tôn trọng
hạnh độc cư nên
sự tu tập
không có kết quả. Sự tu tập không
có kết quả nên họ bị thối chuyển, bỏ cuộc tu hành.
Thưa các bạn!
Các bạn có nhân với tu viện nhưng các bạn
không có duyên, vì vậy
các bạn phải biết tiếp tục tạo
duyên mới. Tạo
duyên mới như thế nào?
Tạo duyên mới
là các bạn phải tu tập đúng giới luật và pháp do lời dạy của Thầy thì đó là tạo
duyên mới, còn
các bạn sống
và tu tập không đúng lời dạy này là các bạn tạo hết
duyên. Khi hết duyên
thì không bao lâu các bạn sẽ rời khỏi tu viện.
Có nhân là
các bạn có gặp nhau với Thầy, nhưng duyên không có nên các bạn không sống đúng
lời dạy của Thầy,
vì thế chúng
ta không được ở gần nhau và do đó các bạn biết rằng các bạn có duyên với ngoại
đạo vì các bạn đã gieo duyên quá sâu
dày, mặc dù pháp tu không giải thoát, nhưng các bạn vẫn phải bám trụ với nó, do bám trụ
mãi mãi để rồi các bạn tiếp tục với
cái duyên của
ngoại đạo từ kiếp này đến
kiếp khác trong vô lượng
kiếp luân hồi,
lên xuống trong khổ đau triền
miên bất tận.
Pháp mà đức Phật
đã dạy là pháp rất lợi ích
cho bản thân của
các bạn, nhưng
các bạn
không gieo
duyên thì làm sao các bạn tu tập được, thường
các bạn bỏ
pháp chánh tìm pháp tà.
Vì tà pháp
còn mang đầy ắp
tâm dục, nên nó cùng đi với con
đường dục của thế gian. Cho nên thuần đường
dục, tuy không
giải thoát nhưng các bạn vẫn
thích, vì tà
pháp danh lợi thực thuỳ đầy đủ. Ngược lại, chánh pháp
thì ly dục ly ác
pháp, sống trầm
lặng độc cư một
mình, hằng ngày ngồi quét tâm tham, sân, si không để một bóng dáng dục còn sót
lại trong tâm. Con đường đi ngược chiều
danh lợi thực thuỳ không khó, nhưng lại khó là vì đi
theo nghiệp lực nhân quả.
Tất cả mọi
người về tu viện chỉ có “Sống cung kính,
tuỳ thuận không
phóng dật”, thế mà ai nấy cũng đều
bỏ cuộc. Cho nên, Phật giáo mất là đi ngược lại dòng đời.
Do không sống
đúng lời dạy của đức Phật “Sống cung kính, tuỳ thuận không phóng dật”. Đó là vì
các bạn có nhân mà không có duyên, nhưng các bạn không tạo duyên mới, do đó các
bạn đi vào ngõ cụt của đường tu.
6- “Sống
cung kính, tuỳ thuận lễ phép xã giao”. (Tức là khéo léo thiện xảo thích ứng trong
mọi hoàn cảnh về
oai nghi tế hạnh
của một người
tu tập, theo
chánh
pháp Nguyên
Thuỷ). Đây là điều cung kính cuối cùng trong Phật pháp, chúng ta hãy đọc và
xem xét
kỹ lời dạy và
hãy lặp lại những chữ cần
thiết trong lời dạy này:
“Cung kính, tuỳ thuận lễ
phép xã giao”.
Cung kính, tùy thuận
các bạn đã hiểu nghĩa,
nhưng còn bốn chữ
lễ phép xã
giao. Vậy “lễ
phép xã giao” nghĩa là gì?
Đối với Đạo
Phật lễ phép xã giao không phải là theo lễ phép xã giao thường như ngoài đời mà
lễ phép xã giao là sống đối xử với nhau
không làm khổ
mình, khổ người,
tức là biết nhẫn nhục, tuỳ thuận và bằng lòng.
Lễ phép xã
giao là cách đối xử với mọi người, luôn luôn phải thấy mọi người đều là người tốt,
người thiện, như đức Phật đã dạy: “Thấy
lỗi mình đừng thấy lỗi
người”. Nhờ thấy như vậy, nên
đó là cách
thức cung kính, tuỳ thuận lễ phép xã giao của Đạo Phật, khiến cho sự sống tràn đầy hạnh
phúc an vui
cho mình và cho người.
Cách thức lễ
phép xã giao của
Đạo Phật là
các pháp ác
không nên làm, nên làm các pháp thiện.
Cho nên, cuộc
sống chung đụng đối xử với nhau là phải
lấy lễ phép xã giao tức là ngăn ác diệt
ác pháp, luôn luôn sanh thiện tăng trưởng
thiện. Muốn
được vậy thì hằng ngày
phải tâm niệm: “Biết
chuyện mình, không nên biết chuyện người, người làm hay không làm là
điều của họ, còn ta thì nên sửa mình từng
phút từng giây không nên biếng trễ”. Xin các bạn lưu ý có biếng trễ là có khổ
đau.
Tóm lại, “Sống
cung kính, tuỳ thuận lễ
phép xã
giao” của Phật giáo bằng câu
Kinh
Pháp Cú:
“Không nên
nhìn lỗi người Người làm hay không làm Nên tự nhìn thân ta
Có làm hay
không làm”.
Õ
THÂN HÀNH NIỆM
LỜI PHẬT DẠY
“Thật vi diệu
thay, chư Hiền Giả! Thật hi hữu thay,
chư Hiền Giả!
Thân Hành Niệm, khi được tu tập
và làm cho sung mãn, có được quả lớn, có được công đức lớn, như đã được Thế
Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc
A La Hán,
Chánh Đẳng Giác tuyên bố.
Và này các Tỳ Kheo,
Thân Hành Niệm tu tập như thế nào, có
quả lớn, có công đức lớn?”.
(Trung Bộ kinh trang 265, 266)
CHÚ GIẢI:
Muốn hiểu rõ
pháp môn Thân Hành Niệm trong đoạn kinh này
thì chúng ta cần nên xem xét những cụm từ cho rõ nghĩa:
1- Thực hành
2- Tu tập
3- Làm cho
sung mãn
4- Làm thành
cỗ xe
5- Làm thành
căn cứ địa
6- Làm cho
kiên trì
7- Làm cho
tích tập
8- Khéo tinh
cần thực hành.
Cụm từ thứ nhất: Thực
hành có nghĩa là
làm theo phương pháp đã dạy,
phương pháp dạy như thế
nào thì làm đúng
như thế nấy. Nghĩa của thực hành là biến ra hành động
theo đúng lời dạy không làm sai.
Cụm từ thứ hai: Tu tập
có nghĩa là sửa đổi tâm tánh, thiện xảo trong các pháp thực hành, biết
linh động khi thực hành
cho phù hợp trong mọi tình huống, mọi tâm trạng, mọi hoàn cảnh…
Chữ tu tập không
có nghĩa là ngồi thiền, gõ mõ tụng kinh, niệm chú, niệm Phật
Chữ tu tập
của
Phật giáo có
nghĩa là tu sửa
đổi những lỗi lầm, để
không còn lỗi lầm
nữa, để
từ bỏ thói
hư tật xấu, để từ người
xấu trở thành người tốt, để từ
phàm phu trở thành Thánh nhân.
Cho nên,
tu tập cũng
có nghĩa là thực
hành nhưng thực
hành rất linh động
nhằm thực hiện đạo đức làm người,
làm Thánh, chứ không có nghĩa
thực hành theo
môn thể thao Võ
công, Khinh công,
Nội công, Khí
công, Nhân điện, Yoga…
Từ xưa đến
nay, người ta hiểu hai chữ tu tập là phải theo một tôn giáo nào và tu tập để thành Tiên, thành
Phật, để được sinh
về cõi Trời, cõi Phật, cõi Cực Lạc
Tây Phương, chứ người ta không mấy ai lưu ý tu là sửa sai những lỗi lầm,
là ngăn ngừa
các ác pháp
và diệt trừ các ác pháp để cho tâm được thanh thản,
nhẹ nhàng, an lạc v.v..
Cụm từ thứ ba: Làm cho sung mãn có nghĩa là
cho nhuần nhuyễn, làm cho nhịp nhàng, làm cho thành một thói quen từ hành động
này chuyển sang những hành động khác một
cách tự nhiên
không còn thiếu
sóùt một hành động nào, rất là đầy
đủ trong pháp Thân Hành Niệm.
Làm cho sung mãn,
còn có nghĩa
là làm cho khỏe mạnh, làm cho dồi
dào năng lượng tăng cường năng lực.
Cụm từ thứ
tư: Làm thành cỗ xe, có nghĩa là kết hợp tấát cả mọi thân hành nội hay
ngoại làm
thành một cỗ xe. Ở đây, có nghĩa là tất
cả thân hành ngoại nội như: đi, đứng, ngồi, nằm, co tay
duỗi chân và hít
thở đều
kết hợp lại như một vòng
tròn bánh xe
và khi thực hành giống như bánh
xe lăn chung quanh một cái trụ. Khi tất
cả những thân
hành đều được kết hợp một cách chặt
chẽ nên kinh dạy: “Làm thành cỗ xe kiên cố”. Khi cỗ xe
đã được thành lập
kiên cố thì chúng
ta mới đủ điều
kiện để cán nát giặc sanh tử luân hồi, mới thắng được nghiệp lực muôn đời ngàn kiếp.
Cụm từ thứ
năm: Làm thành
căn cứ địa, có nghĩa là người tu
hành khi ôm pháp Thân Hành Niệm
phải kết hợp chặt chẽ từ
hành động này kế hành
động khác liên tục
không có một kẻ hở, những hành động ấy
phải miên mật kín như tường đồng vách sắt
nên hôn trầm, thùy miên, loạn tưởng, hôn tịch, ngoan không và
vô ký không
xen vào được và
cũng không để các cảm thọ như: thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất thọ khổ tác động vào
thân tâm được.
Có tu tập được như
vậy, mới thấy
pháp môn Thân Hành
Niệm là căn cứ địa tốt
nhất cho cuộc chiến
đấu giành thắng
lợi làm chủ sanh tử luân hồi.
Nếu tu tập
pháp Thân Hành Niệm mà tạo được một
căn cứ địa thì giặc
sanh tử luân hồi
không tấn công vào được thân tâm thì sự tu tập của chúng ta mới hoàn thành viên
mãn.
Ví dụ: khi bạn
tu tập pháp
Thân Hành Niệm, lúc bấy giờ
pháp ấy đã biến thân
tâm của bạn là một căn cứ địa thì không bao giờ có giặc loạn tưởng, giặc
hôn trầm thùy miên giặc vô ký, trạo cử, giặc cảm thọ
trong khi bạn ôm pháp tu tập thì nó
không bao giờ đánh
vào được, đó là bạn đã biến pháp môn Thân Hành Niệm thành
căn cứ địa nơi
thân tâm bạn,
còn ngược lại bạn còn bị những chướng ngại kể trên tác động
vào thân tâm được thì pháp
môn ấy chưa trở thành căn cứ địa.
Chưa trở thành căn cứ địa thì bạn
hãy tập
luyện nhiều hơn nhưng cũng tuỳ ở giới
luật của bạn
có nghiêm chỉnh hay không.
Trong lúc
pháp môn Thân Hành Niệm của bạn chưa thành căn cứ địa nhưng nó vẫn thành tựu
như một cỗ xe kiên cố. Tuy rằng, nó còn có mọi
chướng ngại pháp
xâm chiếm vào,
nhưng bạn cứ ôm pháp
tiến lên vượt
qua các chướng ngại ấy mà chiếc
xe Thân Hành Niệm của bạn không dừng lại
là bạn đã kết hợp
các Thân Hành Niệm
thành được cỗ xe kiên
cố. Nếu cỗ
xe bạn bị đứng
lại khi bị những chướng ngại pháp thì bạn là người chưa kết hợp
các Thân Hành Niệm trở thành cỗ xe mà chỉ
mới tu tập pháp Thân Hành Niệm mà thôi.
Khi nào bạn thấy pháp
Thân Hành Niệm của
bạn không có một chướng
ngại pháp nào tác
động vào thân
tâm được. Là nó
đã trở thành căn cứ địa của bạn.
Cụm từ thứ
sáu: Làm cho
kiên trì có nghĩa là khi cỗ xe
Thân Hành Niệm đã trở thành căn cứ địa thì lúc bấy giờ chúng ta tăng dần thời
gian lên từ 1 đến 5 giờ,
từ 5 giờ đến
10 giờ, sự tăng
thời gian lên
như vậy gọi là
kiên trì trên pháp Thân Hành Niệm.
Cụm từ thứ bảy: Làm
cho tích tập có nghĩa là
tích lũy sự
tu tập càng
lúc càng kiên cố
và chặt chẽ
hơn khiến không
cho một chướng ngại pháp nào tác
động vào thân tâm được. Nếu các bạn chỉ cần thiện xảo một
chút thì pháp Thân Hành Niệm sẽ linh động tạo thành một nội lực mãnh liệt
vô cùng.
Cụm từ thứ
tám: Khéo tinh cần
thực hành có nghĩa là từ lúc bắt đầu tu tập pháp Thân Hành Niệm là phải khéo siêng năng cần mẫn tu tập không
được gián đoạn bỏ
qua một
giờ, một
phút, một giây
nào cả, phải cố gắng tinh cần tập luyện thì mới thấy được những
kết quả của pháp môn nầy.
HIỆU QUẢ CỦA
PHÁP MÔN THÂN HÀNH NIỆM
Những hiệu
quả của pháp
môn Thân Hành Niệm như thế nào?
Xin các bạn hãy lắng nghe lời đức Phật dạy:
“Cũng vậy, này các Tỳ kheo, đối với vị nào
tu tập Thân Hành Niệm, làm cho sung mãn, vị ấy hướng
tâm đã được chứng ngộ,
nhờ thắng trí đến pháp nào cần phải
chứng ngộ nhờ thắng
trí, vị ấy đối mặt
được sự
tinh xảo của pháp ấy, dầu đến xứ nào.
Ví dụ, này các Tỳ
kheo trên đất bằng tại chỗ ngã
tư có một chiếc xe
đậu, thắng với những
con ngựa thuần thục,
có roi ngựa đặt ngang sẵn
sàng, có người
mã thuật sư thiện xảo, người đánh
xe điều ngự
các con ngựa đáng được điều ngự, leo lên xe ấy, tay
trái cầm dây cương, tay mặt cầm lấy roi ngựa, có thể đánh xe ngựa ấy đi tới đi lui tại
chỗ nào và như
thế nào theo
ý mình muốn. Cũng vậy, này các
Tỳ kheo, đối với
vị nào tu tập
Thân Hành Niệm, làm
cho sung
mãn, vị ấy
hướng tâm đã được chứng ngộ nhờ thắng tri đến pháp nào cần phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vị
ấy đối mặt được
sự tinh xảo (của
pháp ấy) dầu với
giới xứ nào?”.
Khi tu tập
Thân Hành Niệm đã tạo thành căn cứ địa
thì chúng ta muốn một điều
gì thì chỉ cần hướng
tâm với thắng
trí của ta thì sẽ thấy
kết quả ngay
liền, có nghĩa là
ta điều khiển thân tâm một cách dễ
dàng với ý muốn của ta (thắng trí).
Trong bài
kinh này có nêu ra một ví dụ để ta thấy sự hiệu quả của pháp Thân Hành Niệm,
nó giống
như một cỗ
xe ngựa, có những con tuấn mã, dây cương và roi, đều sẵn sàng,
người đánh xe cũng đầy đủ. Khi ấy chỉ cần ra lệnh là điều khiển
chiếc xe ngựa đi tới đi
lui, đi chỗ nào cũng được dễ dàng.
Hiệu quả của
pháp môn Thân Hành Niệm cũng như vậy. Khi ta tu tập pháp môn Thân Hành Niệm đã
trở thành căn cứ địa thì bắt đầu các bạn điều khiển
thân tâm của
các bạn như cỗ xe ngựa.
Biết pháp
môn Thân Hành Niệm là một pháp môn
có đầy đủ thần lực để điều khiển sự
sống chết
và còn hơn thế nữa.
Mong các bạn hãy
tinh cần tu tập đừng có biếng trễ để sớm làm chủ thân tâm của mình và mang lại hạnh
phúc an vui cho mình, cho người
không sao kể hết.
TU PHÁP MÔN THÂN HÀNH NIỆM XUẤT HIỆN 10 CÔNG ĐỨC
LỚN
Khi chúng
ta tu tập
pháp Thân Hành Niệm
trở thành căn cứ địa thì xuất
hiện mười công đức lớn. Mười công
đức lớn ấy không thể nghĩ lường. Vậy, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Này
các Tỳ kheo, Thân Hành Niệm được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như thành cỗ xe, được làm thành như
căn cứ địa, được làm cho kiên trì. Được làm cho tích
tập, được khéo tinh cần
thực hành thì mười công đức ấy có thể mong đợi. Thế nào là
mười?
1/ Lạc, bất
lạc được nhiếp phục và lạc, bất lạc không nhiếp
phục vị ấy và vị ấy làm nhiếp phục lạc, bất lạc được khởi lên.
2/ Khiếp đảm
sợ hãi được nhiếp phục và khiếp đảm sợ
hãi không nhiếp
phục vị
ấy và vị ấy
luôn luôn nhiếp
phục khiếp đảm sợ hãi được khởi lên.
3/ Vị ấy kham
nhẫn được lạnh
nóng, đói khát sự xúc chạm của ruồi muỗi, gió mặt trời, các loài rắn rết,
các cách nói khó chịu, khó chấp nhận.
4/ Vị ấy có khả năng chịu đựng được những
cảm thọ về thân khởi lên
khổ đau nhức nhối,
thô bạo chói
đau, bất khả ý,
bất khả ái, đưa đến chết điếng.
5/ Tuỳ
theo ý muốn
không có khó khăn, không có
mệt nhọc, không có
phí sức, vị ấy chứng
được Bốn Thiền thuần tuý, tâm tư hiện tại lạc trú.
6/ Vị ấy chứng được
các loại thần thông,
một thân hiện ra nhiều thân, nhiều
thân hiện ra một thân; hiện hình biến đi ngang
qua vách, qua tường, qua
núi như đi ngang hư không,
độn thổ trồi lên ngang qua đất liền
như ở trong
nước; đi trên nước không chìm như
đi trên đất
liền, ngồi kiết già
đi trên hư
không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trời, mặt trăng, những vật
có đại oai lực đại thần
lực như vậy, có thể thân có thần thông
bay
đến Phạm
thiên với thiên nhĩ
thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai
loại tiếng chư Thiên và loài Người ở
xa hay ở gần.
7/ Với
tâm của vị ấy, vị ấy biết
tâm của các chúng sanh, các loài người, tâm có tham, biết
tâm có tham;
tâm có sân biết
tâm có
sân; tâm không sân,
biết tâm không sân; tâm
có si, biết
tâm có si;
tâm không si, biết tâm
không si; tâm chuyên chú,
biết tâm chuyên
chú; tâm tán loạn,
biết tâm
tán loạn; tâm đại hành, biết
tâm đại hành; tâm không
đại hành, biết tâm không đại hành; tâm chưa vô thượng, biết tâm chưa vô thượng; tâm vô
thượng, biết tâm vô thượng; tâm thiền định, biết tâm thiền định;
tâm không thiền định,
biết tâm không thiền định; tâm giải thoát, biết tâm giải thoát; tâm
không giải thoát, biết tâm không giải thoát.
8/ Vị ấy nhớ
đến các đời sống quá khứ như một đời hay
nhiều đời... vị ấy nhớ đến các đời sống
quá khứ với
các nét đại cương và các chi tiết.
9/ Vị ấy biết
rõ rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang,
người đẹp đẽ, kẻ thô
xấu, người
may mắn, kẻ bất hạnh
đều do hạnh nghiệp của họ.
10/ Với sự diệt
trừ các lậu hoặc sau khi
tự mình chứng trí với thượng trí, vị ấy chứng đạt
và an trú
ngay trong hiện tại,
tâm giải thoát, tuệ giải thoát không có lậu hoặc”.
Trên đây
là một bài
kinh nói về các
công năng ứng dụng vào đời sống của một vị tu hành theo Phật
giáo, khi họ đã thực hiện
pháp môn Thân Hành Niệm đúng
pháp.
Do những
công năng của pháp Thân Hành Niệm,
các bạn mới thấy Phật
pháp thật là vĩ
đại. Với chiếc thân ngũ uẩn vô thường, vô ngã, bất tịnh, uế
trược, hôi thối chẳng ra gì mà
khi tu tập lại có những công năng thật kinh khủng, ghê gớm thật sự. Công
năng ấy giúp con người thoát ra khỏi
không gian và thời gian, làm chủ cả vũ trụ, không có một vật gì tác động được sự
bất động của tâm.
Kính thưa
các bạn! Sự
tu tập theo
Phật giáo không phí công, phí của của các bạn chút nào cả,
nó rất xứng
đáng với công
lao tu tập của các bạn.
Năng lực thứ nhất
xuất hiện trong
khi tu tập pháp môn
Thân Hành Niệm,
nó giúp các bạn nhiếp phục được các cảm thọ về lạc về
khổ. Về các thọ lạc, các bạn nhiếp phục được thọ lạc về ăn, ngủ phi thời, thọ lạc về
vui chơi trò chuyện
hội họp. Do
đó, các bạn
cũng nhiếp phục được nó,
cho nên không
thích hội họp, không
thích nói chuyện,
bàn tào lao,
chuyện trên trời, dưới biển, chuyện về các dục như: sắc dục, dục
danh, dục lợi, dục
chùa to, Phật lớn,
v.v..
Về thọ khổ,
các bạn cũng nhiếp phục được khiếp đảm sợ
hãi, kham nhẫn
được trời nóng trời lạnh, đói khát kham nhẫn được ruồi, muỗi, nắng, gió, mưa, bão, rắn,
rết, v.v.. kham nhẫn được lời nói ác, lời nói vu
khống, lời nói
khó chịu, lời nói khó chấp nhận.
Về thọ khổ trên
thân như bệnh tật đau ốm,
v.v.. vị ấy chịu đựng được
những cảm thọ khởi
lên như bệnh tật khổ
đau nhói đau, thô bạo, bất khả ý, bất khả
ái, đau điếng,
chết điếng. Đó là những sự kham nhẫn khó có người bình thường mà kham nhẫn
được, thế mà người tu pháp môn Thân Hành Niệm lại kham nhẫn được, thật là tài tình.
Tu tập
pháp Thân Hành
Niệm các bạn đều phải chấp nhận có những năng lực phi
thường, như trên
các bạn đã thấy sức
nhiếp phục, sức kham nhẫn, sức chịu
đựng mà không thể một người bình thường
làm được.
Năng lực thứ
sáu xuất hiện khi các bạn tu tập pháp Thân Hành Niệm, năng lực này sẽ giúp cho các
bạn, tuỳ theo ý muốn mà
các bạn muốn nhập Bốn Thánh
Định không có khó
khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, chứng và nhập được Bốn Thiền hiện tại
lạc trú một cách dễ dàng.
Đọc đến năng
lực thứ sáu của pháp Thân Hành Niệm, các bạn biết
tu thiền của Phật
giáo không phải ngay trên Bốn Thiền mà ta tu tập được. Cho nên, các nhà Đại Thừa
ngay trên Bốn Thiền giải thích loanh quanh giống như Tổ Khương Tăng Hội trong
sách An Ban Thủ Ý. Cho nên,
đụng đến Bốn Thiền các nhà học
giả xưa và nay đều tránh xa không dám giải thích, cứ dựa theo trong kinh mà giải
thích chữ nghĩa một cách không rõ ràng, không cụ thể nhất là không biết pháp
hành, nên càng giải thích thì càng tối nghĩa, khiến cho người muốn tu tập Tứ
Thánh Định không biết lối nào tu.
Muốn tu tập thiền
định thì bắt đầu các bạn phải học và tu tập sống đúng giới luật
theo phương pháp Tứ
Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và
cuối cùng phải thực hiện pháp môn Thân Hành Niệm. Từ
tu tập pháp
môn Thân Hành
Niệm, nó mới xuất hiện những năng lực siêu phàm, từ những năng lực đó đã giúp các bạn nhập các Thiền Định
và thực
hiện Tam Minh. Năng lực thứ
sáu nói trên
đã giúp các bạn nhập định
một cách dễ dàng, không phải ở trên pháp
Tứ Thánh Định mà tu tập. Cho nên,
muốn nhập Tứ Thánh Định thì phải
có những năng lực siêu việt của pháp
Thân Hành Niệm
thì mới mong nhập được.
Nếu không có những năng lực này thì khó mà nhập được.
Qua kinh
nghiệm tu tập
theo giáo pháp của đức Phật, chúng tôi nhận xét Thiền
Đông Độ, Thiền Đại Thừa và các loại Thiền khác đều là những loại thiền tưởng,
thiền điên, tu hành chẳng làm chủ sự sống chết mà còn trở thành điên khùng,
rối loạn thần
kinh, nhập định ngay trên pháp ức chế tâm làm cho hết vọng
tưởng, khi hết vọng tưởng gọi là nhập định thì chỉ có người chưa bao giờ nhập định
mới tin, còn người có nhập định thì họ
tội nghiệp cho những
người mù nói về con voi.
Hầu hết hiện
giờ, chưa có
người nào biết về thiền
định nên mới tu theo Thiền Đại Thừa và Thiền Đông Độ, Thiền Minh Sát,
v.v.. Chứ một khi họ đã nhập được định,
nhất là nhập Tứ Thánh Định thì họ sẽ nhận xét sự tu tập Thiền Đại Thừa, Thiền
Đông Độ, Thiền
xuất hồn, Thiền
vô vi, và Thiền Minh Sát Tuệ là những loại thiền tưởng,
tu hành chẳng đi đến đâu, có nghĩa những loại thiền này tu chơi
cho có hình
thức tu, chứ không
có ích lợi gì cho đời sống của họ. Họ tu tập
chỉ là biểu
dương những hình thức lừa đảo như ngồi thiền 5, 6 tiếng đồng hồ hoặc
khi chết để lại nhục
thân hoặc xá lợi.
Có nhiều
vị tu hành còn cầu danh,
cầu lợi nên sử dụng
một vài thần thông tưởng, tiết lộ chuyện
quá khứ vị lai của người khác để dễ lừa
đảo làm tiền người khác, nhất là tín đồ mê tín.
Những loại
thiền tu tập không có ích lợi thực tế chỉ
là một trò ảo thuật
lừa đảo người, để
đưa người vào thế giới
ảo tưởng
gây mê tín lạc hậu, lợi dụng những điều này để cất chùa to Phật lớn, để sống
một đời sống dục lạc
đầy đủ theo kiểu thế gian bằng chiếc áo tôn giáo!
Thưa các bạn,
những năng lực của pháp môn Thân Hành Niệm từ thứ tám trở lên là những năng lực siêu
việt mà người
ta gọi là
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!