về giới
luật. Vì giới
luật rất quan
trọng trên con đường tu tập giải
thoát. Muốn ước nguyện kết quả một điều gì trong sự tu tập thì giới luật phải
nghiêm chỉnh. Ở đây, tu tập Tứ Niệm Xứ đức Phật cũng dạy chúng ta lấy giới luật
và tri kiến làm nền tảng
cho sự nhiếp phục
những tham ưu trên Tứ Niệm Xứ,
nghĩa là muốn đẩy
lui những sự khổ đau trên
thân, thọ, tâm và
pháp thì giới luật phải nghiêm chỉnh. Giới luật nghiêm chỉnh
thì tri kiến thanh tịnh, tri kiến thanh tịnh thì giới luật mới nghiêm
chỉnh. Giới luật làm thanh
tịnh tri kiến, tri kiến làm
thanh tịnh giới luật. Đó là nền tảng vững chắc để chúng ta tu tập Tứ Niệm Xứ.
Vì thế, các bạn hãy lưu ý đoạn kinh này: “các Thầy hãy y cứ trên giới, an trú
trên giới tu tập BỐN NIỆM XỨ: thân, thọ,
tâm, pháp” thì các bạn tu tập sẽ làm chủ bốn sự đau khổ;
sanh, già, bệnh, chết.
TỨ NIỆM XỨ
LÀ NGỌN ĐÈN
SOI SÁNG LÀ CHỖ NƯƠNG TỰA VỮNG CHẮC
Pháp môn Tứ Niệm
Xứ quan trọng
như thế nào mà đức Phật luôn nhắc nhở ông A Nan hãy lấy
pháp môn Tứ Niệm Xứ
làm ngọn đèn và
làm chỗ nương tựa vững chắc trên đường tu tập cho
chính mình. Vậy,
các bạn hãy lắng
nghe và suy
nghĩ cho kỹ những
lời đức Phật
dạy:
1) “Này
Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn
cho chính mình, hãy tự
mình nương tựa chính
mình, chớ nương
tựa một gì khác,
dùng chánh pháp làm ngọn
đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một
điều gì khác. Này
Ananda, thế nào là Tỳ Kheo tự mình là
ngọn đèn cho chính mình, tự mình
nương tựa chính mình, không nương tựa một điều
gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn
đèn, dùng chánh pháp làm
chỗ nương tựa,
không nương tựa một điều gì khác?”. Đoạn kinh trên đức Phật muốn
giới thiệu một
pháp môn rất quan
trọng cho cuộc đời
tu hành của
các bạn, không phí công, phí sức, nên Ngài căn dặn ông A Nan rất kỹ lưỡng:
2) “Ở
đây, này Ananda, Tỳ Kheo trú quán
thân trên thân, nhiệt
tâm tỉnh giác chánh niệm nhiếp phục tham ưu ở đời;
trú quán thọ trên các thọ nhiệt
tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham
ưu ở đời; trú quán tâm trên tâm nhiệt tâm tỉnh
giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời;
trú quán pháp
trên các pháp
nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm nhiếp
phục tham ưu ở đời.
Như vậy, này
Ananda Tỳ Kheo tự
mình là
ngọn đèn cho
chính mình, tự mình nương
tựa chính mình, không nương tựa một điều
gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn,
dùng chánh pháp làm chỗ nương
tựa, không nương tựa một điều gì khác”.
Các bạn có nghe chăng? Tứ Niệm Xứ là ngọn đèn chánh pháp, là chỗ nương tựa
vững chắc cho các bạn.
Như vậy, Tứ Niệm Xứ
đúng là một pháp môn rất quý báu nên đức Phật lặp đi lặp lại nhiều
lần, để chúng
ta đừng quên pháp môn Tứ Niệm Xứ.
Lời di
chúc năm xưa của
đức Phật trước khi nhập Niết Bàn, Ngài bảo các thầy Tỳ
Kheo như sau: “Này các Tỳ kheo, sau khi Ta đã Niết Bàn
hãy lấy giới
luật và giáo
pháp của Ta làm thầy, làm chỗ nương tựa vững
chắc”. Đọc những đoạn
kinh trên đây, chúng ta mới nhận ra giới luật và giáo pháp của
Ngài di chúc lại cho chúng ta là pháp môn Tứ Niệm Xứ. Như vậy các bạn đã rõ
chưa?
Lấy mình
làm ngọn đèn,
làm chỗ nương tựa vững chắc là ý muốn dạy điều gì đây?
Xin thưa
cùng các bạn!
“Tự mình là ngọn đèn
cho chính mình, tự mình nương tựa chính
mình, không nương tựa
một điều gì khác”. Để thấu rõ và xác định ý nghĩa của câu này, chúng tôi
xin lặp lại: “Tự mình là ngọn đèn cho
chính mình, tự mình nương tựa chính mình”. Đó là tri kiến của chúng ta đấy các bạn ạ!
Dùng chánh
pháp làm ngọn đèn soi sáng, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa
một điều gì khác là ý Phật muốn dạy pháp môn gì đây?
Xin thưa cùng các bạn! Đó là giới đức, giới hạnh,
giới hành và pháp môn Tứ Niệm Xứ. Đọc đến những đoạn kinh trên đây, chắc các bạn
đã thấu hiểu và phân biệt chánh pháp của Phật là pháp nào, còn tà pháp của ngoại
đạo là pháp nào? Nếu không có những lời xác định chánh pháp của Phật thì đứng
trước rừng kinh sách hiện giờ, các bạn dễ
rơi vào kiến giải tưởng của ngoại đạo.
Tóm lại, khi tu
hành theo Phật
giáo thì không nên
tu tập bất cứ một
pháp môn nào khác mà chỉ nên tu tập Tri Kiến, Giới Luật và Tứ Niệm Xứ.
NGƯỜI
TU TẬP
PHÁP MÔN TỨ NIỆM XỨ LÀ NHỮNG NGƯỜI TỐI THƯỢNG TRONG HÀNG TỲ KHEO CỦA NHƯ LAI
Một lần nữa chúng
ta hãy nghe đức
Phật ca ngợi tán thán pháp
môn Tứ Niệm Xứ trước khi vào Niết Bàn:
3) “Này
Ananda, những ai hiện nay,
hay sau
khi ta diệt độ, tự
mình là ngọn đèn cho chính mình,
tự mình nương tựa chính mình, không nương
tựa một điều gì khác,
dùng chánh pháp làm ngọn
đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương
tựa, không nương tựa một điều gì
khác. Những vị ấy, này Ananda, là những vị
tối thượng trong hàng Tỳ Kheo
của Như Lai.
Nếu những vị ấy nhiệt tâm
tinh cần tha thiết học
hỏi”. Xem thế,
chúng ta mới thấy Tri Kiến, Giới Luật và pháp môn Tứ Niệm Xứ rất
quan trọng trên đường tìm tu giải thoát.
Đúng vậy, một
pháp môn tu tập làm chủ được những nỗi khổ đau của kiếp người: Sanh, già, bệnh,
chết; một pháp
môn tuyệt vời, với
nền đạo
đức không làm khổ mình
khổ người, khổ chúng sanh.
Trên đời
này nếu ai đủ duyên
gặp được Giới Luật
và pháp môn Tứ Niệm Xứ của Phật
là người
có phước báu đầy đủ
mà đức Phật
đã xác định: “Dùng chánh pháp làm ngọn
đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương
tựa, không nương tựa một điều gì
khác. Những vị ấy, này Ananda, là những vị
tối thượng trong hàng Tỳ Kheo của Như
Lai”. Đức Phật dùng những danh từ
“Tối Thượng” và xứng đáng “của Như Lai” này, tán thán rất đúng nghĩa, vì trên đời
này không có pháp môn nào làm chủ được những sự đau khổ như vậy.
Những lời dạy trên
đây là những
lời sách tấn chân thật của đức Phật,
thiết tha kêu gọi chúng ta hãy tin tưởng nổ lực tu hành đừng sợ gian khổ, đừng chùng
bước trước mọi sự gian nan thử thách.
NGƯỜI MỚI TU TẬP VẪN
TU TẬP PHÁP MÔN TỨ NIỆM XỨ
Pháp môn Tứ
Niệm Xứ có ba giai đoạn tu
tập:
Xứ.
1- Tứ Chánh Cần tu tập trên Tứ Niệm Xứ.
2- Tứ Niệm Xứ tu tập trên Tứ Niệm Xứ.
3- Thân Hành Niệm tu tập trên Tứ Niệm
Cho nên, người
mới xuất gia vẫn tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ,
nhưng phải tu tập ở giai
đoạn đầu Tứ Chánh
Cần. Chúng ta hãy
lắng nghe đức
Phật dạy: “Những
Tỳ Kheo nào, này
các Tỳ Kheo,
mới xuất gia
tu chẳng bao lâu, mới đến trong
những pháp luật này, những
Tỳ Kheo ấy,
này các Tỳ Kheo, cần phải được khích lệ
(samàdapetabbà) cần phải
được hướng dẫn, cần phải được
an trú, tu tập Bốn Niệm Xứ (thân, thọ, tâm, pháp), hãy
chuyên chú với
tâm thanh tịnh, định tỉnh nhất
tâm để có chánh trí như
thật đối với các pháp”.
Tứ niệm Xứ
là giáo trình tu học cho lớp Chánh Niệm mà lớp Chánh
Niệm là lớp thứ
bảy của tám lớp học (Bát Chánh Đạo). Vậy mà người mới tu sao lại được học lớp
này?
Nếu một
người không có
tu tập thì không thể nào hiểu được pháp môn Tứ Niệm
Xứ mà cũng không hiểu
được Giới Luật.
Như trên đã nói Tứ Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập:
1/ Tứ Chánh
Cần tu tập trên Tứ Niệm Xứ. Giai đoạn này người
mới tu vẫn tu tập được và tu tập như vậy mới có căn bản.
2/ Tứ niệm Xứ tu tập trên Tứ Niệm Xứ.
Giai đoạn rất khó
tu, nếu mất
căn bản thì không nhiếp phục tham ưu trên thân, thọ,
tâm và pháp.
3/ Thân Hành
Niệm tu tập trên Tứ Niệm Xứ. Giai đoạn này là giai đoạn cuối cùng của Tứ Niệm Xứ,
nó chuyên tu tập để rèn luyện ý thức lực
cho mạnh mẽ, truyền lệnh để thực hiện Tứ
Như Ý Túc.
Còn giới luật cũng có
ba động tác đạo đức phải thực
hiện hằng ngày
là: giới đức,
giới hạnh, giới hành.
Thực hiện giới
luật là phải luôn
luôn thực hiện với tri kiến, cho nên kinh dạy:
“Giới luật ở
đâu là tri kiến
ở đó, tri kiến ở đâu là
giới luật ở đó, giới
luật làm thanh tịnh tri kiến,
tri kiến làm thanh tịnh giới luật”.
Nếu người tu sĩ và người cư sĩ không thực hiện giới luật nghiêm chỉnh,
còn vi phạm những lỗi nhỏ nhặt, không
thấy xấu hổ và
sợ hãi thì tu
Tứ Niệm Xứ chẳng bao giờ
có kết quả rốt ráo, chỉ hoài công vô ích mà thôi, uổng phí một đời tu.
Cho
nên, nhờ
có kinh nghiệm tu tập các bạn
mới hiểu được đoạn
kinh trên đây nói tu
tập Tứ Niệm Xứ, nhưng kỳ thật là tu tập Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ.
tập:
Trong Tứ Chánh Cần, gồm có bốn pháp tu
1- Chánh Niệm
Tỉnh Giác Định.
2- Định Vô Lậu.
3- Định Sáng
Suốt.
4- Định Niệm
Hơi Thở.
Những loại định
này đều
tu tập trên Tứ
Niệm Xứ. Vì
thế, người mới vào tu đều phải bắt đầu
tu tập bốn loại định này.
Nếu ai không
tu tập bốn loại định này mà tu tập pháp nào khác thì không phải là tu tập
Tứ Niệm Xứ. Không phải tu tập Tứ Niệm Xứ
là tu tập sai pháp của Phật, tu theo
ngoại đạo. Cho
nên, đoạn kinh trên đã xác định rõ ràng, xin các bạn
lưu ý.
TỨ THÁNH
QUẢ ĐỀU DO TỨ NIỆM
XỨ MÀ THÀNH
Chánh Niệm Tỉnh
Giác là một tên khác của Tứ Niệm Xứ. Cho
nên nói Chánh
Niệm Tỉnh Giác là nói đến pháp môn Tứ Niệm Xứ.
Thưa các bạn!
Chánh Niệm Tỉnh Giác (Tứ Niệm Xứ) còn đưa chúng ta đến chứng bốn quả
Thánh: Tu Đà Hoàn,
Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán. Vậy, muốn tu chứng bốn
Thánh quả
này thì tu Tứ
Niệm Xứ như thế nào để đạt được bốn Thánh quả.
Khi tu tập
làm cho sung mãn Tứ Niệm Xứ thì nội tâm ta có mười thần lực, nhờ mười thần lực này
chúng ta mới
nhập Sơ Thiền,
Nhị Thiền, Tam Thiền,
Tứ Thiền và mỗi Thiền tương ưng vào mỗi quả như dưới đây:
Nếu muốn tu
tập để chứng bốn Thánh quả thì phải tu tập
bốn Thiền, có tu tập bốn Thiền mới
có chứng những
quả theo thứ tự như
sau
đây:
• Tu tập nhập
“Sơ Thiền” là tu tập để chứng quả Thánh
“Tu Đà Hoàn”.
Ngoài pháp “Sơ Thiền”
không thể tìm quả
giải thoát “Tu Đà Hoàn” được.
• Tu tập nhập
“Nhị Thiền” là tu tập để chứng Thánh quả “Tư Đà Hàm”. Ngoài pháp “Nhị Thiền”
không thể tìm quả giải thoát “Tư Đà Hàm” được.
• Tu tập nhập “Tam Thiền” là tu tập để chứng Thánh
quả “A Na
Hàm”. Ngoài pháp “Tam Thiền” không thể tìm quả giải thoát “A Na Hàm” được.
• Tu tập
nhập “Tứ Thiền” là
tu tập để chứng
Thánh quả “A
La Hán vô lậu và hướng tâm đến Tam Minh”. Ngoài pháp “Tứ
Thiền” không thể tìm quả giải thoát “A La Hán” được.
Theo Đạo Phật,
ai tu tập đâu là có kết quả ngay liền, bất cứ pháp môn nào, nếu không tu tập
thì thôi, bằng hễ có tu tập là có kết quả của pháp đó. Kết quả của pháp
đó gọi là chứng pháp.
Giới luật cũng
như vậy, ai giữ gìn được
một giới là có kết quả lìa một ác pháp, lìa một tâm dục. Cho nên,
có những người
không hiểu về giới luật của Phật,
họ không biết rằng: Giới luật Phật chính
là nền đạo đức nhân bản – nhân quả, tức là đạo đức của loài người, họ
cho rằng những giới luật của Phật hiện giờ không phù hợp với thời đại khoa học công
kĩ nghệ hiện đại hóa
xã hội. Điều này
sai, vì khoa học kĩ nghệ hiện đại
hoá xã hội
thì giới luật (đạo đức)
rất cần thiết
cho mọi người để quân
bình xã hội. Còn đời
sống của
Tăng, Ni và cư sĩ
thì cũng không nên bỏ một giới luật nhỏ nhặt nào cả, giới luật là hành động đạo đức
của đời sống tu sĩ và cư sĩ; giới luật là Phạm hạnh của người tu “xả
phú cầu bần, xả
thân cầu đạo”.
Tại sao lại bỏ?
Tất cả giới
luật của Phật, dù giới lớn, giới nhỏ nhặt, giới trọng,
giới khinh, v.v.. Giới nào nó
cũng đều là những hành động đức hạnh làm
Người, làm Thánh mà mọi người
trên thế gian này, ai ai cũng cần
phải học tập để sống không làm khổ mình,
khổ người và khổ chúng sanh, bằng giới luật đạo đức
thương yêu, tha thứ để đem lại
hạnh phúc, yên
vui cho nhau mãi mãi trong
cuộc đời này.
Vì thế, làm
sao bỏ những giới nhỏ nhặt. Phải
không các bạn?
Chỉ có những người
vô minh sống
phạm giới, phá giới,
bẻ vụn giới,
họ không hiểu
giới luật là đạo đức làm
Người, làm Thánh
của những bậc tu hành chân chính; họ không biết giới luật
là thiện pháp để chuyển
hóa nhân quả, đem lại đời sống an
vui hạnh phúc cho họ. Vì thế, họ mới dám tuyên bố bỏ những giới nhỏ nhặt, chà đạp
lên giới luật, xem thường người Phật tử chẳng hiểu biết gì về giới luật của Phật
cả, nên quý Thầy mặc sức tung hoành ăn uống
phi thời, ngồi
quán, ngồi lều,
nhậu nhẹt rượu chè
say sưa, chạy xe lạng lách,
xem ca hát và tự ca hát,
v.v.. họ không còn
xem Phật giáo là một
tôn giáo mà
là một nghề
mê tín khéo lừa người để sống.
Õ
SÁU ĐIỀU CUNG KÍNH PHÁP
LỜI PHẬT DẠY
1) Này
các Hiền Giả, ở đây
vị Tỳ
Kheo sống
cung kính, tuỳ thuận bậc Đạo
Sư.
2) Sống cung
kính, tùy thuận pháp.
3) Sống cung
kính, tuỳ thuận chúng
Tăng.
4) Sống cung
kính, tuỳ thuận học pháp.
5) Sống cung
kính, tuỳ thuận không phóng dật.
6) Sống
cung kính, tuỳ
thuận lễ phép xã giao. (Tức là
khéo léo thiện xảo thích ứng trong mọi hoàn
cảnh về oai nghi
tế hạnh của một người tu tập,
theo
chánh pháp
Nguyên Thuỷ).
CHÚ GIẢI:
Đức Phật dạy chúng
ta có sáu điều phải
cung
kính, phải tuỳ
thuận. Vậy, cung kính
và tuỳ thuận nghĩa là gì?
Cung
kính là tỏ lòng tôn trọng, kính mến, không
có chút lòng
khinh bỉ xem thường, luôn luôn ngưỡng mộ mến yêu.
Tùy thuận là
bằng lòng sống và làm theo đúng
không sai một li
hào nào,
làm y như... làm giống như... không sai khác.
1- “Sống
cung kính, tuỳ
thuận bậc Đạo Sư”. Người
tu sĩ và người cư sĩ
khi chọn một vị Thầy xứng đáng làm Thầy của mình thì phải hết lòng cung kính tôn trọng là phải sống như Thầy của mình.
Ví dụ: Chúng
ta cung kính và
tôn trọng đức Phật, không có
nghĩa là đến chùa cúng bái, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, hoặc chiêm ngưỡng
dung nhan Phật hoặc quỳ lạy. Sự cung kính
như vậy là
hình thức bên
ngoài, không nói lên được
lòng cung kính ở nội tâm.
Theo nghĩa đức Phật dạy, tùy thuận tức là sống
như Phật, Phật sống như thế nào mình
sẽ sống như vậy, sống giống
như Phật thì mới
gọi là cung kính,
tôn trọng Phật.
Nếu ai chấp
hành nghiêm chỉnh sống như Phật, làm như Phật thì người ấy hoàn toàn giải thoát
không còn khổ đau.
Ví dụ: Phật
sống 10 phần, chúng
ta mới bắt đầu tập sống
như Phật một phần, rồi cố
gắng lên 2 phần, 3 phần, 4 phần, 5, 6, 7, 8, 9,
10 phần. Khi
sống đúng 10 phần là sống y như
Phật.
Trước khi muốn
sống như Phật chúng ta nên xem xét đức Phật sống
như thế nào?
Khi ăn, khi ngủ, khi đi,
khi đứng, khi nằm, khi ngồi,
khi nói chuyện, khi làm
thinh, khi quét sân, khi nhổ cỏ, khi đi khất thực, v.v..
Có quan
sát như vậy,
chúng ta mới cố
gắng bắt chước sống như Phật, làm như Phật. Sống như Phật, làm như Phật không
phải dễ, phải cố gắng
rèn luyện tập sống hằng
ngày từng hành động
thì có thể sống
như Phật mới được.
Tóm lại, sống
như Phật, làm như Phật là tôn trọng, cung kính,
thương mến, tùy thuận Phật.
2- “Sống
cung kính, tuỳ thuận Pháp”. Cung kính, tùy
thuận các bạn
đã hiểu nghĩa, còn pháp thì phải hiểu cho rõ ràng, bởi
vì trên
đời này có rất
nhiều pháp, nhưng toàn là pháp ảo tưởng trừu
tượng mê tín, tu
tập không đến đâu cả.
Muốn sống
tu hành để
thoát ra lưới nhân quả thì duy nhất chỉ có Pháp Thiện,
nhưng Thiện là một danh từ chỉ chung chung, vì thế phải từ trên pháp Tứ Niệm Xứ.
Trên pháp Tứ Niệm Xứ ta phải tu tập từ
pháp dễ đến pháp khó
hơn. Bắt đầu
là phải tu
pháp Tứ Chánh Cần,
trên Tứ Chánh
cần ta phải
tu Tứ Bất Hoại
Tịnh. Tu Tứ Bất Hoại Tịnh
là phải
sống như Phật, như
Pháp, như Tăng,
như Giới. Muốn sống như Phật, như
Pháp, như Tăng, như Giới thì phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm. Muốn tu tập Tứ
Vô Lượng Tâm ta phải tu tập Định Niệm
Hơi Thở, Định Sáng
Suốt, Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Khi chọn
pháp xong, mỗi khi muốn tu tập một
pháp nào ta hãy ăn mặc tề chỉnh, hướng về
pháp mà đảnh lễ ba lạy,
rồi bắt đầu sống
như pháp, sống như pháp mà chúng ta gọi là tu
tập.
Đây là điều cung
kính thứ hai
mà đức Phật đã dạy: “Sống cung
kính tùy thuận Pháp”. Ngoài những
pháp đã học ở trên
(37
phẩm trợ đạo),
còn những pháp khác thì chúng ta không cung kính và tùy thuận.
Một người tu
theo Đạo Phật cần nên lưu ý để thực hiện
cho đúng lời dạy trên đây để khỏi phụ
lòng một bậc Thầy vĩ đại.
3- “Sống
cung kính, tuỳ thuận chúng Tăng”. Tăng
là một bậc Đạo Sư của
chúng ta, vì thế,
chúng ta phải
chọn lựa cho kỹ
lưỡng. Bởi vì Tăng
có rất nhiều hạng
nhưng gồm chung lại chia làm hai
dạng:
1/ Tăng phạm
giới, pháp giới, bẻ vụn giới, chà đạp giới,
xem thường giới,
khéo che đậy
giới.
2/ Tăng
thanh tịnh giới,
không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào.
Trong hai hạng
Tăng này, chúng ta hãy chọn Tăng
thanh tịnh giới làm
Thầy, làm Đạo Sư. Khi chọn đúng bậc Đạo Sư thì ta nên y
chỉ sống như bậc Đạo Sư của
mình không hề sai
khác của Người, lúc nào cũng gần gũi thân cận Người để thưa hỏi những điều cần
biết, cần tu tập. Có sống
như bậc Đạo Sư
và thưa
hỏi cặn kẽ tất cả những thiện pháp để tránh những ác pháp có sống đúng
như vậy thì mới xứng
đáng
lời dạy của Phật:
“Sống cung kính,
tuỳ
thuận chúng
Tăng”.
Sống cung kính,
tuỳ thuận chúng
Tăng là sống như trên đã dạy, chứ
không phải cúng dường trai tăng như trong các chùa Đại Thừa hoặc chúng
Tăng phạm giới
phá giới cũng không dám nói, không dám chỉ thẳng những
sự sai phạm đó
là cung kính,
tuỳ thuận. Cung kính,
tùy thuận như vậy là
sai không đúng pháp.
Bởi, cung
kính Tăng là phải cung kính cho đúng pháp. Thấy Tăng sai thì nên nói thẳng
để chúng Tăng sửa sai lại. Dám nói thẳng như vậy là cung kính Tăng, không dám nói thẳng là không cung
kính Tăng.
Vấn đề sống cung kính,
tuỳ thuận chúng Tăng là vấn đề hết sức tế nhị, các bạn
muốn sống được như vậy, khi thấy một vị
Tăng phạm giới thì mau mau thẳng thắn
nói rõ ra. Đó
là cung kính, tùy thuận
chúng Tăng. Xin
các bạn nên lưu ý.
4- “Sống
cung kính, tuỳ thuận học Pháp (Giới Luật)”.
Trước khi sống tùy
thuận giới luật chúng ta phải nghiên cứu tất cả hạnh Phạm Thiên. Hạnh Phạm Thiên tức là giới
luật
của Phật,
giới luật Phật
có trước Phật
là vì Phạm Thiên có trước.
Trong kinh thường nhắc đến hạnh Phạm Thiên. Hạnh Phạm Thiên gồm
có giới đức, giới hạnh và giới hành.
Tất cả các
tôn giáo giáo khác đều có giới luật, nhưng giới luật của họ là giáo điều chứ
không phải là đức hạnh nhân bản - nhân quả sống
không làm khổ mình, khổ
người như Đạo Phật.
Khi
chúng ta
đã chọn giới
làm cuộc sống cho mình
thì lúc nào cũng
phải sống như giới,
giới luật dạy sao ta làm đúng và sống đúng như vậy, không
hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt
nào, thì đó là ta đã
sống cung kính, tuỳ
thuận giới. Sống cung kính, tuỳ thuận giới mang đến cho chúng ta
có một tâm hồn cao thượng
tuyệt vời luôn sống
không làm khổ
mình, khổ người
và khổ tất cả chúng sanh. Sống đúng giới là mang đến hạnh phúc an vui
cho muôn loài mà chính giới luật mang lại
sự giải thoát sinh, già, bệnh, chết và
chấm dứt luân hồi. Hạnh phúc vui thay cho những
ai biết sống
đúng giới. Sống
đúng giới, tức là sống đúng lời dạy
của đức Phật: “Sống cung kính, tuỳ thuận
Giới”.
Chúng tôi ước
mong sao trên cuộc đời này mọi người đều sống
đúng như Giới thì cuộc đời này là Thiên Đàng, Cực Lạc.
5- “Sống
cung kính, tuỳ thuận không phóng dật”. Sống
cung kính, tuỳ thuận không phóng dật
là sống độc
cư. Sống độc cư là
sống phòng hộ sáu
căn. Sống phòng
hộ sáu căn là
giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý không cho dính mắc sáu trần: sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp.
Nói độc cư thì dễ
nhưng sống đúng độc cư không phải
dễ. Không sống đúng độc cư thì không bao
giờ có giải thoát.
Ở đây Phật dạy: “Sống cung kính, tuỳ thuận không
phóng dật”, có
nghĩa là phải cung kính, tôn trọng hạnh độc cư, vì
có cung kính, tôn trọng hạnh độc cư thì tâm mới không
phóng dật. Chúng
ta hãy nghe đức Phật
nói: “Ta thành chánh giác là nhờ tâm
không phóng dật”. Vậy,
tâm còn phóng
dật là tâm chưa giải thoát.
Thưa các bạn!
Các bạn đã về tu viện Chơn Như tu tập. Các bạn có thấy chăng? Tất cả tu sĩ và
cư sĩ về đây tu tập họ không sống đúng
giới luật ba đức ba hạnh,
nhất là không cung kính,
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!