Õ
LỜI DẠY CẶN
KẼ
LỜI PHẬT DẠY
1- “Tất cả pháp lấy dục làm căn bản.
2- Tất cả pháp lấy tác
ý làm sanh khởi.
3- Tất cả pháp lấy xúc làm tập khởi.
4- Tất cả pháp lấy thọ làm chỗ quy tụ
5- Tất cả pháp lấy định
làm thượng thủ.
6- Tất cả pháp
lấy niệm làm tăng thượng.
7- Tất cả pháp lấy tuệ làm tối thượng.
8- Tất cả pháp lấy giải
thoát làm lõi cây.
9- Tất cả pháp lấy bất tử làm chỗ thể nhập.
10-Tất cả
pháp lấy Niết
Bàn làm cứu cánh”.
(Tăng Chi
Kinh tập 4 trang 382)
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
CHÚ GIẢI:
Trước khi muốn
hiểu đoạn kinh này thì chúng ta cần nên hiểu như thế nào cho đúng nghĩa lý của nó, để
biết cách áp dụng vào cuộc sống
hằng ngày thì mới
mong thấy sự giải
thoát. Nếu chúng
ta không hiểu
hoặc hiểu sai
lệch thì sự
tu tập của
chúng ta không
có kết
quả mà còn
tai hại cho sức khoẻ.
Lời
Phật dạy thứ nhất: “Tất cả
pháp lấy dục làm
căn bản”. Muốn
hiểu biết cho thấu
đáo thì cần phải
hiểu các từ trước tiên. Vậy tất cả pháp nghĩa là gì? Tất cả thì
các bạn đều hiểu nghĩa
rồi, còn danh từ pháp
thì các bạn phải hiểu như sau đây: Pháp gồm có ba phần:
1/ Về vật chất
2/ Về tinh
thần
3/ Về cảm thọ
Về vật chất
chỉ cho vạn hữu; về tinh thần chỉ cho
tâm niệm; về
các cảm thọ chỉ cho sự đau khổ của thân.
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
Trong đoạn kinh này đức Phật
đã xác định các pháp lấy gì làm
gốc? Và biết gốc
của các pháp để làm gì?
Như câu
thứ nhất Phật
dạy: “Tất cả pháp lấy dục làm căn bản”. Vậy dục và
căn bản là gì? Dục là
lòng ham muốn,
sự ham muốn; căn bản là gốc rễ,
cội nguồn. Giải nghĩa chung của cụm từ ngữ này là: Tất cả các pháp đều do gốc
ham muốn sinh ra.
Chân lý Đạo
Phật đã xác định và thấm nhuần lý “dục”
này (Tập Đế)
nên Ngài chủ trương ly dục, diệt dục. Vì dục là nguyên
nhân sanh ra muôn thứ khổ đau trong
cuộc đời này hay
nói cách khác
là nơi tập hợp mọi sự khổ
đau.
Chữ pháp ở đây nghĩa quá rộng rãi, nên các bạn
nghi ngờ và tự hỏi:
“Gốc cây kia cũng có dục nữa sao?”.
Hỏi như vậy, các bạn đã lầm, chỉ biết có loài động vật là có dục, còn loài thảo mộc
là không dục. Loài thảo mộc vẫn có dục như loài động vật vậy. Các bạn
có thấy
một cây to lớn
tàn lá
che phủ cây
nhỏ không? Cây
nhỏ nghiêng mình tránh
tàn cây lớn.
Đó không phải là dục sao?
Đổ một đống phân gần gốc
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
cây, bao
nhiêu rễ đều hướng về đống phân, như vậy cây cũng có dục chứ! Vì thế, đức Phật
nói: “Tất cả pháp lấy dục làm căn bản”.
Vì vậy,
nghĩa chữ Pháp rất rộng rãi, mênh mông,
vô cùng, vô tận, nó chỉ cho vạn hữu
và mọi sự việc,
mọi tâm niệm
đã khởi, mọi cảm
thọ đang xảy ra trong
đời sống hằng ngày của
các bạn như trên đã nói. Bạn có biết chăng?
Tất cả pháp ở đây, còn có nghĩa là tâm niệm, là các cảm thọ,
là các pháp trần của bạn, mỗi tâm niệm của bạn dù
thiện(3) hay ác khởi lên
đều do dục cả.
Vì vậy, đức Phật xác định:
“Tất cả pháp
lấy dục làm căn bản”. Thấu hiểu nghĩa như vậy, nên lúc tu tập Tứ Niệm Xứ
giai đoạn đầu, khi có một niệm
khởi thì chúng ta dùng Chánh Tư Duy quán xét niệm ấy tận cùng và biết ngay niệm
ấy sinh ra đều
do gốc dục. Mục đích tư duy quán sát là để không làm theo dục. Không làm theo dục, tức
là ly dục.
Thưa
các bạn!
Như các bạn
đã biết “dục” là nguyên nhân
sinh ra muôn thứ đau khổ (Tập Đế). Vì thế, khi có
một niệm khởi
lên trong
tâm là mau
mau quán sát tư duy
đuổi ra cho
(3) Thiện hữu
lậu
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
khỏi tâm,
nói cách khác là không làm theo tâm dục là ly dục.
Các bạn
nên lưu ý: Chỉ có
tâm thanh thản, an lạc và vô sự
(4), hay nói cách khác là tâm không phóng dật, tâm không phóng dật là tâm không
có dục, ngoài
ra tất cả mọi
pháp nào dù thiện
hữu lậu hay
ác đều do gốc
dục sinh ra cả. Cho nên,
người tu sĩ và người
cư sĩ lúc nào cũng cần đề cao
cảnh giác từng
niệm, cũng như lúc
tâm không niệm,
vì tâm không
niệm nhưng
thân lại có niệm. Vậy niệm của thân là gì?
Như đã nói ở trên: đau nhức, ngứa ngáy, mệt mỏi, tức lói,
v.v.. là niệm của thân các bạn ạ! Những pháp
này xảy ra trên
thân cũng đều do gốc dục cả. Khi thân bị đau nhức thì
các bạn đừng sợ hãi. Bởi vì đức Phật bảo: Tất cả các cảm
thọ đều vô thường, vô
ngã, không phải
là ta, không phải của ta. Vậy cảm thọ không phải là ta,
là của ta,
tính chất của nó
vô thường vô ngã thì
ta sợ gì. Phải không hỡi các bạn?
Khi chúng ta
biết rõ được gốc của các pháp là dục, nhưng
gốc dục không phải
là ta, là của
ta thì ta
làm gì mà sợ
hãi, mặc kệ
nó, nó có
(4) Thiện vô lậu
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
làm gì được
ta đâu mà sợ. Vì ta với nó là hai kẻ xa lạ. Khi hiểu rõ được gốc dục như vậy
thì tất cả sự đau khổ trong ta đều được
hóa giải khiến cho ta hoàn toàn sống an
vui và hạnh
phúc. Vậy, biết gốc của các pháp thì đỡ
chúng ta biết mấy. Nhưng chúng ta cũng phải biết cách đuổi các pháp ác
đó đi để thân tâm chúng ta lúc nào cũng
được an vui thanh thản. Vậy đuổi nó bằng cách nào đây?
Chúng ta
chỉ cần tác
ý: “Tâm thanh thản, an lạc và vô sự, đừng sợ cảm thọ,
nó không phải là ta, của ta, nó là người xa lạ hãy đi, đi! Không
được ở trong thân
ta” hoặc ta tác
ý như sau: “An
tịnh thân hành tôi
biết tôi hít
vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” hoặc “Thọ phải đi, đi! Thân phải an tịnh. Tôi biết tôi
đang đi kinh hành”.
Các bạn cứ nhớ kỹ, luôn
bám cho thật chặt vào hơi thở hoặc thân hành ngoại
thì cảm thọ sẽ đi mất. Cảm thọ đi mất tức
là dục đi mất. Cảm thọ dục ở chỗ nào? Dục ở chỗ đau gọi là dục đau. Cho nên, hết dục
là hết
đau, tức là lìa gốc dục của các
pháp. Cho nên “Tất cả pháp lấy dục làm căn bản”.
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
Lời Phật dạy thứ hai: “Tất cả pháp lấy tác ý
làm sanh khởi”. Trong lời dạy này, chúng ta
có cơ sở để hiểu biết
danh từ tất cả
pháp là
nghĩa gì? Ở đây, đức Phật
đã dạy tất cả pháp là tâm niệm của
chúng ta. Tại sao chúng ta lại biết chắc như vậy?
Bởi vì, trong
lời dạy thứ hai đức Phật
đã xác định rõ ràng: “Tác ý làm sanh khởi”. Tác ý là
pháp thuộc về
ý thức. Pháp
thuộc về ý thức, tức là tâm niệm, ý niệm. Mỗi niệm trong tâm là mỗi pháp. Cho
nên, mỗi niệm trong tâm đều lấy tác ý làm sanh khởi. Tác ý có hai cách:
1- Tác ý sinh khởi ác pháp
2- Tác ý sinh khởi thiện pháp
Tác
ý sinh khởi
ác pháp là
tác ý dục tham, dục sân, dục si...
Tác ý sinh
khởi thiện pháp là tác ý ly dục tham, ly dục sân, ly dục si...
Cho nên, người
tu hành theo Phật giáo để cầu sự giải
thoát thì không bao giờ
tác ý dục tham, dục sân, dục si... Đây là những
pháp đau khổ, là con đường dẫn đến khổ
đau, là con đường
đưa đến địa ngục. Do đó,
người tu hành cần
phải ngăn chặn
và chấm dứt
con đường này, chỉ
tác ý ly dục tham,
ly dục sân,
ly dục
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
si... Đây
là pháp thiện,
là pháp chấm dứt sự đau
khổ, đây là
con đường giải
thoát chân chánh của Phật giáo.
Các bạn cứ suy ngẫm, có đúng như vậy không?
Bởi vì, tác
ý mà khổ đau sinh khởi đến với
chúng ta
và cũng do tác
ý mà hạnh
phúc, an vui, vĩnh cửu đến với chúng ta. Thế chỉ có một pháp tác ý mà sinh khởi hai góc độ như vậy thì chúng ta hãy chọn
góc độ nào để tác ý đem đến sự an lạc, yên vui. Phải không các bạn?
Hay nói cách
khác theo kinh Pháp Cú:
“Tâm dẫn đầu
mọi pháp Tâm chủ, tâm tạo tác Nếu nói hay hành động Với tâm tư ô nhiễm
Khổ não sẽ
theo ta
Như xe theo vật kéo”.
--o0o--
“Tâm dẫn đầu
mọi pháp
Tâm chủ, tâm
tạo tác Nếu nói hay hành động Với tâm tư thanh tịnh Hạnh phúc sẽ theo ta
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
Như bóng
không rời hình”.
(Kinh Pháp Cú).
Từ một
câu kinh ngắn gọn “Tất cả pháp lấy
tác ý làm sanh khởi”. Biến thành một pháp
tu tập tuyệt
vời mà kết quả giải
thoát thật sự, như lời đức Phật đã
nói: “Pháp Ta không có thời gian đến để mà thấy…”.
Cho nên, người
tu hành mà không hiểu nghĩa lý kinh, không thông pháp tu hành thì cũng giống
như người mù dò gậy mà đi đường. Nếu
thông được pháp như lý
tác ý thì các
bạn đã chủ động được
thân tâm mình,
dẫn nó vào sự
an ổn và hạnh
phúc thì cuộc sống
là Thiên Đàng.
Con đường tu
hành theo Phật giáo, hạnh phúc giải thoát
là như vậy,
các bạn còn mong cầu gì hơn nữa. Phải không hỡi các bạn?
Lời Phật dạy thứ ba: “Tất cả pháp lấy
xúc làm tập khởi”. Trước
khi muốn hiểu lời dạy này
thì chúng ta phải
hiểu nghĩa của
các từ. Vậy nghĩa “tất cả pháp” và “xúc” là gì?
Tất cả
pháp ở đây
có nghĩa là
sáu trần: sắc, thinh,
hương, vị, xúc,
pháp, chứ không phải tâm niệm như nghĩa ở trên. Cùng một từ giống nhau mà khi dùng chỗ
này thì nghĩa như
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
thế này,
nhưng khi dùng chỗ khác thì nghĩa lại khác. Cho nên, đối với Phật pháp có thực
hành đến nơi đến chốn mới hiểu rõ nghĩa. Còn thực hành chưa đến
nơi đến chốn
cũng như các học giả mà hiểu kinh sách Phật thì làm sao hiểu
đúng cho được. Phải không hỡi các bạn?
Vì thế, hầu
hết kinh sách hiện giờ Đại Thừa là kinh sách kiến giải của các Tổ tu hành chưa
đúng với pháp môn của Phật, nên lý luận tưởng.
Sáu trần này
xúc chạm với sáu căn sinh ra các cảm thọ; các
cảm thọ sinh ra ái dục. Do ái dục
con người mới sinh ra dính mắc, do sự dính mắc
các pháp trần
nên con người
mới chịu nhiều cay đắng, phiền
não, đau khổ
và tật bệnh, v.v..
Bởi ái dục
không phải tự nó có mà do sáu căn,
sáu trần xúc chạm
vào nhau
sinh ra cảm thọ, do cảm
thọ mới có
ái. Do biết những điều này nên người tu theo Phật giáo phải
ly dục ly ác pháp. Nếu muốn ly dục ly ác
pháp mà không phòng hộ sáu
căn, cứ mãi để tiếp
xúc sáu trần thì người ấy
có tu muôn
ngàn kiếp cũng chẳng ly
dục ly ác pháp
được, bởi “Tất cả
pháp lấy xúc làm tập khởi”.
Do gốc này sinh
ra dục, mà không sống độc
cư thì có tu tập
pháp gì
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
cũng
phí công
vô ích mà thôi, bởi vì chính
độc cư là pháp phòng hộ sáu căn.
Có nhiều
bạn đã về
tu tập tại
tu viện Chơn Như,
vì không giữ
gìn hạnh độc cư
này, nên tu hành chẳng ra gì, khi ra khỏi tu viện không thấy lỗi mình lại nói xấu,
nói lỗi của tu viện, tạo ra ác
nghiệp. Những người
này đã tự làm
mất duyên tu
hành giải thoát,
chỉ còn khoác lác vọng ngữ, để rồi họ sẽ gặt lấy những nghiệp quả ghê gớm
trong những ngày tháng còn lại của những người vong ân, bội nghĩa.
Lời Phật dạy thứ tư: “Tất cả pháp lấy thọ
làm chỗ
quy tụ”. Nói đến chỗ quy tụ
tập hợp của các
pháp là cảm thọ. Cảm thọ gồm có
ba phần:
1- Thọ lạc
2- Thọ khổ
3- Thọ bất lạc, bất khổ.
“Tất cả pháp
lấy thọ làm chỗ quy tụ”. Dù tham, sân, si, ngã, vô ngã hay nhân quả... đều lấy
thọ làm chỗ quy tụ. Muốn cho các pháp không
còn quy tụ thì
phải ngăn ngừa
không cho sáu trần xúc chạm với
sáu căn. Và nếu giữ gìn không
kỹ lưỡng lỡ
sáu trần xúc chạm với sáu
căn sinh ra các
cảm thọ thì chúng
ta cố
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
gắng giữ tâm
không hề dao động trước ba cảm thọ. Do
biết ngăn ngừa và giữ gìn tâm như vậy thì đó là tu tập ly dục ly ác pháp. Tu tập
ly dục ly ác pháp tức tu tập thiền
của Phật giáo
(Ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền do ly dục sinh hỷ lạc). Thiền
của Phật giáo
tu tập như vậy, thế mà
có những pháp
tu tập thiền
ngồi như con cóc, lại có những pháp tu tập thiền tưởng,
ngồi tư tư tưởng tưởng thế giới siêu
hình... mà cũng mạo nhận pháp thiền của
Phật.
Còn ở
đây, cần biết
chỗ quy tụ của các pháp
để ngăn và diệt, nên lời dạy
này khiến cho chúng ta rõ cội nguồn
quy tụ của các pháp. Nhờ biết rõ
như vậy, nên
thân tâm chẳng
hề dao động trước các ác pháp và các cảm thọ. Nếu thân tâm
không hề dao động
sợ hãi là
đã đạt được mục đích giải thoát của
Phật giáo, chứ đâu phải cần nhập định
này, định nọ để
làm gì và đôi khi tu
sai lệch ức chế tâm
còn bị bệnh tật
và rối loạn thần kinh trở thành điên khùng.
Thưa các bạn! Trên
đường tu tập
theo Phật giáo các bạn nên nhớ câu này: “Tất cả pháp lấy thọ làm chỗ quy
tụ”, đừng quên các bạn nhé! Nó là pháp môn tu hành ngăn ác diệt ác tuyệt vời.
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
Lời
Phật dạy thứ
năm: “Tất cả pháp lấy
định làm thượng thủ”.
Ở đây chúng
ta phải hiểu những
danh từ này. Vậy định nghĩa là gì?
Định, nghĩa
là tâm thanh
tịnh, tâm ly dục, ly ác pháp; định là tâm bất động trước
các ác pháp và
các cảm thọ; định
là tâm
không tham, sân, si, mạn, nghi; định
là tâm thanh thản, an lạc và vô sự; định là tâm không phóng dật. Các bạn nên
lưu ý Định của Phật
giáo không giống Định của ngoại
đạo. Định của ngoại đạo cho tâm không vọng tưởng là định.
Thượng Thủ
nghĩa là gì? Nghĩa là đứng đầu.
Nghĩa chung của
câu này là tất cả
pháp lấy tâm không phóng dật làm pháp đứng đầu. Nói cách khác cho dễ hiểu
hơn: Tâm không phóng dật là pháp đứng đầu trong
mọi pháp.
Đến đây,
chúng ta đã hiểu pháp mà chúng ta cần tu
cho đạt được là
pháp tâm không phóng dật. Vậy, các bạn tu như thế nào
để tâm không phóng dật?
Xin các bạn
lưu ý điều này: Tâm không phóng dật không
phải là tâm
chẳng niệm thiện, niệm
ác. Tâm không
phóng dật là tâm
do ly
dục, ly bất
thiện pháp, tức
là tâm lìa tham,
sân, si, mạn
nghi. Biết lấy
tâm không
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
phóng dật
làm mục đích để nhắm đến cứu kính Niết Bàn,
thì sự tu tập mới thấy kết quả giải
thoát khả quan.
Các bạn nên
luôn nhớ câu này: “Tất cả pháp lấy định
làm thượng thủ”. Dù các bạn tu
hành pháp môn
nào cũng phải
nhớ pháp đứng đầu
trong các pháp
là tâm không
phóng
dật.
Lời Phật dạy thứ sáu: “Tất cả pháp lấy niệm làm
tăng thượng”. Muốn
hiểu nghĩa của lời dạy này thì
chúng ta phải hiểu danh từ niệm nghĩa là gì? Tăng thượng nghĩa là gì?
Niệm là ý niệm;
Tăng là giới luật; thượng là thanh tịnh. Trong Đạo Phật nói đến Tăng là nói đến
giới luật. Tăng Thượng là giới luật nghiêm
chỉnh. Cho nên,
nghĩa chung của lời
dạy này: “Tất
cả pháp lấy
ý niệm sống đúng giới luật không
hề vi phạm”.
Người mới
vào tu theo
Phật giáo thì phải được học và
tu tập pháp
môn thứ nhất
đó là pháp Tăng Thượng tâm tức là
lấy ý thức tu tập Giới Luật.
Bây giờ, các
bạn đã hiểu lời dạy này: “Tất cả
pháp lấy niệm
làm tăng thượng”.
Khi mới vào tu tập theo
giáo pháp của đức Phật
là
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
lấy ý thức (niệm)
tu tập. Bởi vì ý thức là
pháp dẫn đầu ly dục ly ác pháp. Do ly dục ly ác pháp mà giới
luật được nghiêm chỉnh.
Giới luật là thiện pháp; Giới luật là Thánh hạnh (hạnh
không làm khổ
mình, khổ người).
Kinh Pháp Cú có bài kệ xác định
được việc tu hành
tác ý
này:
“Tâm dẫn đầu
mọi pháp Tâm chủ, tâm tạo tác Nếu nói hay hành động Với tâm tư ô nhiễm
Khổ não sẽ
theo ta
Như xe theo vật kéo”.
--o0o--
“Tâm dẫn đầu
mọi pháp
Tâm chủ, tâm
tạo tác Nếu nói hay hành động Với tâm tư thanh tịnh Hạnh phúc sẽ theo ta
Như bóng
không rời hình”.
Lời dạy thứ
bảy của đức Phật: “Tất cả pháp lấy tuệ làm tối thượng”. Trước
khi muốn hiểu nghĩa
câu này thì chúng
ta phải
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
hiểu từng
danh từ của
nó. Vậy Tuệ
và Tối
Thượng nghĩa
là gì?
Tuệ là
trí tuệ Tam Minh.
Trí tuệ Tam Minh là
một trí tuệ hiểu
biết, siêu không gian và
thời gian. Tối
Thượng là cao thượng
nhất. Nghĩa của toàn
câu này là tất cả
pháp lấy trí tuệ
Tam Minh làm
pháp cao thượng
nhất, không có pháp
nào cao hơn được.
Qua lời dạy trên đây,
người tu hành
theo Phật giáo
phải đạt cho được trí tuệ Tam
Minh để thực hiện Lậu Tận Minh thì chấm dứt luân hồi, do
đó chúng ta phải
hiểu Tam Minh
là pháp tối thượng trong Phật giáo.
Trong Phật
giáo ai cũng
biết có ba cấp tu học:
Giới, Định, Tuệ. Tuệ
là cấp tu học vô lậu
thứ ba, sau cùng của Phật giáo,
cho nên đức Phật dạy: “Tất cả
pháp lấy tuệ làm tối thượng”. Đúng vậy,
tất cả pháp
chỉ có lấy tuệ làm pháp tối thượng
giải thoát duy nhất.
Xin các bạn lưu
ý: Đạo Phật
là đạo giác ngộ. Vậy cái gì giác ngộ và giác ngộ cái
gì?
Xin trả lời các bạn câu hỏi thứ nhất: Đó là trí
tuệ. Nhưng trí tuệ từ đâu có?
Thưa các bạn, mọi vật sinh
ra đều có trí tuệ, nhưng trí tuệ ấy còn hạn hẹp trong mỗi
lốt
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
nghiệp của vạn vật ấy. Trí tuệ
ấy được nâng cấp lên
theo từng thân
nghiệp của chúng. Trí tuệ ấy được phát triển từ học hỏi, từ tu
tập mà có, nhưng các bạn phải hiểu trí tuệ là gì?
Trí tuệ là sự hiểu biết.
Như trên
đã nói: “Mọi vật
sinh ra đều có trí
tuệ”. Vậy, rong rêu, cây cỏ có trí tuệ hay không?
Thưa các bạn!
Cây cỏ, rong rêu đều có trí tuệ, nhưng làm sao chúng ta biết có trí tuệ?
Cây cỏ cằn cỗi,
héo úa, tàn
phai khi khô nước, thiếu phân;
cây cỏ biết tìm ánh sáng mặt trời để sống. Phải không hỡi các bạn?
Còn loài động
vật thì chúng ta khỏi nói, vì chúng đều có trí tuệ cả. Nhưng trí tuệ có nhiều cấp bực tuỳ thuộc vào nghiệp
của mọi loài, mọi đặc tướng, mọi nhân tướng, mọi hành tướng.
- Trí tuệ gồm có bảy:
1- Trí tuệ
do ý thức
2- Trí tuệ do tưởng thức
3- Trí tuệ
do tâm thức
4- Trí tuệ
vô học
5- Trí tuệ
hữu học
6- Trí tuệ
thiện
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
7- Trí tuệ
ác
- Tuệ gồm có
sáu:
1- Đức tuệ
2- Hạnh tuệ
3- Trực tuệ
4- Thắng tuệ
5- Liễu tuệ
6- Liệt tuệ
Trí tuệ và Tuệ cộng lại là 13 tuệ, như vậy một người không tu hành chỉ có sáu
Trí tuệ và một Tuệ,
còn người tu
hành chứng đạo mới có đủ 13 tuệ.
1- Trí tuệ do ý
thức là gì? Trí tuệ
do ý thức là tri kiến,
tri kiến là sự hiểu
biết của ý thức. Ý thức là một trong nhóm sáu thức: Mắt, tai, mũi, miệng,
thân, ý của sắc uẩn.
2- Trí tuệ do
tưởng thức là gì?
Trí tuệ
do tưởng thức là tưởng kiến, tưởng kiến là sự hiểu biết của tưởng thức.
Tưởng thức là sự hiểu biết của tưởng uẩn (sự hiểu biết trong chiêm bao).
3- Trí tuệ do
tâm thức
là gì? Trí tuệ do
tâm thức
là sự hiểu
biết của thức uẩn, sự hiểu biết của
thức uẩn tức
là trí tuệ Tam Minh. Trí tuệ Tam Minh là trí tuệ phi
không gian và thời
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP II
gian, còn gọi
là trí tuệ vô lậu, Trí tuệ vô lậu là trí
tuệ của bậc đã chứng quả A La Hán, gọi tắt
là trí tuệ A La Hán.
4- Trí tuệ vô học là gì? Trí tuệ vô học là ý thức hiểu biết không cần vay
mượn những sự hiểu biết của
người khác như học tập trong
sách vở, kinh tạng, v.v.. Nói trí tuệ vô học chứ kỳ thật trí tuệ đó thường bắt
chước sự hiểu biết của người khác.
Ví dụ: một đứa
bé từ lúc
sinh ra cho đến lớn khôn bắt đầu đều phải tập
trườn, bò, tập đi, tập ăn, tập nói, tập hiểu biết, v.v.. Đó là đều vay mượn của
người khác cả. Những người tuy
không học thức nhưng
vẫn là những người có trí
tuệ vay mượn, vay mượn ít, còn những người
có học thức
là những người vay mượn nhiều.
Kinh sách
Phật giáo Nguyên
Thủy xác định trí tuệ vô học là chỉ cho sự
hiểu biết của những người phàm
phu ngu si, dốt nát, vô học, luôn sống trong
vô minh với
ác pháp, thường làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.
Trí tuệ vô học chính là tri kiến của ý thức. Tri kiến của ý thức bị hạn cuộc
trong không gian và thời gian nên
sự hiểu biết không thấu suốt vũ trụ
và vạn vật
như thật nên
thường sống trong sự hiểu biết của tưởng. Vì thế, kinh
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
sách của
loài người để lại như rừng, như biển, nhưng
phần nhiều chỉ
là nhai lại
những ý tưởng tượng của nhau bằng
những ảo ảnh, trừu tượng, mơ hồ, v.v.. nên thiếu giá trị chân thật, không thực
tế của kiếp sống con người. Còn lại, một
vài tư tưởng thực tế có giá trị đạo đức cao đẹp của loài người là do ý thức của
họ quan sát thấu triệt được nền
đạo đức môi
trường sống mà biên soạn ra. Những
tư tưởng thực tế có giá trị đạo đức cao đẹp ấy khi đưa ra và
áp dụng vào cuộc sống của loài người thì bị các giai cấp thống trị
bóp méo. Bởi
vậy, kinh sách
thì nhiều, nhưng tìm một cuốn kinh hay, một cuốn sách có
giá trị đạo đức chân
thật thì không phải dễ tìm. Phải không các bạn?
Theo kinh
sách phát triển Đại Thừa và Thiền Đông Độ
thì trí tuệ vô học tức là trí tuệ
vô sư. Trí tuệ vô sư do tu thiền định ức chế tâm mà có. Nhưng không ngờ trí tuệ
vô sư là trí tuệ tưởng, cho nên kinh sách Đại Thừa và những công án Thiền Tông
đều do trí tuệ tưởng sản xuất,
vì thế thiếu
chân thật và
chính xác, thường đưa dắt con
người vào thế giới ảo tưởng.
Trí tuệ vô sư là trí tuệ không có thầy dạy, trí
tuệ do tự mình hiểu biết. Những công án
của Thiền Tông ra đời là
nhằm mục đích
trắc
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!