, đức Phật dạy:
“Chánh tư duy là bờ bên kia”. Bờ bên kia tức là bờ giải thoát.
Nếu cuộc sống
mà chúng ta khéo Chánh tư duy như vậy, thì lúc
nào tâm hồn
cũng thanh
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
thản, an lạc
và vô sự, không còn một ác pháp nào tác động được thân tâm thì chúng ta đã chứng
quả A La Hán, đâu còn gì mà tu tập nữa. Phải không các bạn? Cho nên, bờ bên
kia là bờ của những bậc A La Hán ở.
Đức Phật dạy: “Tà ngữ
là bờ bên
này, Chánh ngữ là bờ bên kia”. Vậy, Tà ngữ và Chánh ngữ nghĩa là gì?
Tà ngữ là lời
nói ác. Lời nói ác có bốn:
1- Nói lời hung dữ
2- Nói lời đâm thọc
3- Nói lời lật lọng
4- Nói lời không thật
Người nào
còn nói những lời ác ngữ là còn ở bờ bên
này, bờ bên này là bờ đau khổ. Chính lời
ác khẩu là sự đau khổ
của người có lời nói ấy, khi ta nói lời tà ngữ ấy là địa ngục mở cửa đón ta.
Chánh ngữ là
những lời nói thiện. Lời nói thiện có bốn:
1- Không nói lời hung dữ
2- Không nói lời đâm thọc
3- Không nói lời lật lọng
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
4- Không nói lời không thật
Lời nói
không làm khổ mình, khổ người là lời nói
thiện, lời nói ấy là chánh ngữ, nếu ai đã từng
nói những lời
nói này là người ở bờ bên kia, bờ giải thoát, như vậy chứng quả A
La Hán đâu phải khó. Phải không các bạn?
Đức
Phật dạy: “Tà
nghiệp là bờ bên
này, Chánh nghiệp là bờ bên
kia”. Vậy, Tà nghiệp và Chánh
nghiệp là gì?
Tà nghiệp là
những hành động làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Nếu ai có những hành động
như vậy là người ấy
đang mở cửa địa ngục, đang ở bờ bên này, bờ khổ đau.
Chánh nghiệp
là những hành động không làm khổ mình,
khổ người, khổ cả hai. Chánh nghiệp là những
hành động mở cửa Thiên Đàng cho chúng ta bước vào. Ai từng có
những hành động này
là ở bờ
bên kia. Bờ
bên kia là bờ
giải thoát, bờ giải thoát
là bờ vô lậu. Như vậy, chứng quả A La Hán đâu phải khó
khăn. Phải không các bạn?
Đức
Phật dạy: “Tà mạng là bờ bên này, Chánh mạng là bờ bên kia”. Vậy, Tà mạng
và Chánh mạng nghĩa là gì?
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
Tà mạng là
nuôi mạng sống không chân chánh có nghĩa
là ăn uống
và ngủ nghỉ
phi thời, ăn uống
không tiết độ,
ăn uống những thức ăn độc vào thân, ăn uống thích món ngon vật lạ, cao
lương mỹ vị. Người ăn uống phi thời như vậy là mở cửa địa ngục, là ở bờ bên này. Ở bờ bên này là bờ đau khổ.
Chánh mạng
là ăn uống
không phi thời, ăn uống
có tiết độ, ăn để
sống chứ không phải ăn
cho ngon, ăn
cho bổ mập,
ăn những cao lương
mỹ vị. Chánh
mạng không bao giờ
ăn thịt chúng sanh.
Chánh mạng là
nuôi mạng sống không
làm khổ mình,
khổ người và khổ
tất cả
chúng sanh. Chánh
mạng là ở bờ bên kia,
bờ giải thoát,
bờ vô lậu.
Như vậy chứng quả
A La Hán
đâu phải khó.
Phải không các
bạn?
Đức Phật
dạy: “Tà tinh tấn là bờ bên
này, Chánh tinh tấn là bờ bên
kia”. Vậy, Tà tinh tấn và Chánh tinh tấn nghĩa là gì?
Tinh tấn
có nghĩa là
siêng năng. Tà tinh tấn
là siêng làm điều ác,
luôn luôn làm khổ
mình, khổ người, khổ tất cả chúng sanh.
Người siêng năng làm điều ác
là người mở cửa địa ngục
cho mình là người ở bờ
bên này, bờ đau
khổ.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Chánh tinh tấn
là hằng ngày
siêng ngăn ác diệt ác
pháp, luôn luôn
sinh thiện tăng trưởng thiện pháp. Người nào luôn luôn sống
Chánh tinh tấn như vậy là người mở cửa Thiên Đàng, là người ở bờ bên kia, bờ giải thoát, bờ không còn khổ đau. Như
vậy, chứng quả
A la Hán không có khó khăn, không
có mệt nhọc. Phải không các bạn?
Đức
Phật dạy: “Tà
niệm là bờ
bên này, Chánh niệm là bờ bên kia”. Vậy, Tà niệm và Chánh niệm nghĩa là
gì?
Tà niệm là
pháp môn của ngoại đạo, người tu tập theo pháp của ngoại đạo như: tụng kinh, niệm
chú, niệm Phật bắt ấn, ngồi thiền ức chế
tâm, tụng kinh cầu
siêu, cầu an, cúng
sao giải hạn, trừ tà yểm quỷ, v.v.. Người
nào chuyên tu hành những pháp
môn ấy là mở cửa địa
ngục, sẽ lọt vào thế giới tưởng, sẽ bị bệnh thần kinh điên khùng, là người ở bờ bên này, bờ bên này là bờ đau khổ, bờ
không giải thoát.
Chánh niệm
là pháp môn Tứ Niệm Xứ, người nào tu
pháp môn này sẽ có giải thoát ngay liền, họ đang ở bờ bên kia,
bờ không còn đau khổ, bờ không còn lậu hoặc, chỉ trong vòng
7 ngày, 7
tháng, 7 năm là viên mãn. Như vậy,
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
chứng quả A
La Hán đâu có gì khó khăn. Phải không các bạn?
Đức
Phật dạy: “Tà định
là bờ bên này, Chánh định
là bờ bên
kia”. Vậy, Tà định và Chánh định nghĩa là gì?
Tà định là
những thiền định của
ngoại đạo, như Bốn Thiền Vô Sắc: Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thức Vô Biên Xứ
Tưởng, Vô Sở Hữu Xứ Tưởng, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Tưởng, Thiền Tri Vọng,
Thiền Công Án,
Thiền Minh Sát Tuệ, v.v.. những
loại thiền định này không làm chủ sanh, già, bệnh, chết, không chấm dứt tái
sanh luân hồi. Nó là những Tà định là ở
bờ bên nay, bờ đau
khổ, bờ
địa ngục không giải thoát.
Chánh định
là Tứ Thánh Định, pháp môn thiền định của Phật
giáo. Người nào
tu tập Tứ Thánh
Định là đang ở bờ
bên kia, bờ giải
thoát. Tứ Thánh
Định là pháp môn
làm chủ sanh, già, bệnh, chết,
nhưng muốn nhập
được Tứ Thánh Định
là phải có Tứ Như
Ý Túc. Người có Tứ Như
Ý Túc là người ở bờ bên
kia. Như vậy, chứng quả A La Hán đâu phải khó khăn. Phải không các bạn?
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Đức Phật dạy: “Tà
trí là bờ bên
này, Chánh trí là bờ bên kia”. Vậy, Tà trí và Chánh trí nghĩa là gì?
Tà trí là
tri kiến không có giới
luật, tri kiến không có giới luật
là tri kiến ác,
ác với mình, với
người và ác cả hai,
tri kiến không giới luật
là tri kiến làm khổ mình,
khổ người và khổ cả hai.
Người có tri kiến
này là người khổ đau, người ở bờ bên này, người ở trong địa ngục.
Chánh trí là
tri kiến có giới luật như đức
Phật đã dạy: “Tri kiến ở
đâu thì giới luật ở
đó, giới
luật ở đâu
thì tri kiến ở
đó. Giới luật làm
thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”.
Nếu một người sống có tri kiến và
giới luật như vậy, là ở bờ
bên kia, bờ giải
thoát. Như vậy,
chứng quả A
La Hán đâu phải khó khăn như mọi
người nghĩ. Phải không các bạn?
Đức
Phật dạy: “Này
Bà La Môn, Tà giải thoát là bờ
bên này, Chánh giải thoát là bờ bên kia”. Vậy, Tà giải thoát và Chánh giải
thoát là gì?
Tà giải
thoát là tu tập cầu mong gặp Tổ, gặp Phật, có thần thông
biến hóa tàng
hình,
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
biết chuyện quá khứ vị
lai, ngồi thiền
sinh hỷ lạc, ngồi thiền thấy xuất
hồn, ngồi thiền thấy hào quang ánh sáng,
nghe âm thinh trong tai, nghe mùi hương thơm ngào ngạt, nghe vị
ngọt trong cổ, v.v.. Đó là Tà giải thoát, nên tâm còn tham sân si ngút ngàn, vì
thế luôn luôn lúc nào cũng ở bên bờ bên
này, bờ đau khổ.
Chánh giải
thoát là tâm bất động
trước các pháp ác
và các cảm thọ, tâm
thanh thản, an lạc và
vô sự, tâm
không phóng dật
đó là ở bờ bên kia,
bờ giải thoát, tâm vô lậu. Như vậy, tu
chứng quả A
La hán đâu phải khó
khăn. Phải không các bạn?
Đoạn kinh này
xác định có 10 pháp
ở bờ bên kia
hay nói cách
khác là đoạn kinh này dạy chúng ta nên chọn lấy một
pháp trong 10 pháp này để sống
đúng lời dạy thì luôn luôn ở
bờ bên
kia tức là chứng quả
A La Hán.
Cho nên, tóm lược bài pháp này bằng những câu kệ xác định bờ
bên này và bờ bên
kia. Đức Phật dạy:
“Này Bà La Môn, đây
là bờ bên
này, đây là bờ bên kia”.
“Ít người giữa nhân loại
Đến được bờ
bên kia
Còn số người còn lại
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
Xuôi ngược
chạy bờ này Những ai hành trì pháp Theo Chánh pháp khéo dạy Sẽ đến bờ bên kia…”
Người ở đời vì vô
minh lầm chấp
cho các
pháp thế
gian là thật có, nên không dám buông bỏ,
vì thế mà chạy xuôi,
chạy ngược, chịu khổ đau vô
cùng vô tận, chứ không phải chứng quả A La Hán của Phật là khó. Khó là do
không buông xả dục và các pháp.
Õ
SAU KHI CHẾT
KHƠNG CĨ SỰ SỐNG
LỜI PHẬT DẠY
“Này các Tỳ
Kheo! Không có sắc nào hằng còn, tồn tại
mãi ở đời,
mà không biến đổi; lại
cũng không có Thọ, Tưởng, Hành, Thức nào hằng
còn mãi ở đời mà không biến đổi.
Này các Tỳ Kheo!
Nếu lại có thức
này hằng còn mãi ở
đời mà không biến đổi thì người tu Phạm hạnh chẳng thể phân biệt được
thiện ác, chẳng dứt hết gốc khổ.
Nếu chỉ còn
một chút xíu thức như đất trên đầu
móng tay Ta
không thay đổi thường hằng,
thì người tu
Phạm hạnh chẳng thể phân biệt được thiện ác, chẳng dứt hết gốc khổ.
Vì thế,
này các Tỳ
Kheo! Vì không còn một chút xíu thức nào, nên Đạo Ta
(Đạo Đức Nhân Bản - Nhân Quả) ra đời, Phạm
hạnh được dựng lại, mới dứt hết mé khổ”.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
CHÚ GIẢI:
Xin các bạn
suy nghĩ kỹ, đọc lại đoạn kinh này thì sẽ thấy Đạo Phật
không chấp nhận có một linh hồn tồn
tại trong thân tứ đại này sau khi chết.
Nếu còn
có một linh hồn
tồn tại thì Đạo Phật không ra đời, vì có ra đời cũng
chẳng làm ích lợi gì cho ai. Mục đích của Đạo Phật ra đời là đem lại nền đạo đức nhân bản – nhân quả, giúp cho con người
sống không làm khổ mình, khổ
người để xây dựng cõi thế gian
này trở thành cảnh giới Cực Lạc,
Thiên Đàng một cách thiết thực và cụ thể.
Cho nên, còn có
cõi siêu hình chân thật thì con người trong cõi thế gian
này không bao giờ hết khổ. Không bao giờ
hết khổ thì Phật giáo không ra đời.
Sau khi tu
hành chứng đạo có Tam Minh, Ngài quan sát và truy tìm khắp mọi nơi không tìm thấy đâu
là thế giới
siêu hình, đâu là
linh hồn của con người
tồn tại. Ngài
chỉ tìm thấy thế giới
siêu hình tưởng và
linh hồn tưởng do tưởng
uẩn của con
người tạo ra những hình bóng ấy, nên Ngài gọi thế giới đó là thế
giới tưởng tri, do điên đảo tưởng mà có. Bởi vậy, từ
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!