xa xưa, khi con người xuất hiện trên hành
tinh này đã mang theo tưởng tri điên đảo:
1- Cho nên, tất cả các tôn giáo ra
đời đều giẫm lại lối mòn tưởng tri điên
đảo của tư tưởng con người sản sanh ra các
tôn giáo, đều dựng lên thế giới siêu
hình: Phật, Trời, Tiên, Thánh, Thần, quỷ,
ma và linh hồn người chết,
v.v..
2- Tất cả các tôn
giáo đều là sản phẩm của tưởng tri
điên đảo này của con người, vì vậy mà các
tôn giáo đều dựng lên thế giới siêu hình như nhau.
3- Chính tưởng tri
điên đảo tưởng này của con người sản sinh ra các tôn
giáo, nên tất cả tôn giáo đều dựng lên thế giới siêu hình.
Chỉ riêng có Đạo Phật nhìn thế giới như
thật, thấy biết rất rõ ràng “Không có
linh hồn người chết và cũng không có thế giới siêu hình”. Vì thế, Đạo
Phật ra đời nhằm mục đích đem lại nền đạo đức
cho con người và chính mọi người
phải tự xây dựng cho mình một cõi Cực
Lạc, Thiên Đàng. Cho nên, đoạn kinh trên
đây Ngài dạy: “Vì thế, này các Tỳ Kheo! Vì
không còn một chút xíu thức nào,
nên Đạo Ta ra đời, Phạm hạnh
được dựng
lại, mới dứt hết mé khổ”.
Trong tập III, Những Lời Phật Dạy có một
bài kinh đức Phật cũng dạy không có thế
giới siêu hình: “Này Hiền giả Channa, tôi
tận mắt nghe Thế Tôn, tận mắt nhận lãnh từ Thế Tôn giáo giới này cho tôn
giả Kaccànaghotta: “Thế giới này dựa trên hai quan điểm, này
Kaccàna, hiện hữu và không hiện hữu. Ai thấy như
thật với chánh trí tuệ sự tập khởi của thế
giới, thì không chấp nhận là thế giới không
hiện hữu (Thế giới siêu hình). Nhưng này Kaccàna, ai thấy như thật
với chánh trí tuệ sự đoạn diệt của thế
giới, thì không chấp nhận là thế giới
có hiện hữu (Thế giới hữu hình). Thế giới này phần lớn, này
Kaccàna là chấp thủ các phương tiện và bị trói buộc bởi những thành
kiến”.
Đoạn kinh trên đây,
cũng xác định rõ ràng Thế giới hữu hình là thế giới
duyên hợp, nên không thật có một vật gì là thật, là thường hằng bất di bất
dịch, thường mọi vật đều vô thường biến hoại, nay còn mai mất từng phút giây.
Chỉ do tưởng điên đảo mới thấy cái này là ta, là của ta, là bản ngã của ta.
Còn thế giới vô hình là bóng dáng
của thế giới hữu hình, do tưởng uẩn tạo ra mà chúng ta không hề hay biết,
nên sống trong tưởng tri thường cho nó là một thế
giới vĩnh hằng. Vì thế, có nhiều người
nghĩ tưởng rằng theo các tôn giáo, phục vụ tôn
giáo đến khi chết sẽ được về cõi Trời, cõi Phật
hoặc làm một việc gì hy sinh cho tôn
giáo thì sẽ được phong Thánh, sẽ được về với Phật, với
Trời, v.v..
Thưa các bạn! Các
bạn nên suy nghĩ cho chín chắn lại đi!
Một con người còn hung ác, tâm còn tham, sân, si
dữ tợn, vì tôn giáo mình hy sinh giết người, ăn thịt các loài cầm
thú như cọp, như beo, vậy mà khi muốn chết
đi về với cõi Trời, cõi Phật, thì về chỗ nào được các
bạn?
Một vị Thánh còn ôm súng đạn giết người,
còn tham, sân, si ngút trời mà làm Thánh được hay sao các bạn?
Trong bộ sách Đường Về Xứ Phật có một đoạn
kinh, đức Phật bài bác các thầy Bà La
Môn tụng kinh cầu siêu cho linh hồn người đã
chết. Ngài đưa ra một ví dụ “tảng đá và giọt dầu”.
Tảng đá và giọt dầu mang đầy đủ một ý nghĩa sâu sắc rất lớn đối với kiếp
làm người.
- Thứ nhất: Khi con
người còn sống thì lầm chấp cho trong thân
này còn có linh hồn.
Vì vậy thân, tâm này là mình, là của
mình, cho nên cố gắng làm mọi việc,
dù làm việc ác, nếu có thể giết người cũng vẫn cứ
làm, miễn là làm như thế nào tiền bạc cho thật nhiều để phục vụ cho mình
đầy đủ hơn, sung sướng hơn, v.v..
Còn ai khổ đau hoặc chết cũng mặc kệ. Nhưng khi thân
này chết rồi cũng giống như tảng đá, gốc
cây là những vật vô tri, còn có vật gì đâu là hữu tri nữa. Bởi, đức Phật đã xác
định: “khi tứ đại rã tan thì chẳng có một vật gì tồn tại”. Vậy
thì làm sao có linh hồn trong thân được mà
tụng niệm cầu siêu. Đó chẳng qua là một sự tưởng tượng của loài người mà thôi.
- Thứ hai: Tảng đá
ví như nghiệp ác. Khi con người còn sống làm điều ác
tức là làm khổ mình, khổ người và khổ chúng
sanh. Khi chết rồi nghiệp ác ấy vẫn còn mà đức Phật ví dụ nó nặng
như tảng đá. Đó là tảng đá
nghiệp, nếu đem ném xuống hồ nước rồi mời các thầy đến tụng
niệm cầu cho tảng đá nổi lên
mặt hồ. Chắc chắn, điều này không thể làm được. Đúng quá, phải
không các bạn?
- Thứ ba: Giọt dầu
ví như nghiệp thiện. Khi con người còn
sống, làm điều thiện tức là ngăn ác,
diệt ác, luôn luôn sống trong thiện pháp,
làm việc thiện. Có nghĩa là sống
không
làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.
Đến khi thân này tan rã, thần thức cũng không còn, chỉ còn
lại nghiệp thiện. Nghiệp thiện này, đức Phật ví
nó như giọt dầu, nếu đem ném nó xuống hồ nước, không cần phải mời các thầy tụng
kinh, niệm Phật, nó cũng vẫn cứ nổi trên mặt nước. Điều này,
chắc chắn ai cũng biết được. Hiển nhiên quá phải
không các bạn?
Đức Phật nêu ra tảng
đá và giọt dầu, đây là mục đích dẹp bỏ sự mê tín,
lạc hậu qua nhiều hình thức cúng tế, cầu siêu, cầu an, mà tự ngàn
xưa cho đến ngày nay vẫn còn. Sở dĩ như thế là vì con người không
đủ trí tuệ sáng suốt vén màn vô minh
ấy để phá vỡ những phong tục tập
quán mê tín, lạc hậu lâu đời này,
trái lại loài người đã mê lầm duy trì và truyền thừa từ đời
ông cha cho đến đời con cháu. Với sự
hiểu biết mơ hồ, trừu tượng, ảo giác
con người đã làm cho con người khổ đau, lại
càng thêm khổ đau hơn.
Bởi vậy, nhiều người còn lạc hậu bảo rằng:
Tụng kinh niệm Phật để cho linh hồn nghe kinh kệ
mà tiêu diêu nơi miền Cực Lạc,
hoặc linh hồn còn tiếp tục nghe kinh kệ như lúc còn sống để
học hỏi, để tiến hóa, dù cho linh hồn đó
ở bất cứ cảnh giới nào sau khi chết.
Qua ý
kiến này, chúng ta mới nhận thấy được tai
hại của tư tưởng trong các kinh sách phát triển Đại Thừa đã gieo rắc vào
lòng người sự mê tín, lạc hậu mà đến giờ này dù là những người có
học thức, như những Giáo sư, Tiến sĩ hay
Bác sĩ vẫn còn mờ mịt, vẫn tin theo một cách mù quáng, chứ đừng nói
chi giới bình dân ít học.
Cho nên, hiện giờ là thời đại khoa học hóa
và kỹ nghệ hoá đời sống con người, nhưng
mê tín, lạc hậu của con người vẫn còn mãi mãi. Sự truyền thừa
mê tín của Bà La Môn cho rằng con người
có linh hồn nên mới có sự sống
sau khi chết, linh hồn luôn học hỏi để tiến hóa, dù bất cứ ở
cảnh giới nào.
Chúng tôi rất đau lòng vì một tu sĩ Phật
giáo trong hàng giáo phẩm Thượng Tọa
của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam, mà tụng kinh trị bệnh ma, trừ tà, yểm
quỷ hoặc tụng kinh đi vớt những linh hồn người chết đuối trên sông. Một tu sĩ
Phật giáo mà giống như những thầy phù thủy, làm những điều mê tín, mơ hồ, ảo
tưởng, khiến cho những người nhẹ bóng vía
tin theo. T.T này lại còn thu băng, phổ
biến khắp nơi với tựa đề rất là
hấp dẫn “Chuyện lạ thế kỷ
21”.
Chính vị Thượng Tọa này không biết
những hiện tượng đó xảy ra là do thần kinh tưởng uẩn của
những người mất bình thường. Cho nên,
Thượng Toạ đã làm một điều phi Phật
giáo.
Đó là một đường lối đi ngược lại với
đường lối Phật giáo, đường lối phi đạo đức nhân quả – nhân
bản. Cho nên, nếu mọi người sống đúng đạo
đức nhân bản - nhân quả thì sẽ không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng
sanh. Một cuộc sống như vậy là một cuộc
sống biết ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp; một
cuộc sống Thiên Đàng, Cực Lạc các bạn ạ! Còn ngược lại, tu
sĩ Phật giáo lại tụng kinh đi cầu hồn
ma, vậy thì, đó là tu sĩ của “Tà
đạo bàng môn”.
Đứng trong hàng ngũ của ngoại đạo cho rằng
luật nhân quả là luật của tạo
hóa, thì người ta sẽ hiểu lầm lạc rằng: Có ông Tạo Hóa làm ra
luật nhân quả này để xử phạt.
Hay người ta hiểu rằng: Tạo hóa là chỉ cho vạn
vật trên hành tinh này? Hiểu như thế nào cũng đều lệch lạc hết các bạn ạ!
Theo chúng tôi xác định: Luật nhân quả là
do mỗi sự sống trên hành tinh này tạo ra nhân quả, rồi từ
nhân quả ấy tự xử phạt lại nó
mà
gọi là luật, cho nên luật mà không luật.
Vì thế, nhân quả xử phạt mới rất công
minh là vậy, chứ không có ông tạo hóa nào, hay vạn vật nào
làm ra luật nhân quả này cả.
Trong kinh sách Đại Thừa lấy luật nhân quả
hù dọa người. Nếu ai nói kinh sách
Đại Thừa sai thì “đầu bể bảy miếng”,
nói Thầy Tổ Đại Thừa sai thì tội “đọa địa ngục”. Đó là những
lời hù dọa để bịt miệng mọi
người, không cho nói lỗi của Sư Thầy hay
kinh sách Đại Thừa.
Thưa các bạn! Như các bạn đã biết do
đâu mà có nhân quả; đó là do từ hành động thân, miệng, ý của
người đó tạo ra nhân để nhân sanh quả, từ
đó nhân quả mới xử phạt lại người đó, mà gọi là luật,
chứ không có tạo hóa nào tạo ra luật nhân
quả để xử phạt ai hết. Vì, nếu có người tạo ra luật nhân quả thì luật
nhân quả không công minh, chính trực. Phải
không hỡi các bạn?
Cho nên, nói tới luật nhân quả, là tự mọi
người đều biết luật nhân quả của mình,
không sợ ai hù dọa mình. Khi nói một
lỗi của người nào, thì người ấy phải
có lỗi thật sự, còn nếu không lỗi mà nói có
lỗi là lời nói vu khống, lời nói đó sẽ trở lại xử phạt họ.
Ví dụ: Nói kinh sách phát
triển Đại Thừa sai là vì kinh sách này dạy giáo lý mê tín, trừu tượng,
ảo giác, mơ hồ của Bà La Môn,
để lừa đảo tín đồ Phật giáo. Nói các
Tổ sai là vì các Tổ tìm mọi cách diệt Phật giáo
bằng cách soạn viết kinh sách đập phá bốn chân
lý của Đạo Phật và chế Bồ Tát giới cấm không cho Phật tử tu
học theo giáo lý của đức Phật.
Do các Tổ có ác
ý với Phật giáo, nên chúng tôi nói
thẳng, chỉ thẳng. Nói đúng một sự thật, thì
đó là một việc làm thiện, một việc làm tốt
để giúp ích cho biết bao nhiêu người thoát
khỏi sự mê tín, lạc hậu làm hao công sức và tiêu hao tiền
của, vật chất một cách nhảm nhí. Một
lời nói thật và thẳng thắn làm ích lợi cho muôn người mà bảo
rằng đọa địa ngục thì đó là lời hù
dọa vô căn cứ của giáo pháp Đại Thừa,
không hiểu luật nhân quả.
Vì thế, Đạo Phật dạy chúng ta sống luôn
luôn ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện
tăng trưởng thiện. Nói cái sai để cho mọi người thấy biết rõ
để tránh khỏi tai họa mà bảo
rằng có tội là không đúng. Giúp cho mọi người tránh được tai
họa thì có phước, chứ sao có tội.
Phải không các bạn?
Cha mẹ làm sai
mà con cái bưng bít không dám nói ra để sửa sai là
một điều tội lỗi. Đâu phải ông bà, cha mẹ từ
xưa đến giờ đều đúng hết? Có sai cần phải đóng cửa dạy nhau,
cần phải bỏ cái sai xuống, cần phải
dẹp sạch cái sai. Phải không hỡi các bạn?
Chúng ta là những tu sĩ và cư sĩ Phật giáo
thấy những điều sai, không đúng giáo lý của Phật giáo, thì chúng ta có quyền
chỉnh lại, làm cho Phật giáo ngày càng tốt hơn.
Cớ sao các bạn lại bảo rằng chúng tôi phỉ báng Thầy Tổ. Thầy
Tổ sai không được dám nói họ sai
sao? Dung chứa Thầy Tổ sai, phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới là làm
cho Phật giáo suy đồi, là giết Phật giáo các bạn có biết không?
Khi chúng tôi chỉnh lại pháp hành của các
hệ phái Phật giáo, thì có sự đụng chạm, nhưng vì giáo lý của các hệ phái đang
dạy tu tập là những kiến giải, tưởng giải theo kiểu 62 luận thuyết của lục sư
ngoại đạo trong thời đức Phật còn tại thế. Còn tất cả các
pháp của Phật giáo đều do từ Giới, Định, Tuệ thì
các hệ phái Phật giáo này ném bỏ, chỉ còn
học suông chơi mà thôi. Và vì vậy, khi chúng tôi nói
thẳng thì các vị này đỏ mặt tía tai, bảo rằng chúng tôi phỉ báng Thầy Tổ.
Xin thưa cùng các
bạn! Chúng tôi không phỉ báng Thầy
Tổ, phỉ báng Thầy Tổ để làm gì? Chúng
tôi chưa chỉ thẳng, nói thẳng Thầy Tổ nào
có tâm ý diệt Phật giáo, Thầy Tổ nào có những kiến giải, tưởng giải sai không
đúng chánh pháp của Đạo Phật, làm suy thoái Phật giáo thì chúng tôi nói thẳng,
để dựng lại những gì của Phật giáo mà Thầy
Tổ đã ném bỏ và ném bỏ những gì không phải của Phật
giáo mà Thầy Tổ đã vay mượn của ngoại đạo dựng lên.
Nếu các bạn cho
rằng: Chúng tôi làm những điều này
sẽ đọa địa ngục thì chúng tôi vui lòng chấp nhận
đọa địa ngục để cho tín đồ Phật giáo có những pháp môn tu hành ngăn
ác, diệt ác pháp, sanh thiện, tăng trưởng
thiện pháp và sống có đạo đức làm người, không làm khổ mình, khổ
người và khổ chúng sanh. Điều mà chúng tôi ước mong nhất là không còn thấy tín
đồ Phật giáo tu hành theo những pháp môn mê tín, lạc hậu,
trừu tượng, ảo giác của các Thầy Tổ dẫn dắt
sai nữa, v.v..
Phật giáo phải được chấn chỉnh lại. Nếu
các bạn vì một lý do gì trách móc hay phỉ báng chúng tôi bằng
mọi cách, chúng tôi vẫn luôn luôn chấp nhận
mà không hề có một lời phiền trách các bạn. Các bạn
nói sao về chúng tôi
cũng được, nhưng chúng tôi nguyện đem hết
sức mình chấn chỉnh lại Phật giáo để đền đáp công ơn đức
Phật trong muôn một. Nhờ tu hành
pháp Phật mà chúng tôi mới có được như ngày hôm nay. Nếu chúng sanh còn đủ phước
báu thì chúng tôi dẹp sạch những tà giáo
ngoại đạo đang làm băng hoại Phật giáo, đang biến Phật giáo
thành một tôn giáo mê tín. Còn nếu chúng sanh không đủ phước
thì chúng tôi cũng vui lòng. Nhưng dù thế chăng nữa,
chúng tôi cũng thương xót cho chúng sanh bạc phận
vô duyên với chánh pháp của Phật.
vvv
Õ
CHÁNH NIỆM TRÊN TỨ NIỆM XỨ
LỜI PHẬT DẠY
“Trên thân quán sát thân để khắc phục tham
ưu; trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu
ở đời; trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu;
trên phápï
quán phápï để khắc phục tham
ưu”.
CHÚ GIẢI:
Tứ Niệm Xứ là một pháp môn tu tập để làm
chủ bốn sự khổ đau của kiếp người,
đó là sanh, già, bệnh, chết. Tứ Niệm Xứ là giáo trình để học
và tu tập ở lớp Chánh Niệm.
Sau khi
học và tu tập tốt
nghiệp lớp Chánh Niệm này
ra thì họ tiếp tục học và tu tập lớp Chánh
Định và thực hiện Tam Minh. Khi tốt nghiệp lớp Chánh Định và thực hiện Tam Minh
thì họ đã làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.
Pháp môn Tứ Niệm
Xứ có lợi ích lớn như vậy, giúp cho con người có đủ bản
lĩnh làm chủ
mọi sự khổ đau của
kiếp người. Vậy Tứ Niệm
Xứ là gì?
Thưa các bạn! Các bạn muốn biết rõ pháp
môn Tứ Niệm Xứ thì hãy lắng nghe đức
Phật dạy: “Một thời Thế Tôn ở Vesàli
tại rừng Ambapàli. Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỳ Kheo. Này các Tỳ
Kheo, Tỳ kheo cần phải trú Chánh Niệm Tỉnh Giác. Đây là
lời giáo giới của Như Lai cho các Thầy.
Và này các Tỳ
Kheo, thế nào là Tỳ Kheo Chánh Niệm? Ở đây
này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo trú; quán thân trên thân
nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham
ưu ở đời; trú quán thọ trên các
thọ nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục
tham ưu ở đời; trú quán tâm trên
tâm nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm,
nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán pháp trên các pháp
nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm nhiếp phục tham ưu ở đời. Như
vậy, này các Tỳ Kheo là Tỳ Kheo chánh niệm”.
Đoạn kinh trên đây dạy
chúng ta cách thức Chánh Niệm tức là học lớp Chánh Niệm. Vậy
Chánh niệm là gì?
Theo đoạn kinh này thì Chánh
Niệm là niệm thanh thản, an lạc và vô sự. Niệm thanh thản, an lạc
và vô sự hiện tiền trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp
thì tà niệm không bao giờ xen vào được, nếu tà niệm xen
vào được thì tức khắc phải nhiếp phục không được để chúng tác động vào
thân, thọ, tâm và pháp. Vậy Tà niệm là gì?
Tà niệm được chia làm hai phần:
q Tà Niệm thuộc về tâm
q Tà Niệm thuộc về thân
Ø Tà
niệm thuộc về tâm, có nghĩa là tâm buồn rầu, lo sợ, giận hờn, ghen tức, căm
thù, thương nhớ, phiền não, v.v..
Ø Tà
niệm thuộc về thân, có nghĩa là thân
bị bệnh khổ, đau nhức chỗ này, đau nhức chỗ kia,
ngứa ngáy, mỏi mệt, chóng mặt, đau
lưng, đi đứng không vững vàng, v.v..
Những Tà niệm này thường xảy ra trong
thân, thọ, tâm và pháp của chúng ta khiến cho cuộc sống của chúng ta bất an, vì
thế, chúng ta phải tập sống trong Chánh Niệm.
Tập sống trong Chánh Niệm tức là tu tập Tứ Niệm Xứ. Muốn tu
tập Tứ Niệm Xứ thì hằng ngày phải
quan sát trên bốn chỗ: Thân, thọ, tâm và pháp,
nếu thấy có Tà
niệm thì phải tu tập như sau: “Trên
thân quán sát thân để khắc phục tham
ưu; trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu ở đời; trên
thọ quán thọ để khắc phục tham ưu; trên pháp
quán pháp để khắc phục tham ưu”. Chữ khắc phục tham ưu có
nghĩa là làm cho sự ưu phiền trên thân thọ, tâm và pháp không
còn đau khổ, phiền não nữa. Do đẩy
lui tất cả những sự đau khổ và phiền
não trên thân tâm của chúng ta, nên gọi là làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
TỈNH GIÁC TRÊN TỨ NIỆM XỨ
Thưa các bạn! Nếu muốn đạt được Chánh Niệm
như vậy thì các bạn phải có sự tỉnh thức. Muốn tu tập tỉnh
thức thì các bạn hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Và
này các Tỳ Kheo, thế nào là Tỳ Kheo tỉnh giác?
Ở đây này các Tỳ kheo, Tỳ Kheo
tỉnh giác khi đi tới, đi lui, tỉnh
giác; khi ngó tới, ngó lui, tỉnh giác,
khi co tay, duỗi tay, tỉnh giác; khi mang
áo sanghati (tăng già lê) mang bát, mang y tỉnh giác, khi
ăn uống, khi nhai, khi nếm tỉnh giác,
khi đại tiện, tiểu tiện tỉnh giác; khi đi,
đứng, khi ngồi, khi nằm, khi thức, khi nói, khi
im lặng, đều tỉnh
giác. Này các Tỳ
Kheo, như vậy Tỳ Kheo sống tỉnh
giác”. Đoạn kinh trên đây, đã xác định sự
tỉnh giác trên thân hành của chúng ta. Vậy, thân hành của chúng ta là gì?
Như đoạn kinh trên đã
nói: “Khi đi tới, đi lui, tỉnh giác;
khi ngó tới, ngó lui, tỉnh giác; khi co
tay, duỗi tay, tỉnh giác, khi mang áo sanghati (tăng
già lê) mang bát, mang y tỉnh giác; khi ăn uống,
khi nhai, khi nếm tỉnh giác; khi đại
tiện, tiểu tiện tỉnh giác, khi đi, đứng, khi
ngồi, khi nằm, khi thức, khi nói, khi im
lặng, đều tỉnh giác”. Đây chỉ là những hành động chung của thân,
chứ chưa được rõ ràng và cụ thể. Vì
vậy, chúng tôi xin xác định cho rõ ràng hơn
để các bạn biết phản tỉnh lại các hành động nơi thân của mình.
Thân hành của mỗi
người được chia ra làm hai phần:
1- Thân hành nội (hơi thở).
2- Thân hành ngoại (tất
cả mọi sự hoạt động của thân.
Thân hành hoạt động gồm có ba nơi:
1- Thân
2- Miệng
3- Ý
Như vậy muốn tỉnh
giác trên thân hành thì các bạn hãy
phản tỉnh lại thân, miệng, ý của mình,
khi phản tỉnh lại thân, miệng, ý của mình là các bạn hãy chủ động
điều khiển thân hành, khẩu hành và ý hành, khiến cho thân hành, khẩu hành, ý
hành của các bạn không có lỗi lầm. Thân hành, khẩu hành, ý hành của các bạn
không có lỗi lầm tức là Chánh Niệm,
còn có lỗi lầm là có Tà Niệm.
Rút ra kinh nghiệm tu
tập của bài kinh này là phản tỉnh lại thân
hành, khẩu hành và ý hành. Phản tỉnh lại thân
hành, khẩu hành và ý hành là tỉnh
giác, do đó đoạn kinh này nói chung chung
là chú ý các hành động của thân
như: “Khi đi tới, đi lui, tỉnh giác; khi ngó tới,
ngó lui, tỉnh giác; khi co tay, duỗi tay, tỉnh giác; khi
mang áo sanghati (tăng già lê) mang bát, mang y tỉnh
giác; khi ăn uống, khi nhai, khi nếm tỉnh giác, khi đại tiện,
tiểu tiện tỉnh giác; khi đi, đứng, khi ngồi, khi nằm, khi
thức, khi nói, khi im lặng, đều tỉnh
giác”. Đoạn kinh này nói như vậy, khiến các bạn
sẽ hiểu sai lệch biến pháp xả tâm thành pháp ức
chế tâm. Nếu chúng tôi không giải thích rõ ràng
các bạn sẽ hiểu lầm,
và tu tập là chỉ lo chú ý tập trung trên
thân hành một cách ức chế tâm cho hết
niệm khởi, đó là một điều tu sai
lệch pháp hết sức. Đức Phật rất sợ
chúng ta tu tập Tứ Niệm Xứ lầm
lạc thì tai hại không lường được về hậu
quả. Bởi vì, pháp môn Tứ Niệm Xứ là một pháp môn độc nhất để
đưa con người có đủ năng lực làm chủ nhân quả
tức là làm chủ mọi sự hoạt động của chúng ta hằng ngày.
Để kết luận đoạn kinh
này các bạn hãy lắng nghe đức Phật
dạy: “Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo phải
sống an trú Chánh Niệm Tỉnh Giác. Đó
là lời dạy của Như Lai cho các Tỳ kheo”.
Vậy, chúng ta hãy hiểu cho rõ ràng để biết cách sống
an trú Chánh Niệm Tỉnh Giác mà không sai lầm trên pháp
môn Tứ Niệm Xứ.
Lần lượt, chúng tôi
sẽ hướng dẫn các bạn an trú Chánh Niệm Tỉnh Giác
trong nhiều góc độ của pháp môn Tứ Niệm Xứ
để đạt được sự làm chủ sự sống chết hoàn toàn chỉ trong
một đời này mà thôi.
GIỚI LUẬT VÀ
TRI KIẾN TRONG TỨ NIỆM XỨ
Kính thưa các bạn! Bài
pháp trên đây đã dạy chúng ta cách thức sống an trú
chánh niệm tỉnh giác trên thân hành, khẩu hành và ý hành để tu tập BỐN
NIỆM XỨ. Còn bây giờ chúng ta lại sống an trú chánh niệm tỉnh giác trên
giới luật để tu tập Tứ Niệm Xứ.
Trước khi triển khai pháp hành này chúng tôi xin các bạn hãy
lắng nghe đức Phật dạy: “Vậy này
các Tỳ Kheo, các Thầy phải gội sạch hai pháp cơ bản về
các thiện pháp và thế nào là hai pháp
cơ bản về các thiện pháp? Chính là Giới khéo
thanh tịnh và Tri kiến chánh trực. Này các Tỳ Kheo, khi
nào các Thầy được giới khéo thanh tịnh và Tri kiến chánh
trực, các Thầy hãy y cứ trên giới, an trú
trên giới tu tập BỐN NIỆM XỨ: thân, thọ, tâm, pháp”.
(Đại tạng kinh Việt Nam; kinh Tương Ưng tập 5 và Tăng Chi Bộ
kinh tập 1).
Đoạn kinh trên đây dạy rất rõ ràng: “Giới
luật và tri kiến”. Vậy, muốn khắc phục những tham ưu trên thân, thọ, tâm và
pháp thì phải y cứ trên giới luật sống không
hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì mới mong đẩy lui các
chướng ngại pháp trên đó (khắc phục tham ưu).
Thưa các bạn! Trong
kinh Ước Nguyện, đức Phật cũng đã nhắc nhở chúng
ta rất nhiều
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!