Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

những lời gốc phật dạy - tập 2 -13



về  giới  luật.  Vì  giới  luật  rất  quan  trọng  trên con đường tu tập giải thoát. Muốn ước nguyện kết quả một điều gì trong sự tu tập thì giới luật phải nghiêm chỉnh. Ở đây, tu tập Tứ Niệm Xứ đức Phật cũng dạy chúng ta lấy giới luật và tri kiến làm  nền  tảng  cho sự  nhiếp  phục  những tham  ưu trên  Tứ  Niệm  Xứ,  nghĩa  là  muốn  đẩy lui  những  sự  khổ  đau trên  thân,  thọ,  tâm  và pháp thì giới luật phải nghiêm chỉnh. Giới luật nghiêm  chỉnh  thì tri kiến thanh  tịnh,  tri kiến thanh tịnh thì giới luật mới nghiêm chỉnh. Giới luật   làm   thanh   tịnh   tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật. Đó là nền tảng vững chắc để chúng ta tu tập Tứ Niệm Xứ. Vì thế, các bạn hãy lưu ý đoạn kinh này: “các Thầy hãy y cứ trên giới, an trú trên giới tu tập BỐN NIỆM XỨ:  thân,  thọ,  tâm,  pháp”  thì các bạn tu tập sẽ  làm  chủ  bốn  sự  đau khổ;  sanh,  già,  bệnh, chết.

TỨ  NIỆM XỨ  LÀ  NGỌN  ĐÈN  SOI  SÁNG LÀ CHỖ NƯƠNG TỰA VỮNG CHẮC
Pháp  môn  Tứ   Niệm  Xứ  quan  trọng  như thế nào mà đức Phật luôn nhắc nhở ông A Nan hãy  lấy  pháp  môn  Tứ  Niệm  Xứ  làm  ngọn  đèn và  làm chỗ nương tựa vững chắc trên đường tu tập  cho  chính  mình.   Vậy,  các  bạn  hãy  lắng



nghe  và  suy nghĩ  cho kỹ  những  lời  đức  Phật
dạy:

1)  “Này  Ananda, hãy tự  mình là  ngọn đèn  cho  chính mình, hãy  tự  mình  nương tựa   chính  mình,  chớ   nương   tựa   một   gì khác,  dùng  chánh pháp  làm  ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương  tựa  một điều  gì khác.  Này  Ananda, thế  nào  là  Tỳ  Kheo  tự  mình là  ngọn đèn cho chính mình, tự  mình nương  tựa  chính mình, không nương  tựa  một  điều  gì khác, dùng  chánh pháp  làm  ngọn đèn,  dùng chánh pháp   làm   chỗ   nương   tựa,  không nương tựa một điều gì khác?”. Đoạn kinh trên  đức  Phật  muốn  giới  thiệu  một  pháp  môn rất  quan  trọng  cho cuộc  đời  tu  hành  của  các bạn, không phí công, phí sức, nên Ngài căn dặn ông A Nan rất kỹ lưỡng:
2)  “Ở  đây, này Ananda, Tỳ Kheo trú quán  thân trên  thân,  nhiệt  tâm  tỉnh  giác chánh niệm nhiếp phục tham  ưu ở  đời; trú quán thọ trên  các  thọ nhiệt  tâm  tỉnh  giác chánh niệm, nhiếp  phục tham   ưu  ở    đời; trú quán tâm trên tâm nhiệt tâm tỉnh giác chánh niệm, nhiếp  phục tham   ưu  ở    đời;



trú  quán pháp  trên  các  pháp  nhiệt  tâm tỉnh giác chánh niệm nhiếp phục tham  ưu ở    đời.  Như   vậy,  này  Ananda  Tỳ  Kheo  tự mình  là   ngọn  đèn   cho  chính  mình,  tự mình nương  tựa chính mình, không nương tựa  một  điều  gì khác,  dùng  chánh pháp làm  ngọn đèn,  dùng chánh pháp  làm  chỗ nương  tựa, không nương  tựa  một  điều  gì khác”.  Các bạn có nghe chăng? Tứ Niệm Xứ là ngọn đèn chánh pháp, là chỗ nương tựa vững chắc  cho các  bạn.  Như  vậy,  Tứ  Niệm  Xứ  đúng là một pháp môn rất quý báu nên đức Phật lặp đi  lặp  lại  nhiều  lần,  để   chúng  ta  đừng  quên pháp môn Tứ Niệm Xứ.
Lời  di  chúc  năm  xưa của  đức  Phật  trước khi nhập Niết Bàn, Ngài bảo các thầy Tỳ Kheo như  sau: “Này  các  Tỳ  kheo, sau khi Ta đã Niết  Bàn  hãy  lấy  giới  luật  và  giáo  pháp của  Ta  làm thầy, làm chỗ nương  tựa  vững chắc”. Đọc  những  đoạn  kinh trên  đây,  chúng ta mới nhận ra giới luật và giáo pháp của Ngài di chúc lại cho chúng ta là pháp môn Tứ Niệm Xứ. Như vậy các bạn đã rõ chưa?
Lấy  mình  làm  ngọn  đèn,  làm  chỗ  nương tựa vững chắc là ý muốn dạy điều gì đây?



Xin   thưa   cùng   các   bạn!   “Tự  mình  là ngọn đèn  cho chính  mình, tự  mình nương tựa   chính  mình,  không nương   tựa   một điều gì khác”. Để thấu rõ và xác định ý nghĩa của câu này, chúng tôi xin lặp lại: “Tự mình là ngọn đèn  cho chính  mình, tự  mình nương tựa chính mình”. Đó  là tri kiến của chúng ta đấy các bạn ạ!
Dùng chánh pháp làm ngọn đèn soi sáng, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác là ý Phật muốn dạy pháp môn gì đây?
Xin  thưa cùng các bạn! Đó là giới đức, giới hạnh, giới hành và pháp môn Tứ Niệm Xứ. Đọc đến những đoạn kinh trên đây, chắc các bạn đã thấu hiểu và phân biệt chánh pháp của Phật là pháp nào, còn tà pháp của ngoại đạo là pháp nào? Nếu không có những lời xác định chánh pháp của Phật thì đứng trước rừng kinh sách hiện giờ, các bạn dễ  rơi vào kiến giải tưởng của ngoại đạo.
Tóm lại,  khi tu  hành  theo  Phật  giáo  thì không  nên  tu  tập  bất  cứ  một  pháp  môn  nào khác mà chỉ  nên tu tập Tri Kiến, Giới Luật và Tứ Niệm Xứ.



NGƯỜI TU  TẬP  PHÁP MÔN TỨ  NIỆM XỨ LÀ NHỮNG  NGƯỜI TỐI THƯỢNG  TRONG HÀNG TỲ KHEO CỦA NHƯ  LAI
Một  lần  nữa  chúng  ta  hãy  nghe đức  Phật ca ngợi tán  thán  pháp  môn  Tứ  Niệm  Xứ  trước khi vào Niết Bàn:
3)  “Này  Ananda, những  ai hiện nay, hay  sau  khi   ta  diệt  độ,  tự  mình là  ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương  tựa  một điều  gì khác,  dùng  chánh pháp  làm  ngọn đèn, dùng  chánh pháp  làm  chỗ  nương  tựa, không nương  tựa một điều gì khác. Những vị  ấy,  này Ananda, là  những vị  tối thượng trong   hàng Tỳ   Kheo  của   Như   Lai.  Nếu những  vị  ấy  nhiệt  tâm  tinh cần  tha  thiết học  hỏi”.  Xem  thế,  chúng  ta  mới  thấy  Tri Kiến, Giới Luật và pháp môn Tứ Niệm Xứ rất quan trọng trên đường tìm tu giải thoát.
Đúng vậy, một pháp môn tu tập làm chủ được những nỗi khổ đau của kiếp người: Sanh, già,  bệnh,  chết;  một  pháp  môn  tuyệt  vời,  với nền  đạo  đức  không  làm  khổ  mình  khổ  người, khổ chúng sanh.




Trên  đời  này  nếu  ai  đủ   duyên  gặp  được Giới  Luật  và  pháp  môn  Tứ  Niệm  Xứ  của  Phật là  người  có  phước  báu  đầy  đủ  mà  đức  Phật  đã xác định: “Dùng chánh pháp làm ngọn  đèn, dùng  chánh pháp  làm  chỗ  nương  tựa, không nương  tựa một điều gì khác. Những vị  ấy,  này Ananda, là  những vị  tối thượng trong   hàng Tỳ  Kheo  của  Như   Lai”.  Đức Phật dùng những danh từ “Tối Thượng” và xứng đáng “của Như Lai” này, tán thán rất đúng nghĩa, vì trên đời này không có pháp môn nào làm chủ được những sự đau khổ như vậy.
Những  lời dạy trên  đây  là  những  lời  sách tấn chân thật của đức Phật, thiết tha kêu gọi chúng ta hãy tin tưởng nổ lực tu hành đừng sợ gian  khổ,  đừng  chùng  bước  trước  mọi  sự  gian nan thử thách.

NGƯỜI MỚI  TU  TẬP  VẪN  TU  TẬP  PHÁP MÔN TỨ NIỆM XỨ
Pháp  môn Tứ  Niệm  Xứ có ba giai  đoạn tu

tập:






Xứ.



1-  Tứ Chánh Cần tu tập trên Tứ Niệm Xứ.

2-  Tứ Niệm Xứ tu tập trên Tứ Niệm Xứ.

3-  Thân Hành Niệm tu tập trên Tứ  Niệm



Cho nên, người mới xuất gia vẫn tu tập pháp  môn  Tứ  Niệm  Xứ,  nhưng  phải  tu  tập  ở giai  đoạn đầu  Tứ   Chánh  Cần.  Chúng  ta  hãy lắng  nghe  đức   Phật  dạy:  “Những   Tỳ   Kheo nào,   này  các  Tỳ   Kheo,  mới   xuất   gia  tu chẳng bao lâu, mới đến trong  những pháp luật  này,  những  Tỳ  Kheo  ấy,  này  các  Tỳ Kheo, cần phải được khích lệ (samàdapetabbà)   cần   phải   được   hướng dẫn,  cần  phải  được  an   trú,  tu  tập  Bốn Niệm Xứ (thân, thọ, tâm, pháp), hãy chuyên  chú  với  tâm  thanh tịnh, định tỉnh nhất tâm để  có  chánh trí như  thật đối với các pháp”.
Tứ niệm Xứ là giáo trình tu học cho lớp Chánh  Niệm  mà  lớp  Chánh  Niệm  là  lớp  thứ bảy của tám lớp học (Bát Chánh Đạo). Vậy mà người mới tu sao lại được học lớp này?
Nếu  một  người  không  có  tu  tập  thì không thể nào hiểu được pháp môn Tứ Niệm Xứ mà cũng  không  hiểu  được  Giới  Luật.  Như  trên  đã nói Tứ Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập:
1/ Tứ Chánh Cần tu tập trên Tứ Niệm Xứ. Giai đoạn này người  mới tu vẫn tu tập được và tu tập như vậy mới có căn bản.



2/ Tứ  niệm  Xứ  tu  tập  trên  Tứ  Niệm  Xứ. Giai  đoạn rất  khó  tu,  nếu  mất  căn  bản  thì không nhiếp phục tham ưu trên thân, thọ, tâm và pháp.
3/ Thân Hành Niệm tu tập trên Tứ Niệm Xứ. Giai đoạn này là giai đoạn cuối cùng của Tứ Niệm Xứ, nó chuyên tu tập để  rèn luyện ý thức lực cho mạnh mẽ, truyền lệnh để  thực hiện Tứ Như Ý Túc.
Còn giới luật  cũng có  ba động tác đạo  đức phải  thực  hiện  hằng  ngày  là:  giới  đức,  giới hạnh,  giới  hành.  Thực  hiện  giới  luật  là  phải luôn  luôn  thực  hiện  với  tri kiến, cho nên  kinh dạy:  “Giới  luật  ở   đâu  là  tri kiến  ở   đó, tri kiến ở  đâu là  giới luật  ở đó,    giới  luật làm thanh  tịnh  tri kiến,  tri kiến  làm  thanh tịnh giới  luật”.  Nếu người tu sĩ và người cư sĩ không thực hiện giới luật nghiêm chỉnh, còn vi phạm những  lỗi  nhỏ  nhặt,  không  thấy  xấu  hổ và  sợ  hãi  thì tu  Tứ  Niệm  Xứ  chẳng  bao giờ  có kết quả rốt ráo, chỉ hoài công vô ích mà thôi, uổng phí một đời tu.
Cho nên,  nhờ  có  kinh nghiệm  tu  tập  các bạn  mới  hiểu  được đoạn  kinh trên  đây  nói  tu tập Tứ Niệm Xứ, nhưng kỳ thật là tu tập Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ.






tập:

Trong  Tứ Chánh Cần, gồm có bốn pháp tu


1- Chánh Niệm Tỉnh Giác Định.

2- Định Vô Lậu.

3- Định Sáng Suốt.

4- Định Niệm Hơi Thở.

Những  loại  định này  đều  tu  tập  trên  Tứ

Niệm Xứ. Vì thế, người mới vào tu đều phải bắt đầu  tu  tập  bốn  loại  định này.  Nếu  ai  không  tu tập bốn loại định này mà tu tập pháp nào khác thì không phải là tu tập Tứ Niệm Xứ. Không phải tu tập Tứ  Niệm Xứ là tu tập sai pháp của Phật,  tu  theo  ngoại  đạo.  Cho  nên,  đoạn  kinh trên đã xác định rõ ràng, xin các bạn lưu ý.

TỨ  THÁNH  QUẢ  ĐỀU DO  TỨ  NIỆM XỨ MÀ THÀNH
Chánh Niệm Tỉnh Giác là một tên khác của  Tứ  Niệm  Xứ.  Cho  nên  nói  Chánh  Niệm Tỉnh Giác là nói đến pháp môn Tứ Niệm Xứ.
Thưa các bạn! Chánh Niệm Tỉnh Giác (Tứ Niệm Xứ) còn đưa chúng ta đến chứng bốn quả Thánh:  Tu Đà  Hoàn,  Tư Đà  Hàm,  A Na Hàm, A La Hán. Vậy, muốn tu chứng bốn Thánh quả



này thì tu Tứ Niệm Xứ như thế nào để đạt được bốn Thánh quả.
Khi tu tập làm cho sung mãn Tứ Niệm Xứ thì nội tâm ta có mười thần lực, nhờ mười thần lực   này   chúng   ta   mới   nhập   Sơ  Thiền,   Nhị Thiền,  Tam  Thiền,  Tứ   Thiền  và  mỗi   Thiền tương ưng vào mỗi quả như dưới đây:
Nếu muốn tu tập để  chứng bốn Thánh quả thì phải tu tập bốn Thiền, có tu tập bốn Thiền mới  có  chứng  những  quả  theo  thứ  tự  như  sau
đây:

• Tu tập nhập “Sơ Thiền” là tu tập để chứng  quả  Thánh  “Tu  Đà  Hoàn”.  Ngoài  pháp “Sơ  Thiền”  không  thể  tìm quả  giải  thoát  “Tu Đà Hoàn” được.
• Tu tập nhập “Nhị Thiền” là tu tập để chứng Thánh quả “Tư Đà Hàm”. Ngoài pháp “Nhị Thiền” không thể tìm quả giải thoát “Tư Đà Hàm” được.
•  Tu tập nhập “Tam Thiền” là tu tập để chứng  Thánh  quả  “A  Na   Hàm”.  Ngoài  pháp “Tam Thiền”  không thể tìm quả giải thoát “A Na  Hàm” được.



•   Tu tập  nhập  “Tứ Thiền”  là  tu  tập  để chứng   Thánh   quả   “A   La  Hán   vô   lậu   và hướng tâm đến Tam Minh”. Ngoài pháp “Tứ Thiền” không thể tìm quả giải thoát “A La Hán” được.
Theo Đạo Phật, ai tu tập đâu là có kết quả ngay liền, bất cứ pháp môn nào, nếu không tu tập thì thôi, bằng hễ có tu tập là có kết quả của pháp  đó.   Kết  quả  của  pháp  đó gọi   là  chứng pháp.  Giới  luật  cũng  như  vậy,  ai  giữ  gìn  được một giới là có kết quả lìa một ác pháp, lìa một tâm  dục. Cho nên,  có  những  người  không  hiểu về giới luật của Phật, họ không biết rằng: Giới luật  Phật  chính  là  nền  đạo   đức  nhân  bản  – nhân quả, tức là đạo đức của loài người, họ cho rằng những giới luật của Phật hiện giờ không phù  hợp  với  thời  đại  khoa  học  công  kĩ nghệ hiện  đại  hóa  xã  hội.  Điều này  sai, vì khoa học kĩ nghệ  hiện  đại  hoá  xã  hội  thì giới  luật  (đạo đức)  rất  cần  thiết  cho mọi người  để  quân  bình xã  hội.  Còn  đời sống  của  Tăng,  Ni và  cư sĩ  thì cũng không nên bỏ một giới luật nhỏ nhặt nào cả, giới luật là hành động  đạo  đức của đời sống tu sĩ và cư sĩ; giới luật là Phạm hạnh của người tu  “xả  phú cầu  bần,  xả  thân  cầu  đạo”.  Tại sao lại bỏ?



Tất cả giới luật của Phật, dù giới lớn, giới nhỏ  nhặt,  giới trọng,  giới khinh, v.v.. Giới  nào nó cũng đều là những hành động  đức hạnh làm Người, làm Thánh  mà  mọi người  trên thế  gian này, ai ai cũng cần phải học tập để  sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh, bằng  giới  luật  đạo  đức  thương  yêu,  tha  thứ  để đem lại  hạnh  phúc,  yên  vui  cho nhau mãi  mãi trong  cuộc  đời  này.  Vì  thế,  làm  sao bỏ  những giới nhỏ nhặt. Phải không các bạn?
Chỉ  có  những  người  vô  minh  sống  phạm giới,  phá  giới,  bẻ  vụn  giới,  họ  không  hiểu  giới luật  là  đạo   đức  làm  Người,  làm  Thánh  của những bậc tu hành chân chính; họ không biết giới  luật  là  thiện  pháp  để   chuyển  hóa  nhân quả, đem lại đời sống an vui hạnh phúc cho họ. Vì thế, họ mới dám tuyên bố bỏ những giới nhỏ nhặt, chà đạp lên giới luật, xem thường người Phật tử chẳng hiểu biết gì về giới luật của Phật cả, nên quý  Thầy mặc sức tung hoành ăn uống phi  thời,  ngồi  quán,  ngồi  lều,  nhậu  nhẹt  rượu chè  say sưa, chạy  xe lạng  lách,  xem ca hát  và tự  ca hát,  v.v.. họ  không  còn  xem Phật  giáo  là một  tôn  giáo  mà  là  một  nghề  mê  tín khéo  lừa người để sống.



Õ


SÁU ĐIỀU  CUNG KÍNH PHÁP


LỜI PHẬT DẠY

1)  Này  các  Hiền  Giả,  ở    đây  vị  Tỳ
Kheo sống cung kính, tuỳ thuận bậc Đạo
Sư.

2) Sống cung kính, tùy thuận pháp.

3) Sống cung kính, tuỳ thuận chúng
Tăng.

4) Sống cung kính, tuỳ thuận học pháp.
5) Sống cung kính, tuỳ thuận không phóng dật.
6)   Sống   cung   kính,  tuỳ   thuận   lễ phép xã giao. (Tức là khéo léo thiện xảo thích ứng  trong   mọi hoàn  cảnh  về  oai nghi  tế  hạnh của một người tu tập, theo
chánh pháp Nguyên Thuỷ).



CHÚ GIẢI:



Đức  Phật  dạy  chúng  ta  có  sáu  điều  phải
cung kính,  phải  tuỳ  thuận.  Vậy,  cung kính  và tuỳ thuận nghĩa là gì?
Cung kính  là tỏ lòng tôn trọng, kính  mến, không  có  chút  lòng  khinh bỉ  xem thường,  luôn luôn ngưỡng mộ mến yêu.
Tùy thuận là bằng lòng sống và làm theo đúng  không  sai  một  li hào  nào,  làm  y  như... làm giống như... không sai khác.
1-  “Sống  cung  kính,  tuỳ   thuận   bậc Đạo  Sư”. Người  tu  sĩ  và  người  cư sĩ  khi chọn một vị Thầy xứng đáng làm Thầy của mình  thì phải hết lòng cung kính  tôn trọng là phải sống như Thầy của mình.
Ví  dụ: Chúng  ta  cung kính  và  tôn  trọng đức Phật, không có nghĩa là đến chùa cúng bái, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, hoặc chiêm ngưỡng dung nhan Phật hoặc quỳ lạy. Sự cung kính   như  vậy  là  hình  thức  bên  ngoài,  không nói  lên  được lòng  cung kính  ở    nội  tâm.  Theo nghĩa đức  Phật  dạy, tùy thuận tức là  sống  như Phật, Phật sống như thế nào mình  sẽ sống như vậy,  sống  giống  như  Phật  thì mới  gọi  là  cung kính,  tôn trọng Phật.



Nếu ai chấp hành nghiêm chỉnh sống như Phật, làm như Phật thì người ấy hoàn toàn giải thoát không còn khổ đau.
Ví  dụ: Phật  sống  10 phần,  chúng  ta  mới bắt  đầu  tập  sống  như  Phật  một  phần,  rồi  cố gắng lên 2 phần, 3 phần, 4 phần, 5, 6, 7, 8, 9,
10 phần. Khi sống đúng 10 phần là sống y như
Phật.

Trước khi muốn sống như Phật chúng ta nên  xem xét  đức  Phật  sống  như  thế  nào?  Khi ăn,  khi ngủ,  khi đi,  khi đứng,  khi nằm,  khi ngồi,  khi nói  chuyện,  khi làm  thinh, khi quét sân, khi nhổ cỏ, khi đi khất thực, v.v..
Có  quan  sát  như  vậy,  chúng  ta  mới  cố gắng bắt chước sống như Phật, làm như Phật. Sống như Phật, làm như Phật không phải dễ, phải  cố  gắng  rèn  luyện  tập  sống  hằng  ngày từng  hành  động  thì có  thể  sống  như Phật  mới được.
Tóm lại, sống như Phật, làm như Phật là tôn trọng, cung kính,  thương mến, tùy thuận Phật.
2- “Sống cung kính, tuỳ  thuận  Pháp”. Cung kính,  tùy  thuận  các  bạn  đã  hiểu  nghĩa, còn pháp thì phải hiểu cho rõ ràng, bởi vì trên



đời này có rất nhiều pháp, nhưng toàn là pháp ảo  tưởng  trừu  tượng  mê  tín, tu  tập  không  đến đâu cả.
Muốn  sống  tu  hành  để  thoát  ra lưới  nhân quả thì duy nhất chỉ có Pháp Thiện, nhưng Thiện là một danh từ chỉ chung chung, vì thế phải từ trên pháp Tứ Niệm Xứ. Trên pháp Tứ Niệm  Xứ  ta  phải  tu  tập  từ  pháp  dễ đến   pháp khó  hơn.  Bắt  đầu  là  phải  tu  pháp  Tứ  Chánh Cần,  trên  Tứ   Chánh  cần  ta  phải  tu  Tứ   Bất Hoại  Tịnh. Tu Tứ  Bất  Hoại  Tịnh là  phải  sống như   Phật,   như   Pháp,   như   Tăng,   như   Giới. Muốn sống như Phật, như Pháp, như Tăng, như Giới thì phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm. Muốn tu tập  Tứ   Vô  Lượng Tâm  ta  phải  tu  tập  Định Niệm  Hơi  Thở,  Định Sáng  Suốt,  Định Vô  Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Khi chọn pháp xong, mỗi khi muốn tu tập một  pháp  nào  ta  hãy  ăn  mặc  tề  chỉnh,  hướng về  pháp  mà  đảnh  lễ   ba lạy,  rồi  bắt  đầu  sống như pháp, sống như pháp mà chúng ta gọi là tu
tập.

Đây  là  điều  cung  kính   thứ  hai  mà  đức Phật đã dạy: “Sống cung kính tùy thuận Pháp”.  Ngoài  những  pháp  đã  học  ở    trên  (37



phẩm trợ đạo), còn những pháp khác thì chúng ta không cung kính  và tùy thuận.
Một người tu theo Đạo Phật cần nên lưu ý để  thực hiện cho đúng lời dạy trên đây để  khỏi phụ lòng một bậc Thầy vĩ đại.
3- “Sống cung kính, tuỳ  thuận chúng Tăng”.  Tăng  là  một  bậc  Đạo  Sư của  chúng  ta, vì  thế,  chúng  ta  phải  chọn  lựa  cho kỹ  lưỡng. Bởi  vì  Tăng  có  rất  nhiều  hạng  nhưng   gồm chung lại chia làm hai dạng:
1/ Tăng phạm giới, pháp giới, bẻ vụn giới, chà  đạp  giới,  xem  thường  giới,  khéo  che đậy
giới.

2/  Tăng   thanh   tịnh   giới,   không   hề   vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào.
Trong hai hạng Tăng này, chúng ta hãy chọn Tăng  thanh  tịnh  giới làm  Thầy,  làm  Đạo Sư. Khi chọn đúng bậc Đạo Sư thì ta nên y chỉ sống  như  bậc  Đạo  Sư của  mình  không  hề  sai khác của Người, lúc nào cũng gần gũi thân cận Người để thưa hỏi những điều cần biết, cần tu tập.  Có  sống  như  bậc  Đạo  Sư và  thưa  hỏi  cặn kẽ  tất cả những thiện pháp để  tránh những ác pháp  có  sống  đúng  như vậy  thì mới  xứng  đáng



lời  dạy   của   Phật:   “Sống   cung  kính,  tuỳ
thuận chúng Tăng”.

Sống  cung kính,  tuỳ  thuận  chúng  Tăng  là sống như trên đã dạy, chứ không phải cúng dường trai tăng như trong các chùa Đại Thừa hoặc   chúng   Tăng   phạm   giới  phá   giới   cũng không dám nói, không dám chỉ thẳng những sự sai  phạm  đó   là  cung  kính,   tuỳ  thuận.  Cung kính,   tùy  thuận  như  vậy  là  sai  không  đúng pháp.
Bởi, cung kính  Tăng là phải cung kính  cho đúng pháp. Thấy Tăng sai thì nên nói thẳng để chúng Tăng sửa sai lại. Dám nói thẳng như vậy là cung kính  Tăng, không dám nói thẳng là không cung kính  Tăng.
Vấn  đề sống  cung kính,  tuỳ  thuận  chúng Tăng là vấn đề hết sức tế nhị, các bạn muốn sống được  như vậy, khi thấy một vị Tăng phạm giới  thì mau mau thẳng  thắn  nói  rõ  ra. Đó  là cung kính,  tùy  thuận  chúng  Tăng.  Xin  các  bạn nên lưu ý.
4- “Sống cung kính, tuỳ thuận học Pháp  (Giới  Luật)”.  Trước  khi sống  tùy  thuận giới luật chúng ta phải nghiên cứu tất cả  hạnh Phạm Thiên. Hạnh Phạm Thiên tức là giới luật



của  Phật,  giới  luật  Phật  có  trước  Phật  là  vì Phạm Thiên có  trước.  Trong  kinh thường  nhắc đến hạnh Phạm Thiên. Hạnh Phạm Thiên gồm có giới đức, giới hạnh và giới hành.
Tất cả các tôn giáo giáo khác đều có giới luật, nhưng giới luật của họ là giáo điều chứ không phải là đức hạnh nhân bản - nhân quả sống  không làm khổ  mình,  khổ  người  như Đạo Phật.
Khi chúng  ta  đã  chọn  giới  làm  cuộc  sống cho mình  thì lúc  nào  cũng  phải  sống  như  giới, giới luật dạy sao ta làm đúng và sống đúng như vậy,  không  hề  vi phạm một  lỗi  nhỏ  nhặt  nào, thì đó  là  ta đã  sống  cung kính,  tuỳ  thuận  giới. Sống cung kính,  tuỳ thuận giới mang đến cho chúng  ta  có  một  tâm  hồn  cao thượng  tuyệt  vời luôn  sống  không  làm  khổ  mình,  khổ  người  và khổ tất cả chúng sanh. Sống đúng giới là mang đến hạnh phúc an vui cho muôn loài mà  chính giới luật mang lại sự giải thoát sinh,  già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Hạnh phúc vui thay cho những  ai  biết  sống  đúng  giới.  Sống  đúng giới, tức là sống  đúng lời dạy của đức  Phật: “Sống cung kính, tuỳ thuận Giới”.



Chúng tôi ước mong sao trên cuộc đời  này mọi người  đều sống  đúng  như Giới  thì cuộc đời này là Thiên Đàng, Cực Lạc.
5- “Sống cung kính, tuỳ thuận không phóng dật”.  Sống cung kính,  tuỳ thuận không phóng  dật  là  sống  độc  cư. Sống  độc  cư là  sống phòng  hộ  sáu  căn.  Sống  phòng  hộ  sáu  căn  là giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý không cho dính mắc sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
Nói độc  cư thì dễ  nhưng sống đúng  độc cư không phải dễ. Không sống đúng  độc cư thì không bao giờ có giải thoát.
Ở  đây Phật dạy: “Sống cung kính, tuỳ thuận  không  phóng  dật”,  có  nghĩa  là  phải cung kính,  tôn  trọng  hạnh  độc  cư, vì  có  cung kính,  tôn trọng hạnh độc cư thì tâm mới không phóng  dật.  Chúng  ta  hãy  nghe  đức  Phật  nói: “Ta  thành chánh giác  là  nhờ  tâm  không phóng  dật”.  Vậy,  tâm  còn  phóng  dật  là  tâm chưa giải thoát.
Thưa các bạn! Các bạn đã về tu viện Chơn Như tu tập. Các bạn có thấy chăng? Tất cả tu sĩ và cư sĩ về đây tu tập họ không sống đúng  giới luật  ba đức  ba hạnh,  nhất  là  không cung kính,



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!