nghiệm trí
vô sư của đệ tử, nhưng kỳ thực đó là một lối hướng dẫn đệ tử triển khai tưởng
tuệ bằng một công thức có bài bản của hệ phái này. Cho nên, các hệ phái này, Đại
Thừa và Thiền Tông chưa có đem lại lợi ích thiết thực cho cuộc sống con người,
mà chỉ đem lại
một cuộc sống vào trong tinh thần ảo tưởng (Phật Tánh).
5- Trí tuệ hữu học là trí tuệ do học tập và tu hành.
Trí tuệ hữu học là
ý thức được
huân tu, huân học có thầy dạy, có kinh sách, có pháp môn tu hành, có bạn đồng tu, có thiện tri thức hướng dẫn.
Trí tuệ hữu học được hướng dẫn đúng theo
giáo pháp Nguyên
Thủy của Phật
giáo thì trí tuệ ấy trở thành một
sự hiểu biết sống động, có đạo đức nhân
bản - nhân quả, không làm khổ mình, khổ
người và khổ tất cả chúng sanh. Trí tuệ hữu học ấy còn gọi là tri kiến giải
thoát của Phật giáo. Trí tuệ ấy do tu tập
Định Vô Lậu mà phát triển. Định Vô
Lậu còn được xem
là tri kiến giải
thoát. Hay nói một cách
khác là trí tuệ hữu học.
6- Trí tuệ
thiện là sự hiểu biết về thiện pháp, trí
tuệ không làm khổ mình,
khổ người, khổ chúng
sanh; trí tuệ thiện là
tâm ly dục ly ác pháp, là tâm
bất động trước các
ác pháp và
các cảm thọ, là
tâm thanh thản,
an lạc và vô sự;
trí tuệ thiện là
chánh tư duy, là
Định Vô Lậu; trí tuệ thiện
là giới luật,
là Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo.
7- Trí tuệ ác là sự hiểu biết về ác pháp; trí tuệ ác
làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh;
trí tuệ ác là
tâm tham, sân,
si, mạn, nghi, v.v.. Trí tuệ ác
là tâm dao động trước các pháp ác và các cảm thọ; trí tuệ ác là tâm không
ly dục
ly ác pháp;
trí tuệ ác là trí
tuệ của những người phàm phu tục tử, hèn
nhát, tham sống, sợ chết, tham danh, đắm
lợi, vào luồn ra cúi, nịnh bợ, a dua, v.v..
8- Đức tuệ
là trí tuệ đạo đức, trí tuệ
biết thương mình thương
người; đức tuệ
là tâm từ của Tứ Vô Lượng Tâm.
9- Hạnh tuệ là trí
tuệ đức
hạnh, trí tuệ biến ra hành động
không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả
chúng sanh; Hạnh tuệ là tâm bi của Tứ Vô Lượng Tâm.
10- Trực tuệ
là trí tuệ ngay thẳng, dám ăn dám nói những cái sai của người khác. Trong thời phong
kiến, các quan Gián Nghi Đại Phu là những vị quan can ngăn nhà vua. Những
người làm chức vụ này, phải thẳng thắn gan dạ dám nói những điều
nhà vua làm sai.
Những
người dám ăn
dám nói như vậy là những người có Trực tuệ.
Về tôn
giáo, ngày xưa Đức
Thích Ca Mâu Ni dám nói thẳng cái
sai trong giáo
lý của Bà La Môn và dựng lại những cái đúng, cái thiện
giúp cho loài người
thoát ra khỏi tinh thần
tư tưởng mê tín lạc
hậu. Ngài cũng
còn có công xây dựng nền đạo đức nhân bản - nhân quả cho loài người,
mặc dù chưa được
triển khai trọn vẹn và đầy đủ. Ngài để lại cho loài người
bốn chân lý bất di bất dịch thực tế và cụ thể mà muôn đời
sau không ai thay đổi
được, dù
một chút xíu như hạt bụi. Ngài
dám nói thẳng
cái sai trong giáo
lý của Bà La
Môn là
vì tâm đại từ bi đối với
chúng sanh, đối với loài
người. Cũng vì thế,
mà trên đường
hành đạo Ngài phải
chịu nhiều gian
nan, vất vả.
Người ta mắng chửi, vu oan Ngài với
phụ nữ, xô đá, cho voi say giết Ngài.
Ngày nay, giáo
lý Ngài còn lưu lại
cho hậu thế là một công
ơn rất lớn của Ngài.
Hôm
nay, vì
lòng thương tưởng
tín đồ Phật giáo, nên chúng tôi
chẳng ngại hiểm nguy trước một thế lực vĩ đại so với
mình như hạt cát giữa sa mạc. Dám nói thẳng sự thật,
những cái sai của
kinh sách phát
triển Đại Thừa,
Thiền Đông Độ và những cái
sai của các hệ
phái khác nhau trong Phật giáo hiện thời, để giúp cho tín đồ
Phật giáo sáng suốt
nhận định đâu là Chánh pháp, đâu
là Tà pháp, đâu là Chánh tín, đâu là
Mê tín, đâu là
Chánh kiến, đâu là Tà kiến; đâu
là Chánh tư duy, đâu là Tà tư duy. Và như vậy, để khai hoang trục lộ Bát Chánh
Đạo, giúp cho mọi người tu theo Phật giáo không còn đi sai đường lạc lối nữa.
Đức Phật
ngày xưa và ngày nay chúng tôi nói thẳng, chỉ thẳng, v.v... Đó là Trực tuệ.
11- Thắng tuệ
là trí tuệ chiến
thắng mọi ác pháp.
Ví dụ: Người ta
hay mạ nhục,
chửi mắng mình, mà mình nghe, thấy, biết rõ ràng, nhưng tâm không hề
có chút giận hờn. Nghe, thấy, biết mà
không khởi tâm giậïn hờn, phiền não, đó
là Thắng tuệ. Thắng tuệ tức là tri kiến giải thoát do sự tu tập Định Vô
Lậu mà có.
12- Liễu tuệ
là trí tuệ thấy, hiểu, biết mọi pháp như
thật. Liễu tuệ còn gọi là trí tuệ Tam
Minh.
13- Liệt tuệ
là trí tuệ yếu đuối không hoạt động, không làm việc, không chịu tư duy, suy
nghĩ, trí tuệ mệt mỏi, lười
biếng, uể oải,
v.v.. Liệt tuệ là một
trí tuệ không có sức đề
kháng, là một trí tuệ
nhu nhược hèn nhát,
yếu mềm;
liệt tuệ là trí
tuệ tiêu
cực, yếm thế đầu hàng mọi ác pháp. Người có liệt tuệ không bao
giờ tu theo Phật giáo
được. Vì Phật giáo
là một tôn giáo
tự lực nên
không có ai
giúp đỡ mình
mà phải chính mình vươn lên.
Lời dạy thứ
tám của đức Phật: “Tất cả pháp
lấy giải thoát
làm lõi cây”. Đúng vậy, mục đích
tu theo Phật
giáo là thân
tâm phải được giải thoát. Giải
thoát có nghĩa là phải hết tâm
tham, sân, si, mạn, nghi,
v.v.. Giải thoát là
tâm bất động trước các
ác pháp và
các cảm
thọ.
Lời dạy này,
các bạn nên
lưu ý: Bất cứ
pháp nào xâm nhập vào thân tâm của chúng ta, chúng ta đều lấy sự giải thoát để giữ vững thân tâm hoàn toàn bất động. Không
nên để tâm bị chúng xâm phạm, vì chúng
xâm phạm sẽ cướp mất quyền làm chủ sanh,
già, bệnh, chết
và luân hồi của chúng ta.
Cho nên, ở đây đức Phật bảo: “lấy giải thoát làm lõi
cây”. Lõi cây là những thớ cây kết tinh cứng
rắn nhất của một cái
cây để cây có một giá trị tốt nhất. Còn ở đây, chúng ta lấy sự giải
thoát làm năng lực kết
tinh cứng rắn nhất của thân tâm,
để các ác pháp không làm động thân tâm chúng ta được.
Xin các bạn
nên ghi nhớ mãi mãi lời dạy này: “Tất cả pháp lấy giải
thoát làm lõi cây”.
Nhờ đó, mà
thân tâm các bạn sẽ
không bao giờ dao động, luôn
luôn thân tâm
các bạn thanh thản, an lạc và vô
sự.
Lời dạy thứ chín của đức Phật:
“Tất cả pháp lấy bất tử làm chỗ thể nhập”. Vậy, nghĩa của những từ bất tử và thể
nhập như thế
nào?
Bất tử nghĩa
là không chết;
thể nhập nghĩa là nhập vào trạng
thái bất di bất dịch. Nghĩa chung của
nhóm từ này
là tất cả các
pháp lấy
chỗ không chết
vào nơi bất
di bất dịch hay nói cách
khác cho dễ hiểu
hơn là các pháp lấy chỗ bất tử
làm chỗ vào vĩnh cửu.
Thưa các bạn!
Chỗ bất tử là tâm bất động, cho nên
trong Phật giáo
có những danh từ để chỉ cho chúng ta thấu rõ nghĩa này: Bất tử
tâm hay bất động tâm đều có một nghĩa như nhau. Những trạng
thái tâm này được
gọi tên
theo thiền định là Bất Động Tâm Định
hay Bất Tử Tâm Định.
Nếu hằng
ngày chúng ta
tu tập giữ
gìn được tâm bất tử này, đừng cho mất thì chúng ta sẽ ngay đó tìm thấy một trạng thái tâm thanh
thản, an lạc
và vô sự rất rõ
ràng. Vì thế đức
Phật dạy chúng ta nên sử dụng: “Tất cả
pháp lấy bất tử làm chỗ thể nhập”. Đúng vậy, các bạn nên lưu ý và tu tập theo lời
dạy này thì kết quả giải thoát
ngay liền không phải
chờ đợi nhiều đời,
nhiều kiếp như kinh sách Đại Thừa
dạy.
Lời dạy thứ mười của đức Phật: “Tất cả
pháp lấy
Niết Bàn làm cứu cánh”.
Trước khi muốn hiểu nghĩa của lời dạy này, thì chúng ta phải
hiểu nghĩa của những danh từ. Vậy Niết Bàn và Cứu Cánh nghĩa là gì?
Thưa các bạn! Các bạn đừng
theo nghĩa kinh sách của
các nhà học giả Đại Thừa và Thiền
Tông mà hiểu nghĩa
Niết Bàn là cảnh
giới siêu hình thì không đúng các bạn ạ!
Niết Bàn là
trạng thái vô lậu; Niết Bàn là tâm bất động
trước các pháp
và các cảm thọ;
Niết Bàn là tâm thanh thản, an lạc và vô sự; Niết Bàn là trạng thái tâm không
còn một tí gì tham, sân, si, mạn, nghi.
Còn nghĩa Cứu
cánh là nơi tột cùng của sự giải thoát, không còn có một nơi nào hơn được.
Nghĩa chung
của câu dạy này là “Tất cả pháp lấy tâm
bất động làm nơi tột cùng của sự giải thoát”.
Thưa các bạn!
Chúng ta tu theo Phật giáo, mục
đích chúng ta phải đạt
là tâm bất động
trước các pháp và các cảm thọ. Chúng ta không cầu làm Phật, không cầu kiến tánh, không cầu Cực Lạc, Niết Bàn,
không cầu thần thông phép thuật,
không cầu ngồi
thiền nhập định bảy,
tám ngày hoặc một tháng, hai tháng, ba tháng, một năm, hai năm, ba năm hoặc để
lại nhục thân, v.v..
Vì thế,
các bạn nên nhớ lấy lời dạy
này: “Tất cả pháp lấy Niết Bàn làm cứu
cánh”. Đó là sự rốt ráo tận cùng của Đạo Phật, nhưng phải thông
hiểu nghĩa Niết
Bàn và Cứu
Cánh như thế nào để biết mà
giữ gìn tu tập và sống
cho đúng nghĩa của
nó, thì ước vọng của các bạn sẽ thành hiện thực trong đời nay.
Thân ái chào các bạn.
Õ
MĨN ĂN
LỜI PHẬT DẠY
“1/ Này
các Tỳ Kheo! Cái
gì là thức ăn cho minh giải
thoát? Bảy Giác Chi, cần phải trả lời như
vậy.
2/ Này các Tỳ Kheo!
Cái gì là thức ăn cho Bảy Giác Chi? Bốn Niệm Xứ, cần phải
trả lời như vậy.
3/ Này các Tỳ Kheo!
Cái gì là thức ăn
cho Bốn Niệm Xứ? Ba Thiện
Hành, cần phải trả lời như vậy.
4/ Này các Tỳ Kheo!
Cái gì là thức ăn
cho Ba Thiện Hành?
Các căn được chế ngự, cần phải trả lời như vậy.
5/ Này các Tỳ Kheo!
Cái gì là thức ăn cho các căn được chế ngự? Chánh Niệm Tỉnh
Giác, cần phải
trả lời như
vậy.
6/ Này các Tỳ Kheo!
Cái gì là thức ăn
cho Chánh Niệm Tỉnh Giác?
Như Lý Tác Ý, cần phải trả lời như vậy.
7/ Này các Tỳ Kheo!
Cái gì là thức ăn
cho Như Lý
Tác Ý? Lòng
tin, cần phải trả lời như vậy.
8/ Này các Tỳ Kheo!
Cái gì là thức ăn
cho lòng tin?
Nghe diệu pháp,
cần phải trả lời như vậy.
9/ Này các Tỳ Kheo!
Cái gì là thức ăn
cho nghe diệu
pháp? Thân cận với bậc
chân nhân, cần phải
trả lời như vậy’’.
CHÚ GIẢI:
Mục đích
cuộc đời tu
hành của chúng ta
là phải đạt
cho được Tam Minh. Chính
trí tuệ Tam Minh mới giúp chúng
ta diệt sạch lậu hoặc. Nhờ đó,
chúng ta mới chứng quả
A La Hán, chấm dứt tái sanh luân
hồi.
Vậy, pháp
nào để chúng
ta tu tập thực
hiện được trí tuệ Tam Minh? Bảy năng lực Giác Chi các bạn ạ!
Tu tập Tam Minh mà không có Bảy Giác
Chi thì không làm
sao đạt được trí tuệ
Tam Minh. Cho nên, trong Kinh Tăng
Chi đức Phật đã xác định: “Này
các Tỳ Kheo! Cái
gì là thức ăn
cho Minh giải thoát
(Tam Minh)? Bảy Giác Chi, cần phải
trả lời như vậy”. Như vậy, rõ ràng Bảy Giác Chi là pháp môn tu tập để đạt được trí tuệ
Tam Minh (Minh giải thoát).
Từ xưa đến nay,
kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ thường
nói về Tam Minh nhưng chẳng biết và chẳng có pháp môn tu tập để đạt Tam Minh. Chỉ có kinh sách Nguyên Thủy đã
xác định rõ ràng về pháp môn tu tập Tam Minh. Nhưng ở đây, đức Phật dùng lời nói
đơn giản, ngắn gọn, đầy đủ ý
nghĩa hành trì tuyệt vời
“Thức ăn cho Minh giải thoát (Tam
Minh) là Bảy Giác Chi”. Bảy Giác Chi là thức ăn của Tam Minh, nghĩa là muốn tu tập Tam Minh thì hằng ngày
phải tu tập Bảy Giác Chi như
chúng ta ăn cơm hằng ngày vậy. Lời dạy này các bạn có thể nào hiểu không? Nó cụ
thể, thực tế, đơn giản đầy đủ ý nghĩa. Phải không các bạn?
Từ đây, muốn tu tập có trí tuệ Tam Minh, chứùng quả A
La Hán, thì các bạn biết
ngay là phải sử dụng bảy năng lực của Giác Chi thì mới tu tập được Tam Minh
(Minh giải thoát).
Vậy, pháp
môn nào tu tập để có được Bảy năng lực
Giác Chi?
Thưa các
banï! Khi chúng tôi
nói đến bảy năng
lực của Giác
Chi thì các bạn bảo rằng: Phật
chỉ dạy có bảy pháp
Giác Chi, chứ
chưa bao giờ nghe nói đến bảy năng lực Giác Chi. Vậy, bảy năng lực Giác
Chi này ở đâu mà ra?
Xin thưa các
bạn! Con đường tu theo Đạo Phật,
các bạn nên hiểu, nó
có ba bậc và tám
lớp tu tập, mỗi lớp tu tập đều có bài học và bài thực hành tu tập khác nhau từ
thấp lên cao. Do pháp môn có thứ bậc thấp cao như
vậy, nên đoạn kinh trên đây
đã xác định cho chúng ta thấy lấy kết qủa của pháp này tu tập cho
pháp cao hơn, lấy kết quả của
pháp cao hơn tu tập
cho pháp cao hơn nữa. Tu tập
phải có kết quả
ngay liền, vì pháp này là món ăn cho pháp kia “Cái gì
là thức ăn
cho minh giải
thoát (Tam Minh)? Bảy Giác
Chi, cần phải
trả lời như vậy”. Nếu chưa có Bảy Giác Chi thì không thể
nào nhập Tứ
Thánh Định và thực hiện Tam Minh (Minh giải thoát) được.
Đọc đoạn
kinh này chúng ta xét qua kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông
Độ thì chúng ta biết họ tu tập sẽ
không bao giờ thực hiện Tam Minh được. Tại sao vậy?
Vì đường lối tu tập của Đại Thừa và Thiền
Tông rất mơ
hồ và
trừu tượng, không
có pháp
hành thực
hiện Tam Minh.
Không có Tam Minh thì làm sao có tâm vô lậu được?
Không có tâm vô lậu thì làm sao có giải thoát, chấm dứt luân hồi được?
Bởi vậy,
Pháp hành thực hiện được Tam Minh là món ăn của Tam Minh. Món ăn, ở đây chúng
ta phải hiểu
nghĩa là siêng
năng tinh cần tu tập hằng ngày
không biếng trễ với Bảy Giác Chi này.
Trên đây, Bảy Giác
Chi là món
ăn của Tam Minh. Vậy,
món ăn của Bảy Giác
Chi là gì?
Đức Phật đã
dạy như vầy: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Bảy Giác Chi? Bốn Niệm Xứ, cần phải
trả lời như vậy”. Món ăn của Bảy Giác Chi là Tứ Niệm
Xứ, đúng như vậy. Trong Tứ Niệm Xứ có ba giai đoạn tu
tập:
- Giai đoạn một:
Tứ Chánh Cần
trên Tứ
Niệm Xứ.
- Giai đoạn
hai: Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm
Xứ.
- Giai đoạn ba: Thân
Hành Niệm trên Tứ
Niệm Xứ.
Giai đoạn tu
tập cuối cùng của Tứ Niệm
Xứ là
pháp Thân Hành
Niệm, chỉ có
pháp Thân Hành Niệm thì Bảy Giác Chi mới xuất hiện. Nói cho rõ
nghĩa hơn là khi tu tập Thân Hành Niệm thì có mười công đức xuất hiện tức là mười thần lực, còn gọi là mười
Như Lai lực. Nhờ những lực này
mà nhập các định
và thực hiện Tam
Minh. Cho nên đoạn kinh trên đức Phật
dạy: “Cái gì là thức ăn cho minh giải thoát? Bảy Giác Chi, cần phải trả lời
như vậy”. Đó là lời
dạy về
pháp môn tu tập của Tam
Minh. Còn ở
đây, đức Phật
không xác định Thân Hành Niệm là
thức ăn của Bảy Giác Chi mà lại xác định Tứ Niệm Xứ. Tại sao vậy?
Thưa các bạn! Bởi
vì pháp Thân
Hành Niệm là pháp môn tu tập ở
giai đoạn ba, tức là giai đoạn cuối cùng của Tứ Niệm Xứ. Không thể tu tắt
bỏ giai đoạn I, II được.
Tứ Niệm Xứ có ba
giai đoạn tu tập
như chúng tôi đã kể ở trên; có
tu tập đúng ba giai đoạn thì Bảy Giác Chi mới xuất hiện, có nghĩa là tuần tự tu tập pháp
nào trước pháp
nào sau cho đến pháp Thân Hành Niệm
là pháp môn cuối cùng của Tứ Niệm Xứ. Cho nên đức Phật dạy: Tứ Niệm Xứ là
thức ăn của Bảy Giác Chi.
Nếu không
tu tập Tứ Niệm Xứ thì
không bao giờ có Bảy Giác Chi.
Đến đây, các
bạn cần lưu ý: Người tu theo Phật giáo mà không đạt Lậu Tận Minh thì không thể
nào chấm dứt
sanh tử, luân hồi.
Ngoài Lậu Tận Minh ra thì không có pháp nào tu
tập chấm dứt
sanh tử luân hồi được,
bởi vì con đường tu tập của Phật
giáo đã xác định
rõ ràng từng pháp
môn, từ pháp
thấp đến pháp cao; pháp thấp
là món ăn
cho pháp cao, có nghĩa là lấy kết quả của pháp thấp mà
tu tập pháp cao hơn.
Thức ăn của
Bảy Giác Chi là Tứ Niệm Xứ. Vậy, thức ăn của Tứ Niệm Xứ là gì?
Chúng ta hãy
lắng nghe đức Phật trả lời: “Này các Tỳ
Kheo! Cái gì là
thức ăn cho Bốn
Niệm Xứ? Ba Thiện
Hành, cần phải trả lời như vậy”.
Thức ăn của Tứ Niệm Xứ
là Ba Thiện
Hành. Vậy Ba
Thiện Hành là gì?
Ba Thiện Hành
là ba nơi làm điều lành. Ba nơi làm điều lành đó là nơi nào?
1- Thân Thiện Hành
2- Khẩu Thiện Hành
3- Ý Thiện Hành
Thân Thiện
Hành nghĩa là gì?
Và Thân
Thiện Hành
tu tập như thế nào?
Thân Thiện
Hành, có nghĩa là tất cả hành động nơi thân, không làm khổ mình không làm khổ người và không làm khổ tất cả
chúng sanh.
Thân Thiện Hành,
hằng ngày phải tu tập ngăn ác diệt
ác pháp,
sinh thiện tăng
trưởng thiện pháp. Tu như vậy là
tu pháp môn gì? Tu như vậy là tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần.
Tứ Chánh
Cần phải tu tập ra hành
động như thế nào? Muốn tu tập Tứ Chánh Cần ra hành động thì phải tu tập
Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác,
Định Sáng Suốt và Định Vô Lậu.
Tất cả các
pháp trên đây là những pháp tu tập của “Thân Thiện Hành”.
Xin các bạn lưu
ý: Đây là
thân hành tu tập
Tứ Chánh Cần,
nên gọi là
Thân Thiện hành.
Khẩu Thiện
Hành là gì?
Khẩu Thiện
Hành thì phải
tu tập pháp nào?
Khẩu Thiện
Hành là tất cả những hành động của miệng
không làm khổ
mình, không khổ người và khổ tất
cả chúng sanh.
Muốn tu tập
Khẩu Thiện Hành thì phải tu tập Tứ Chánh Cần. Hằng ngày, nên giữ gìn lời
ăn tiếng nói.
Không nói thì
im lặng như Thánh,
nhưng khi nói ra thì phải
nói ra lời thiện, không được nói
dối, không được nói thêu dệt, không được nói
lời hung dữ, nói lật ngược, nói xấu người khác, v.v..
Người ăn uống phi
thời không phải
là Khẩu Thiện Hành. Ăn uống đúng giờ giấc, ăn uống có tiết độ, ăn uống
có lòng từ bi, không ăn uống thực phẩm động vật,
vì thực phẩm động
vật là
có sự đau khổ
của loài động vật. Người ăn uống như vậy là người giữ gìn Khẩu
Thiện Hành.
Xin các bạn lưu
ý về Khẩu
Thiện Hành của mình
và cố gắng
khắc phục tâm
mình để giữ gìn trọn vẹn
như lời dạy của đức Phật: “Này
các Tỳ Kheo! Cái
gì là thức ăn cho
Bốn Niệm
Xứ? Ba Thiện Hành,
cần phải trả lời
như vậy”, thì khẩu
hành mới được thanh tịnh.
Như lời Phật
đã dạy: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Ba Thiện Hành?
Các căn được chế ngự, cần phải trả lời
như vậy”. Các căn được
chế ngự
là gì? Với
pháp môn nào để chế ngự được các căn?
Trong thân
chúng ta có sáu căn:
1- Nhãn căn
2- Nhĩ căn
3- Tỷ căn
4- Thiệt căn
5- Thân căn
6- Ý căn
Chế ngự
nghĩa như thế
nào? Chế ngự nghĩa
là làm cho nó
giảm bớt, không
còn tăng trưởng, không còn phát
triển, không còn dính mắc với sáu trần, làm cho nó không còn dính mắc sáu trần
nữa, không làm theo ý muốn. Trước khi
làm theo
ý muốn thì phải
quán sát nên làm hay không nên
làm, nên làm là làm không có dục xen vào, có dục xen vào nhất định không làm.
Ví dụ
1: Chưa đến giờ ăn
mà bụng đói muốn ăn, thì nhất định không ăn, chờ đúng
giờ mới ăn. Đó là chế ngự ăn uống.
Người thường
chế ngự ăn uống như vậy tức là chế ngự tâm dục của mình. Chế ngự tâm dục của mình,
đó là làm chủ tâm
mình. Thường tu tập
làm chủ tâm
mình như vậy
là thực hiện Khẩu Thiện Hành.
Ý Thiện
Hành là gì? Ý
Thiện Hành là hành động thiện của ý. Hành động thiện của
ý là gì? Hành động thiện của ý là Chánh Tư Duy. Chánh Tư Duy là
sự suy tư nghĩ
tưởng không làm khổ
mình, khổ người
và khổ tất cả muôn loài vật. Ý Hành Thiện có năm:
1- Ý không khởi niệm tham
2- Ý không khởi niệm sân
3- Ý không khởi niệm si
4- Ý không khởi niệm mạn
5- Ý không khởi niệm nghi
Nếu ý khởi
ra niệm mà có tham, sân, si, mạn, nghi thì không thể nào gọi là Ý Thiện Hành.
Muốn cho ý thiện hành hiện tiền thì hằng ngày chúng ta phòng hộ sáu căn. Vậy
phòng hộ sáu căn như thế nào?
Phòng hộ sáu
căn là giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Nói như vậy các bạn rất khó hiểu,
chúng tôi sẽ cho một ví dụ giúp các bạn hiểu một cách dễ dàng.
Ví dụ 2:
Trong giờ đang tu
tập Tứ Niệm Xứ
thấy nhà dơ,
khi xả thiền xong lấy chổi quét dọn cho sạch, thay vì giờ ấy là giờ
xả nghỉ thư giãn thì chúng ta lại đi quét dọn, quét dọn là làm theo ý dục của
mình; làm theo ý dục của
mình tức
là không phòng
hộ ý căn.
Không phòng hộ ý căn
tức là không chế ngự tâm dục. Không chế ngự tâm dục
tức là
không ly dục ly ác pháp, mà mục đích
tu hành của Phật là phải ly dục ly ác pháp để đạt cho được tâm bất động. Cho
nên, các
căn được chế ngự
là món ăn của
Ba Thiện Hành.
Vậy, muốn chế
ngự được các căn phải chế ngự bằng cách nào? Muốn chế ngự được các căn thì
các bạn
nên tu tập tỉnh thức
trong thân hành nội và thân hành
ngoại như: Chánh niệm tỉnh giác trong khi đi kinh hành (Thân hành niệm ngoại), Chánh
niệm tỉnh giác
trong từng hơi thở (Định Niệm
Hơi Thở), Chánh
niệm tỉnh giác trong
từng tâm niệm
(Định Vô Lậu); Chánh niệm tỉnh
giác trong thư giãn (Định Sáng Suốt); Chánh Niệm tỉnh giác trong Tứ Niệm Xứ.
Hằng ngày tu
tập được tỉnh thức như vậy, nên đức Phật gọi Chánh
Niệm Tỉnh Giác
là thức ăn cho các căn được chế ngự.
Xin các bạn
đọc lại lời Phật đã dạy: “Này các
Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho các căn được chế ngự? Chánh Niệm Tỉnh Giác, cần
phải trả lời như vậy”.
Nếu các bạn không tu tập Chánh Niệm tỉnh Giác trên đây thì khó mà
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!