Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

những lời gốc phật dạy - tập 2 -6



chứ  đâu   phải   để   làm  ông  thầy  bói   mà   nói chuyện vị lai cho mọi người. Thế mà mọi người không  tự  tin nơi  mình,  không  lấy  mình  làm chỗ nương tựa vững chắc cho mình; không lấy mình   làm  hòn  đảo  cho  chính   mình,   mới  có những câu hỏi như vậy. Vì pháp Phật không có thời  gian, đến để  mà  thấy…  Không  tu tập  thì thôi mà đã tu tập thì có kết quả giải thoát ngay liền. Như  vậy  các  bạn  không  đủ lòng  tin hay
sao?

Đã  không  tin nơi  mình   thì làm  sao tu chứng quả A La Hán được. Phải không các bạn?
Để  thay câu trả lời của chúng tôi bằng lời dạy của đức Phật trong đoạn kinh dưới đây: “Ở nơi  trú  xứ  xa  vắng,  trong  rừng rú  hoang vu mà  chúng  ta  không  sợ hãi,  khiếp  đảm. Đó  là  vì thân nghiệp của  chúng  ta  thanh tịnh.  Thân nghiệp  của   chúng   ta   thanh tịnh thì  chúng  ta  là  một  bậc  Thánh”. Đây lời xác chứng của đức  Phật, xin  các bạn đọc lại trọn đoạn kinh trên thì sẽ biết rõ ràng, các bạn tu  chứng  hay  không  tu  chứng  quả  A  La  Hán đều biết  không cần phải hỏi Thầy.





CHỨNG QUẢ A LA HÁN


LỜI PHẬT DẠY

“Này Bà La Môn, rồi Ta suy nghĩ: “Những  Sa môn hay Bà  La  Môn  nào, có tâm sân hận ác ý, sống trong  các trụ xứ xa  vắng,  trong   rừng núi  hoang  vu,  do nguyên  nhân nhiễm  trước, có  tâm  sân hận ác ý,  những tôn giả  Sa Môn hay  Bà La  Môn  ấy  làm  cho  sợ  hãi, khiếp  đảm, bất thiện khởi lên. Ta  không có tâm sân hận ác  ý,  sống  tại  các  trụ  xứ  xa  vắng, trong  rừng núi  hoang  vu. Ta  có  từ  tâm. Ta  là  một trong  những bậc  Thánh có  từ tâm, sống tại các trụ xứ xa vắng, trong rừng núi  hoang  vu. Này các Bà  La  Môn, Ta  tự quán sát Ta  có tâm từ như  vậy, Ta cảm  thấy lòng  tự  tin được  xác  chứng
hơn, khi sống rừng núi”.



CHÚ GIẢI:



Đoạn  kinh trên  đây  xác  chứng  khi tâm
chúng  ta  còn  “tham, sân,  si (hôn trầm  thùy miên), mạn, dao động, tâm  không an  tịnh, nghi   hoặc,  do  dự,  khen  mình, chê  người, run  rẩy, sợ hãi, ham  muốn lợi dưỡng, cung kính,  danh   vọng, biếng   nhác,   kém   tinh tấn,   thất niệm, không   tỉnh   giác,   không định tỉnh, tâm bị tán loạn, liệt tuệ, đần độn, v.v.. thì sẽ  sợ hãi, khiếp đảm, sống tại các  trụ  xứ  xa vắng,  trong  rừng núi  hoang
vu”.

Những   người   có   một   trong   những   tâm trạng trên đây, là không thể tu chứng quả A La Hán  trong  đời  này.  Đó  là  lời  xác  định của  đức Phật. Vậy, trong đời này chúng ta có thể tu chứng  quả  A La  Hán  bằng  cách  cần  phải  tiêu diệt tâm trạng sợ hãi.
Vậy,   bây   giờ   có   một   người   hỏi   bạn: “Trong  một  đời này tôi có  thể  tu  chứng quả A La  Hán được  không?”
Bạn  sẽ  thành  thật  trả  lời   câu  hỏi  của chúng tôi:  “Bạn  có  còn  ham thích ăn,  thích ngủ, thích hội họp, thích nói chuyện không?’’

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Nếu bạn trả lời không thì bạn có thể tu chứng quả A La Hán, còn nếu bạn trả lời có thì bạn  không   thể   chứng   quả   A  La  Hán   được. Chừng nào bạn tu tập sống đúng những Phạm hạnh  trên  thì tự  bạn  cũng  xác  định được  sự tu tập của mình, chứ cần gì bạn phải hỏi. Phải không các bạn?
Theo lời Phật dạy trên đây lấy tiêu chuẩn sợ  hãi  và  khiếp  đảm  để  xác  định sự  tu  chứng quả A La Hán hay không chứng quả A La Hán cũng không khó khăn.
Một người còn sợ hãi và khiếp đảm là còn vướng mắc những tâm trạng như: thân, khẩu, ý không thanh tịnh, tâm chúng ta còn tham ăn, tham  ngủ,  không  sống  độc  cư trọn  vẹn, tham, sân,  si  (hôn  trầm,  thùy  miên), mạn,  dao động, tâm  không  an  tịnh,  nghi  hoặc,  do  dự, khen mình,  chê người, run rẩy, sợ hãi, ham muốn lợi dưỡng, cung kính,  danh vọng, biếng nhác,  kém tinh tấn,  thất  niệm,  không  tỉnh  giác,  không định tỉnh,  tâm  bị  toán  loạn,  liệt tuệ,  đần  độn, v.v..  Đó   là  những  điều  khiến  tâm  sợ  hãi  và khiếp  đảm.  Tâm  còn  mang  những  trạng  thái trên đây là không thể tu chứng quả A La Hán được. Cho nên,  khi đặt  câu  hỏi:  Trong  một  đời này   mình   có   tu   chứng   quả   A  La  Hán   hay




không?  Thì  nên  tự  hỏi  lại  mình.  Mình  có  sống và  làm  chủ  tâm  mình,   không  còn  bị  các  ác pháp trên đây chưa?





KHƠNG PHĨNG DẬT


LỜI PHẬT DẠY

“Này  các  Thích tử,  đâu  phải  là  nửa
tháng! Ở  đây đệ tử của Ta  trong  10 đêm
10  ngày,  trong   9  đêm  9  ngày,  trong   8 đêm 8 ngày, trong  7 đêm 7 ngày, trong  6 đêm 6 ngày, trong  5 đêm 5 ngày, trong  4 đêm 4 ngày, trong  3 đêm 3 ngày, trong  2 đêm 2 ngày, trong  1 đêm 1 ngày sống không phóng dật,  nhiệt  tâm  tinh  cần như  lời Ta  dạy, vị ấy thực hành, vị ấy có thể  sống  100  năm, 100  trăm năm, 100
ngàn  năm, 100 trăm ngàn  năm (2), được
cảm thọ nhất hướng an lạc. Vị ấy có thể chứng được  quả  Nhất lai, quả  Bất  lai
hay quả Dự lưu, không có sai chạy”.


CHÚ GIẢI:






(2) Cách đếm số ngày xưa trong thời đức Phật



Đoạn  kinh trên  đây  đã  xác  định được
tầm quan trọng của tâm không “phóng dật” như
thế nào? Các bạn có biết chăng?

Nếu các bạn tu tập giữ gìn tâm không phóng  dật,  chỉ  có  một  ngày,  một  đêm thôi,  mà các bạn có thể sống 100 trăm ngàn năm được cảm  thọ  nhất  hướng  an lạc  và  các  bạn chỉ  còn có  một  kiếp này  mà  thôi  (nhất  lai),  không  còn trở lui kiếp làm người nữa.
Tâm không phóng dật là mục đích tối hậu của  Phật  giáo  trên  đường  tu  tập  giải  thoát. Tâm  không  phóng  dật  là  một  trạng  thái  tâm bất  động.  Bất  động  không  có  nghĩa  là  ức  chế tâm. Tâm bất động với phương pháp như lý tác ý xả tâm ly dục ly ác pháp. Tâm bất động với Chánh  tư  duy tìm đạo lý  có  những  công  đức  gì thì nên che giấu, không được  phô bày, nhưng có lỗi  lầm  nào  thì nên  phát  lồ  sám  hối.  Tâm  bất động  với  phương  pháp  ngăn  ác  diệt ác  pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp. Tâm bất động với cuộc sống không làm các pháp ác, luôn làm các pháp thiện tức là sống đời sống không làm khổ mình,  khổ người, khổ chúng sanh.

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Tu theo  Phật  giáo  chẳng  có chi  nhiều,  chỉ có  tâm  bất  động,  tức  là  tâm  không  phóng  dật như lời Phật đã dạy ở  trên đây.
Đã có nhiều bài pháp nói về tâm không phóng  dật,  nhưng  bài  pháp  này,  đức  Phật  đã xác định cho chúng ta thấy rõ thời gian tu tập chỉ  có  một  ngày,  một  đêm,  tâm  không  phóng dật thì vị ấy có thể hưởng cảm thọ nhất hướng lạc 100 trăm ngàn năm.
Sự lợi lạc lớn như vậy cho đời sống của chúng ta, cớ sao chúng ta không tu tập? Đời sống  luôn  luôn  lúc  nào  cũng  lo lắng,  sợ  hãi  về đói khát, lạnh nóng; lúc nào cũng lo lắng sợ hãi về bệnh tật, khổ đau; lúc nào cũng lo lắng về sự vô thường sống chết.
Cuối đoạn kinh này, đức Phật đã kết  luận bằng những câu hỏi:  “Này  các  Thích tử,  như vậy  không được  lợi  ích  cho  các  ông  sao? Như  vậy khó được lợi ích cho các ông sao? Vì  rằng trong  đời  sống  liên  hệ  đến  sự  sợ hãi về đau  khổ, trong  đời sống liên hệ đến sự sợ hãi  về chết. Có  khi  nào các ông thực hành  ngày   trai  giới   đầy   đủ    tám   chi phần?”.



Thưa các bạn! Lời Phật dạy trên đây là nhắc các bạn. Đời đâu có gì là hạnh phúc, toàn là khổ đau. Phải không các bạn?
Vậy, sao các bạn không chịu tu tập mà còn ham chi thế tục. Đời có gì là hạnh phúc đâu mà bám lấy, không chịu bỏ xuống.
Chỉ có một đêm một ngày các bạn Thọ Bát Quan Trai giữ gìn tâm không phóng dật mà thọ hưởng  hạnh  phúc  an  lạc  100 trăm  ngàn  năm. Như  vậy  các  bạn nghĩ  sao? Chọn  đời  hay chọn đạo? Tu dễ  hay tu khó các bạn ạ! Khó dễ  là tại nơi  tâm  của  các  bạn,  chứ  con đường  tu  hành nào có khó, dễ   ở đâu? Chỉ có bền chí như người mài  sắt  thành  kim  “Chí  công  mài  sắt  có  ngày nên kim”. Phải không hỡi các bạn?





ÁC NGHIỆP


LỜI PHẬT DẠY

“Bạch   Thế   Tôn,  do  nhân   gì,   do duyên gì, ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp tục làm?
Này Mahàli, do  nhân tham,   do duyên tham,   ác nghiệp được  làm, ác nghiệp được tiếp tục làm.
Này Mahàli,  do nhân sân,  do duyên sân, ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp tục làm.
Này  Mahàli,  do  nhân  si,  do  duyên si, ác  nghiệp được làm,  ác  nghiệp được tiếp tục làm.
Này Mahàli, do nhân phi  như  lý tác ý, do duyên phi như lý tác ý, ác nghiệp được làm, ác nghiệp được tiếp tục làm.
Này Mahàli, do nhân tà hướng, do duyên tà  hướng, ác nghiệp được làm,  ác nghiệp được tiếp  tục  làm.  Và  ngược  lại thì  thiện nghiệp được làm,  thiện nghiệp được tiếp tục làm”.



CHÚ GIẢI:

Đoạn kinh này đức Phật đã xác định hướng   đi   và   pháp   hành   của   chúng   ta   trên đường tu tập từ khởi đầu đi đến rốt ráo. “Do nhân gì, do duyên  gì, ác nghiệp được làm, ác  nghiệp  được  tiếp  tục làm?  Và  “do  nhân gì,  do  duyên  gì,  thiện nghiệp được  làm, thiện nghiệp  được tiếp tục làm?”.
Khi rõ  được lời dạy này,  chúng  ta  sống  là tu,  chúng  ta  tu  là  sống.  Cho nên,  biết  sống là tu,  biết  tu  là  sống  thì cuộc  sống  này  là  Thiên Đàng,  Cực  Lạc,  Niết  Bàn.  Đã  là  Thiên  Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn thì còn đến chùa tụng kinh, niệm  Phật,  ngồi  Thiền  để  làm  gì?  Nếu  để  cầu về cõi Thiên Đàng, Cực Lạc và Niết Bàn thì chỉ là những người mất trí mà thôi! Cõi Thiên Đàng, Cực Lạc và Niết Bàn là cõi tưởng. Vậy, các bạn có nên cầu về đó  chăng? Có cõi đó đâu mà cầu. Phải không các bạn?
Cực Lạc, Thiên Đàng và Niết Bàn là ở  tại tâm  chúng  ta.  Khi chúng  ta  biết:  “Do   nhân tham, sân, si, do duyên tham, sân, si, ác nghiệp được  làm,  ác  nghiệp  được  tiếp  tục làm?  Và  do nhân vô  tham, vô  sân, vô si, do duyên vô  tham,



vô   sân,  vô   si,  thiện  nghiệp  được  làm,  thiện
nghiệp được tiếp tục làm?”.

Khi chúng ta biết: “Do nhân như  lý  tác  ý, do duyên như lý tác  ý, thiện nghiệp được làm, thiện nghiệp được tiếp tục làm?”. Phật pháp rất thực tế, nó là nền đạo  đức nhân bản - nhân quả giúp  cho con người  xây  dựng hành  tinh sống này trở thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng và Niết Bàn. Có đúng vậy không các bạn?
Nếu mọi người đều hiểu Phật Pháp một cách  rất  cụ  thể  như  lời  Phật  đã  dạy  trên  đây, thì chúng  tôi tin chắc rằng  mọi người  trên thế gian có một cuộc đời an lạc tuyệt vời.
Chúng tôi ước nguyện cho mọi người trên hành tinh sớm được  gặp những lời dạy quý báu này để mọi loài sống và được hưởng một mùa xuân vĩnh cửu.



Õ


TÂM KHĨ TRỊ


LỜI PHẬT DẠY

“Tâm phàm hay dao động Khó chế, khó nhiếp phục Kẻ trí khiến tâm chánh Như thợ khéo nắn tên”.
(Kinh Pháp Cú 33)


CHÚ GIẢI:
Tâm  con người  rất  khó  chế  ngự,  chế ngự  tâm  là  một  việc  làm  hết  sức  thiện  xảo, phải biết rõ đặc tướng, hành tướng, nhân tướng của  tâm  mình,  thì mới  uốn  nắn  nó  được.  Cho nên,  tất  cả  pháp  môn  của  Đạo  Phật  là  những
phương pháp huấn luyện tâm, muốn huấn luyện
tâm cũng  giống như người  huấn luyện voi, cọp, chó, ngựa, v.v..
Huấn luyện tâm thì chúng ta phải dùng ý thức.  Ý  thức  tác  ý  để  chế  ngự,  để  nhiếp  phục, để dụ   dỗ và  để  dẫn  dắt  nó  theo  lộ  trình thiện pháp.  Tâm  chúng  ta  như  con trâu  rừng  hoang



dã, rất khó trị. Như chúng ta cũng thấy, những nhà  huấn  luyện  voi,  cọp,  chó,  khỉ,  vượn,  heo, dê,  ngựa,  chim,  v.v..  làm  xiếc.  Loài  vật  hoang dã còn huấn luyện được huống là tâm chúng ta. Phải không các bạn?
Đường đi không khó mà khó chỉ vì lòng người còn ham dục lạc thế gian, không bền chí.
Chúng ta nên đọc kỹ lại bài  “Định  Niệm Hơi Thở”,  thì sẽ  thấy  đó  là  một  phương pháp dẫn và dụ tâm.
Chúng ta hãy đọc kỹ lại kinh Tứ Niệm Xứ, thì sẽ  thấy  đó  là  phương pháp  vừa  nhiếp  phục vừa dụ tâm.
Chúng ta  hãy đọc kỹ  lại kinh Thân Hành Niệm,  thì sẽ  thấy  đó  là  phương pháp  vừa  tỉnh thức cũng vừa tạo lực tâm.
Chúng ta hãy đọc kỹ lại bài kinh Song Tầm, thì sẽ thấy đó  là phương pháp ngăn ngừa tâm ác.
Chúng  ta  hãy  đọc kỹ  lại  bài  kinh An  Trú Tầm,  thì sẽ  thấy  đó  là  phương pháp  đoạn  diệt tâm ác.
Nếu  chúng  ta  hiểu  rõ  mỗi  pháp  mà  áp dụng mỗi  tâm  niệm  thì kết  quả  ngay liền  như đức  Phật  đã   nói:  “Pháp  Ta  không có  thời gian, đến  để  mà thấy…”.  Đúng  vậy,  chỉ  có

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT DẠY – TẬP II


những  người  tu  sai  pháp  tức  là  tu  tập  ức  chế tâm  thì không  thấy  mà  thôi,  hay tu  tưởng  thế giới  siêu  hình  thì mới  có  thời  gian  vô  lượng kiếp.





DÙNG TƯỞNG TU TẬP


LỜI PHẬT DẠY

“Này   các   Tỳ   Kheo,  có   mười   sáu tưởng  này  được   tu  tập,  được  làm  cho sung mãn, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh. Thế nào là mười sáu tưởng?
1- Tưởng bất tịnh

2- Tưởng vô thường

3- Tưởng chết

4- Tưởng khổ trên vô thường

5- Tưởng vô ngã trên khổ

6- Tưởng đoạn tận

7- Tưởng ly tham

8- Tưởng đoạn diệt

9- Tưởng vô ngã

10-  Tưởng  nhàm  chán trong   các món ăn
11- Tưởng không hoan  hỷ đối với tất cả thế giới

Õ


12- Tưởng xương trắng

13- Tưởng trùng ăn

14- Tưởng xanh  bầm

15- Tưởng nứt nẻ

16- Tưởng trương phồng

Này  các  Tỳ  Kheo,  mười sáu  tưởng này  được   tu   tập,   được  làm   cho  sung mãn, đưa  đến quả lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh”.
(Tăng Chi Kinh tập 4 trang 380)



CHÚ GIẢI:
Trong pháp tu hành của Phật, chúng ta được phép  dùng  tưởng  để  tu  tập.  Nhưng  chúng ta phải hiểu khi dùng tưởng có ích lợi về việc ly dục ly ác pháp trên thân tâm của chúng ta, chứ không  phải  dùng  tưởng  xuất  hồn,  tưởng  hào
quang,   ánh   sáng,   tưởng   Nhân   điện,   tưởng
Khinh công, Khí công, Nội công, tưởng Phật Tánh,  tưởng  Cực  Lạc,  Thiên  Đàng,  tưởng  thế giới   siêu  hình,   tưởng  trí tuệ  Bát  Nhã  tánh không, tưởng Chân Không diệu hữu...



Pháp   tưởng   của   Phật   dạy   là   một   loại tưởng có  như thật. Ý  thức không thể thấu suốt quá  khứ  và  vị  lai,  nó  chỉ  xác  định  được trong hiện  tại.  Vì  thế,  nó  không  thể  chỉ  có  lấy  thời gian  hiện  tại  mà  xác  định được vô  thường  của các pháp. Muốn xác định được  sự vô thường của các pháp, thì phải lấy thời gian hiện tại và quá khứ  của  mọi  vật  mà  so sánh.  Cho nên,  muốn biết  được thân  vô  thường  thì  chúng  ta  nhớ tưởng về thân quá khứ (bằng tưởng thức) mà so sánh lại thân hiện tại (bằng Ý thức). Nhờ đóù chúng  ta  mới  nhận  ra thân  chúng  ta  có  nhiều sự thay đổi. Sự thay đổi ấy là sự vô thường.
Cho nên, mới gọi là tưởng thân vô thường. Có nghĩa là  ngay trong hiện tại thân  chúng ta thường  thay  đổi  liên  tục  từng  sát  na  đi  qua (trong từng giây). Tưởng vô ngã, tưởng chết... tưởng xương trắng, tưởng trùng ăn, v.v.. đều dùng tưởng uẩn mà quán xét như trên đức Phật đã    dạy   thì  chúng   ta   sẽ   thấy   các   pháp   vô thường, vô ngã, bất tịnh, ... như thật.
Những  loại  quán  tưởng  đức  Phật  đã  dạy trên  đây  là  những  loại  quán  tưởng  các  pháp thấy như thật, chứ không phải là những loại quán tưởng mơ hồ, ảo giác, trừu tượng như kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông phát triển dạy.

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT DẠY – TẬP II


Những  loại  quán  tưởng  này  dùng  tưởng uẩn  để  quán  xét  sự  thật  của  kiếp  người,  khiến cho  chúng  ta  thấu  suốt  và  thấy  rõ  bản  chất thật của các pháp trên thế gian này. Nhờ đó, chúng ta không bị chúng lừa đảo và mê hoặc.
Mười sáu đề mục quán tưởng trên đây, nếu chúng ta chịu khó tu tập, làm cho tích tập, làm cho sung mãn  thì có  lợi ích  rất  lớn  cho cuộc sống  của  chúng  ta,  nó  giúp  cho thân  tâm  được an lạc  và  hạnh  phúc.  Và  cuối  cùng, tâm có thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh.
Trên đây là lời Phật dạy, các bạn có tin chăng? Nếu các bạn tin thì các bạn cứ quán tưởng theo từng đề  mục, khi đề  mục này có kết quả thì các bạn quán tưởng đến  đề mục khác và cứ tu tập như thế cho đến viên mãn 16 đề  mục thì các  bạn sẽ  thấy  tâm  tham,  sân,  si  của  các bạn không  còn nữa,  chừng đó  các bạn đã  nhập vào bất tử tâm định.
Sự quán tưởng 16 đề mục trên đây là để tu tập Định Vô Lậu. Định Vô Lậu là một loại định quán  tưởng  tuyệt  vời  để  đi  đến  chứng  Thánh quả A La Hán. Xin  các bạn lưu ý: Vì pháp quán tưởng  này  dùng  để   tâm  nhàm  chán  các  pháp thế gian và nhờ đó  mới diệt ngã xả tâm, ly dục ly  bất  thiện  pháp  hoàn  toàn,  chứ  không  như



pháp môn của Đại Thừa và Thiền Tông dùng tưởng pháp (thấy các pháp như mộng, như huyễn)  để  tránh  né  và  để  ức  chế  tâm  cho hết vọng   tưởng,   cuối   cùng   rơi   vào   định  tưởng (chẳng niệm thiện niệm ác), mà tâm chẳng ly tham đoạn ác pháp.
Qua 16 đề mục quán tưởng để tâm nhàm chán,  nhờ có  nhàm  chán tâm mới  xa lìa  tham, sân,  si  mạn,  nghi.  Theo pháp  quán  tưởng  này các bạn cứ suy ngẫm lại có đúng không? Chúc các  bạn  thành  công  tốt  đẹp trên  pháp  hành
này.




0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!