Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

những lời gốc phật dạy - tập 3-11

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP III


  Điều  thứ hai: “Phải thưa hỏi pháp ngữ”. Có nghĩa khi tu tập phải thưa hỏi cho kỹ lưỡng  rồi  mới  tu  tập.  Trong  khi tu  tập  có  điều chi  bất  ổn  thì phải  thưa  hỏi  để  chỉnh  sửa  cho đúng cách, cho đúng pháp. Nếu không hỏi pháp ngữ  thì sự  tu  tập  sẽ  tu  tập  sai  pháp,  có  thể  đi đến bệnh tật, điên khùng, rối loạn thần kinh.
Trên  đây  là  hai  điều  kiện mà  hành  giả cần phải ghi nhớ, nếu không làm đúng hai điều kiện trên đây, thì cuộc đời tu hành của các bạn chỉ hoài công, vô ích mà thôi.
Các bạn nên nhớ hột cơm của đàn na thí chủ rất nặng, công ơn người nấu cho các bạn ăn cũng  khó  báo  đáp,  vì  các  bạn  ngồi  không  mà ăn,  thì các  bạn  liệu  sức  tu  tập  của  mình  đừng để  mang  nợ  vào  thân  không  biết  đời nào  các bạn trả  xong. Nhưng  các  bạn đừng  sợ,  khi các bạn  giữ  gìn  giới  luật  nghiêm  túc  thì công  đức của các bạn rất lớn, nó như là thành trì bảo vệ, nó  như  phước  điền   để chúng  sanh  gieo trồng hạt giống giải thoát trên đó.
Trên đường tu tập có hai điều kiện quan trọng mà Phật đã dạy:
1- Im lặng như Thánh.

2- Thưa hỏi pháp ngữ.

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Nếu các bạn giữ gìn chẳng hề vi phạm hai điều kiện  trên  đây  thì cuộc  sống  của  bạn  là  sự giải thoát thì còn đâu là nợ đàn na thí chủ nữa. Phải không các bạn?





NGHĨA  CỦA CÁC PHÁP


LỜI PHẬT DẠY

1-  “Nói   trì giới   là   chỉ  cho  tâm   ly
dục, ly ác pháp.

2-  Nói dục là chỉ cho bất tịnh.

3-  Nói lậu hoặc là chỉ cho đau khổ.

4-  Nói tịnh chỉ các hành trong  thân là chỉ cho làm chủ sự sống chết.
5-  Nói Tam  Minh là  chỉ  cho tâm  vô lậu, chấm  dứt luân hồi tái sinh.
6-  Nói  Niết  Bàn  là  chỉ  cho  tâm  vô
dục,  bất động giải thoát”.



CHÚ GIẢI:
Trên  đây  là  sáu  điều  mà  người  tu  sĩ

Phật  giáo  cần  phải  ghi  nhớ  canh  cánh  bên lòng:

   Điều thứ nhất: “Nói  trì giới”  thì chúng ta  phải  hiểu  nghĩa  là  giữ  gìn  giới  luật  cho nghiêm chỉnh, không được vi phạm một lỗi lầm

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


nhỏ nhặt nào. Thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt.  Đó  là  vì  mục  đích  ly  dục  ly ác  pháp  để tâm  bất  động  hoàn  toàn  không  bị  các  ác  pháp tác  động.  Có  như  vậy  mới  gọi  là  tâm  thanh tịnh giải thoát. Và chúng ta còn phải hiểu khi tâm  ly  dục  ly  ác  pháp,  thì chúng  ta  mới  nhập được Sơ Thiền.  Một  loại thiền trong Tứ Thánh Định của Phật giáo mà trên hành tinh này không có một tôn giáo nào có pháp môn thiền định như vậy được.
    Điều  thứ  hai:  “Nói  dục”  thì chúng  ta phải hiểu nghĩa là lòng ham muốn.  Nếu không xa  lìa, từ  bỏ  lòng  ham  muốn  thì cuộc  đời  tu hành  của  chúng  ta  chỉ  hoài  công  vô  ích  mà thôi.  Nếu  không  ly  dục thì không  bao giờ  tâm thanh tịnh. Tâm không thanh tịnh thì khó cho chúng ta  có đủ  bảy năng  lực Giác  Chi  để  nhập các  định chứng  Tam  Minh. Cho nên,  tâm  còn ham muốn dù sự ham muốn ấy nhỏ như hạt cát thì chúng  ta  cũng  khó  mà  tìm thấy  sự   giải thoát thân tâm mình.
Lời Phật dạy ngắn gọn, cô đọng: “Nói dục là chỉ cho tâm bất tịnh”. Còn dục là tâm không thanh tịnh. Tâm không thanh tịnh dù có ngồi   thiền   năm,   bảy   ngày,   một   tháng,   hai tháng,  một  năm…  thì thiền  định ấy  vẫn  là  tà


NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP III


thiền, tà định. Còn tâm ly dục ly ác pháp dù không ngồi thiền nhập định năm, bảy ngày thì tâm ấy cũng vẫn là tâm nhập định. Xin các bạn lưu ý  ở   điểm  sai  khác  thiền  định của  Phật  và thiền định của ngoại đạo là ở  điểm này. Cho nên, Phật giáo lấy giới luật tu tập mà thành thiền định. Còn những ai tu pháp môn nào mà Đại  Thừa  và  Thiền  Tông phá  giới,  phạm  giới, bẻ  vụn  giới  nên  dù  ngồi  thiền  năm  bảy  ngày, một  tháng  hai  tháng...  vẫn  là  thiền  tưởng  mà
thôi.

   Điều thứ  ba: “Nói  lậu  hoặc”  thì chúng ta phải hiểu nghĩa là sự đau khổ, chứ đừng hiểu theo nghĩa của Đại  Thừa là  rò rỉ. Theo tự điển Phật  Học Việt  Nam  thì lậu  hoặc  có  nghĩa  là phiền não. Nghĩa phiền não là chỉ cho tâm đau khổ  thì chưa đủ  nghĩa,  còn  thiếu  phần  thân. Cho nên,  ý  của  đoạn kinh này,  lậu  hoặc  là  chỉ cho sự đau khổ của thân và tâm. Mục đích tu hành theo Phật giáo là làm cho hết sự đau khổ của  thân  tâm.  Hết   sự  đau khổ  của  thân  tâm mới được gọi là vô lậu.
Ví dụ: Thân  bị  bệnh  tật,  đau nhức  khổ  sở cũng  gọi là  lậu  hoặc,  chứ  không  phải  chỉ  riêng có tâm phiền não. Cho nên, nói lậu hoặc là chỉ chung cho sự đau khổ của thân và tâm. Vì thế,

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


khi một  vị  chứng  quả  A La  Hán  gọi là  bậc  vô lậu,  là  bậc  không  còn  đau khổ  thân  tâm,  bậc bất động trước các pháp ác (phiền não) và các cảm thọ (sự đau nhức).
Người còn phiền não giận hờn thương ghét..., người còn bệnh tật khổ đau, rên rỉ thì không thể gọi là vô lậu. Cho nên, đức Phật xác định một câu ngắn gọn: “Nói  lậu  hoặc  là chỉ đau khổ”. Hết  lậu  hoặc  là  hết  đau khổ.  Con đường tu theo Phật giáo là phải hết lậu hoặc. Bậc vô lậu là bậc giải thoát của  Phật giáo. Xin các  bạn lưu ý  lời  dạy  này  để  thấy  rõ  mục  đích của Phật giáo.
   Điều  thứ  tư: “Nói  tịnh  chỉ các  hành” thì chúng ta phải hiểu nghĩa là các sự hoạt độâng  trong  thân  đều  ngơi  nghỉ,  ngưng  hoạt động. Tịnh chỉ các hành tức là đình  chỉ hơi thở ra, vô.
Người có đủ năng lực làm ngừng hơi thở là người  làm  chủ  sự  sống   chết.  Người  làm  chủ được  sự sống chết là người nhập Tứ Thiền.
Lời dạy  này  rất  rõ  ràng,  đây  là  nhập  Tứ thiền  làm  chủ  sự  sống  chết.  Tại  sao chúng  tôi biết  đây  là  lời dạy  nhập  Tứ  Thiền?  Vì  trong kinh  đức   Phật   có   dạy:  “Tịnh   chỉ  hơi  thở nhập  Tứ  Thiền”. Và  ở   đây câu này Phật  dạy:

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP III


“Nói tịnh  chỉ các hành trong thân”. Các hành  trong  thân,  tức  là  hơi  thở  vô  và  hơi  thở ra. Do kinh dạy  tịnh  chỉ  các  hành  trong  thân, nên chúng tôi biết là tịnh chỉ hơi thở. Tịnh chỉ hơi  thở  là  nhập  Tứ   Thiền.  Qua  lời  dạy  này chúng tôi biết chắc chắn đây là nhập Tứ  Thiền làm chủ sự sống chết. Các bạn cứ suy nghĩ xem lập luận như vậy có đúng không?
Theo nghĩa lời dạy trên của đức  Phật, khi muốn  làm  chủ  sự  sống  chết  thì phải  nhập  Tứ thiền. Tứ Thiền là một loại thiền định với mục đích của nó là giúp chúng ta tịnh chỉ hơi thở. Ngoài  thiền  định này  ra thì không  còn  có  một thứ thiền định nào làm chủ sống chết được. Đó là một sự xác quyết chắc chắn không thay đổi của Phật giáo. Thiền mà làm chủ được  sự sống chết  như vậy,  nên  được gọi là  Tứ  Thánh  Định. Tứ  Thánh  Định không  hổ  danh  là  loại  thiền định của các bậc Thánh.
Một  người  tu hành  muốn làm chủ sanh tử luân hồi thì phải tu tập Tứ Thánh Định. Tứ Thánh Định gồm có bốn Thiền:
1-  Sơ Thiền.

2-  Nhị Thiền.

3-  Tam Thiền.

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


4-  Tứ Thiền.

Muốn tu tập bốn thiền này thì phải tu tập ly  dục ly  ác  pháp.  Và  chúng  ta  ai  cũng  biết ly dục ly ác pháp là giới luật, là thiện pháp.
Tóm lại, muốn tu tập làm chủ sự sống chết thì phải sống nghiêm chỉnh Giới luật và tu tập Tứ   Niệm   Xứ   để   tịnh   chỉ   hơi   thở   nhập   Tứ Thánh Định.
   Điều thứ  năm:  “Nói  Tam Minh là  chỉ cho tâm vô lậu”.
Tam  Minh nghĩa  là  gì? Tam  Minh nghĩa là  trí tuệ hiểu biết vượt  ra khỏi không gian và thời  gian,  tức  là  sự  hiểu  biết  vũ  trụ  như  thật, chứ  không  phải  sự  hiểu  biết  hạn  hẹp  của  ý thức. Sự hiểu biết như vậy còn được gọi một cái tên  khác  là  liễu  tri. Trí  thức  bị  hạn  chế  trong không  gian  và  thời  gian  nên  thấy  và  hiểu  biết mọi sự vật  bằng tưởng, không như thật.  Ví dụ: Thấy  thế  giới  hữu  hình  này  là  thật.  Thấy  thế giới   siêu  hình   là  thật,  linh hồn  người  chết, Thần  Thánh,  quỷ,  ma...  là  có  thật.  Đó  là  cái hiểu biết của tưởng tri.
Người  tu  hành  mà  có  được trí tuệ  Tam Minh thì thấy thế  giới hữu hình  và  vô  hình  là không  có  thật,  chỉ  là  những  thế  giới ảo  tưởng.

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP III


Do thấy  2 thế  giới  không  thật  có  nên  không thấy có ta, của ta, bản ngã của ta. Do thật thấy không  phải  của  ta  như  vậy,  nên  không  thể tương ưng trong hai  thế giới này. Không  tương ưng tức là vô lậu, vô lậu nên chấm dứt tái sanh luân  hồi.  Cho nên  Phật  dạy: “Nói  Tam Minh là  chỉ tâm  vô  lậu”.  Tâm  vô  lậu  tức  là  tâm chấm dứt luân hồi tái sinh.
Như  vậy,  chúng  ta  đã  hiểu  rõ:  nhập  được Tứ Thiền là làm chủ sự sống chết. Còn đạt được trí tuệ  Tam  Minh thì chấm  dứt  luân  hồi  tái sanh. Những  lời  dạy  này  các  bạn cứ  suy ngẫm rồi  mới  tin. Và  khi tin thì các  bạn  hãy  nên sống  và  tập  luyện  đúng  pháp.  Khi sống  và  tu tập đúng pháp thì chừng đó  các bạn mới chứng minh  lời Phật dạy là như thật.
   Điều thứ sáu: “Nói Niết bàn là chỉ cho tâm  vô  dục,  bất  động giải  thoát”.  Lời  dạy này chúng ta phải hiểu nghĩa những từ vô dục, bất động. Vậy vô dục và bất động nghĩa là gì?
Vô dục nghĩa là không còn ham muốn, còn bất động nghĩa là không bị lay động. Niết Bàn của  Phật  là  ở    chỗ  trạng  thái  tâm  không  còn ham muốn và không bị lay động.
Với  mục  đích  muốn  được tâm  vô  dục  và bất động thì phải tu tập tâm ly dục ly ác pháp.

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Vậy  tu  tập  như  thế  nào  để   tâm  ly  dục  ly  ác pháp?
Ly dục tức là không làm theo lòng ham muốn của mình;  ly ác pháp là lìa xa, không làm theo các pháp ác, ngăn chặn các pháp ác không cho xâm  chiếm  vào  tâm.  Khi tâm  không  còn ham  muốn  (vô  dục)  và  tâm  bất  động  trước  các ác  pháp,  đó   là  mục  đích  Niết  Bàn  của  Đạo Phật.
Niết Bàn của Đạo Phật là một sự thật, chứ không phải là một cảnh giới  siêu hình.  Bởi vậy Đạo Phật là đạo như thật, nên trong Đạo Phật không có một điều gì trừu tượng, ảo giác khiến cho mọi người  khó  hiểu.  Khi Phật  giáo  bị  dìm mất  thì Bà  La  Môn  phát  triển  biến giáo  pháp của  mình  thành  giáo  pháp  của  Đạo  Phật.  Vì thế,  Đạo  Phật  trở  thành  một  tôn  giáo  mê  tín, lạc hậu, đạo đức thì mất hết chỉ còn những việc làm mê tín như cúng bái cầu siêu, cầu an, cúng sao giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu, xin xăm bói quẻ, v.v.. Những việc  làm này, hôm nay đã  trở thành  một  nghề  nghiệp  cúng  bái  tụng  niệm trong các chùa. Một nghề nghiệp lừa đảo mọi người,  làm  mọi  người  mất  trí tuệ,  mất  sức  tự lực, chỉ còn lại với tinh thần yếu đuối cầu cúng van xin thật là đau lòng. Phải không các bạn?



GIỚI CỤ TÚC


LỜI PHẬT DẠY

“Người  tu sĩ còn tự nuôi bằng những  tà  mạng,  các  loại  nghề  nghiệp, thì  không thành giới  cụ  túc,  còn  ngược lại  chỉ  đi  xin  ăn  ngày  một  bữa  thì  mới
thành  cụ túc giới”.


CHÚ GIẢI:
Nghề nghiệp duy nhất  của người  tu sĩ theo Phật giáo, là chỉ có nghề đi ăn xin và ăn ngày một  bữa, còn tất  cả  các nghề khác  không phải là nghề của người tu sĩ Phật giáo. Như lời Phật dạy trên đây, ngoài nghề đi khất thực xin
ăn,  người  tu  sĩ  Phật  giáo  hành  các  nghề  khác
thì giới luật cụ túc không thành.

Chúng  tôi  xin  kể   một  số  các  nghề  khác trong Phật giáo hiện giờ để các bạn tư duy thấy rằng  tu  sĩ  Phật  giáo  hiện  giờ  có  phải  là  tu  sĩ Phật giáo thật hay là tu sĩ của Bà La Môn?
1/ Nghề cúng bái cầu siêu, cầu an.

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


2/ Nghề coi ngày giờ tốt xấu.

3/ Nghề cúng sao giải hạn.

4/ Nghề tụng kinh trị bệnh tà, ma.

5/ Nghề thầy thuốc trị bệnh (thuốc đông y, thuốc nam).
6/ Nghề xem xăm bói quẻ.

7/ Nghề trồng tỉa cây trái.

8/ Nghề đan thêu may.

9/ Nghề bán cơm chay.

10/ Nghề làm và bán nhang.

11/ Nghề bán kinh sách.

12/ Nghề bán tứ khí  của Bà La Môn.

13/ Nghề thuyết giảng (giảng sư).

14/ Nghề làm ruộng rẫy.

15/ Nghề làm ma chay, v.v..

Còn   rất   nhiều   nghề   khác   nữa,   nhưng chúng tôi không thể kể ra đây hết được, vì tu sĩ Phật  giáo  hiện  giờ  đã  làm  đủ  thứ  mọi  nghề. Nhất  là  nghề  mê  tín (Cúng  bái,  cầu  siêu,  cầu an) và  thứ  hai  là  nghề  nói  dối  (thuyết  giảng), còn nghề khất thực thì đã bỏ mất.
Qua lời  Phật  dạy trên  đây  chúng  tôi  thấy tu sĩ Phật giáo hiện giờ là tu sĩ của Bà La Môn.

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP III


Như vậy các bậc tôn túc Hoà Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng, Ni chưa thành giới cụ túc. Ngay cả với Mười Giới Đức Thánh Sa Di, các Ngài  còn  vi phạm, thì chưa xứng  đáng  là  tu  sĩ đệ  tử  xuất  gia  của  Phật,  có  đâu  thành  giới  cụ túc  được.  Nếu  Phật  giáo  hiện  giờ  mà  được  lấy giới   chấn   chỉnh  thì  giới   tu   sĩ   còn  lại   chắc không đầy trong 10 đầu ngón tay. Nếu chấn chỉnh  Phật  giáo  được  như  vậy,  thì xã  hội  này bớt đi một gánh quá nặng cho mọi người. Đó là một  điều   vô  cùng  quan  trọng  và  nhức  nhối trong tâm tư của mỗi người.





KHÉO TÍCH TẬP


LỜI PHẬT DẠY

“Này  các  Tỳ  Kheo, thế  nào là  tâm
Tỳ Kheo được khéo tích tập?

1/  “Ly   tham là  tâm  của  ta”,  như
vậy  tâm  vị  ấy  được  khéo tích tập  với  trí tuệ.

2/ “Ly  sân  là  tâm  của  ta”, như vậy
tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.

3/  “Ly  si là  tâm  của  ta”, như vậy
tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.

--o0o--

1/   “Tánh  không   có   tham  là   tâm của  ta”, như  vậy  tâm  vị  ấy  được  khéo tích tập với trí tuệ.
2/  “Tánh không  có  sân  là  tâm  của ta”, như  vậy  tâm  vị  ấy  được  khéo tích tập với trí tuệ.
3/  “Tánh  không  có  si là  tâm  của ta”, như  vậy  tâm  vị  ấy  được  khéo tích
tập với trí tuệ.

--o0o--



1/   “Tánh  không   chuyển   hướng   về dục  hữu là  tâm  của  ta”, như vậy  tâm  vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.
2/  “Tánh  không   chuyển   hướng   về sắc  hữu là  tâm  của  ta”, như vậy  tâm  vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.
3/ “Tánh không chuyển hướng về vô sắc  hữu là  tâm  của  ta”, như vậy  tâm  vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.
Này  các  Tỳ  Kheo,  Khi nào  tâm  Tỳ Kheo được  khéo tích tập với trí tuệ, thời thật hợp lý cho Tỳ Kheo ấy nói như  sau: “Ta   rõ  biết:  “Sanh  đã  tận,  Phạm  hạnh đã  thành, những  việc  nên  làm  đã  làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa”.



CHÚ GIẢI:
Trong  đoạn kinh này  đức  Phật  dạy các bạn phải  huân  tập  tâm  ly tham,  ly  sân,  ly  si. Vậy muốn tích tập sự ly tham, ly sân, ly  si thì các  bạn  phải  làm  sao? Các  bạn  hãy  nghe  đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo, thế nào là tâm Tỳ Kheo được khéo tích tập?

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


1/  “Ly  tham là  tâm  của  ta”, như vậy
tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.

2/  “Ly   sân  là  tâm  của  ta”, như  vậy
tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.

3/ “Ly  si là  tâm  của  ta”, như vậy  tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ”. Những lời đơn giản này, nhưng cả một vấn đề  bền chí tu  tập,  nếu  không  bền  chí huân  tập  thì không tích  tụ  được tâm  ly tham,  ly  sân,  ly  si. Không tích  tụ  được tâm  ly tham,  ly  sân,  ly si  thì làm sao hết tham sân si được. Phải không các bạn? Pháp đơn giản nhưng phải thực hành bền chí gắng   sức   thì  kết   quả   mới   thấy   Phật   pháp không dối người.
Theo như  lời  Phật  dạy trên  đây  thì hằng ngày các bạn phải thường tinh tấn, siêng năng như  lý  tác  ý:  “Ly  tham là  tâm  của  ta”,  “Ly sân  là  tâm  của  ta”,  “Ly  si là  tâm  của  ta”. Ngày ngày tác ý như vậy, tâm các bạn sẽ huân tập vào không tham, không sân, không si. Tâm không tham, không sân, không si là tâm giải thoát các bạn ạ!
Thiền  của  Phật  giáo  tu  tập  như  vậy  các bạn  có  thấy  chăng?  Tu  không  phải  ngồi  kiết già,  không  phải  niệm  Phật,  tụng  kinh niệm

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP III


chú,  bắt  ấn,  lạy  sám  hối,  v.v..  Tu trong  tất  cả mọi hành  động đi,  đứng, nằm,  ngồi  chỉ  có  như lý tác ý câu ly tham, ly sân, ly si là tâm của ta là tâm sẽ hết tham, sân, si. Tu như vậy thật là nhẹ  nhàng  và  dễ   dàng  quá.  Phải  không  các
bạn?

Những đề mục tu tập trên đây nếu các bạn tu  tập  không  thấy  có  hiệu  quả  thì các  bạn  hãy lắng nghe đức Phật dạy:
1/  “Tánh  không  có  tham là  tâm  của ta”, như vậy  tâm  vị  ấy  được khéo  tích  tập  với trí tuệ.
2/ “Tánh không  có  sân  là  tâm  của  ta”,
như  vậy  tâm  vị  ấy  được  khéo  tích  tập  với  trí tuệ.

3/ “Tánh không  có  si là  tâm  của  ta”,
như  vậy  tâm  vị  ấy  được  khéo  tích  tập  với  trí tuệ.

4/ “Tánh không chuyển hướng về dục hữu là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.
5/ “Tánh không  chuyển  hướng  về  sắc hữu là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


6/  “Tánh  không   chuyển  hướng  về  vô sắc  hữu  là  tâm  của  ta”,  như  vậy  tâm  vị  ấy được khéo tích tập với trí tuệ.
Cứ  theo  lời  dạy  trên  đây  mà  như  lý  này tác ý: “Tánh không có tham là tâm của ta”; Tánh không có sân là tâm của ta”; Tánh không có si là tâm của ta”.
Nếu 3 câu này các bạn tu tập không hiệu quả thì các bạn có thể thay thế bằng những câu khác  như:  “Tánh  không  chuyển   hướng   về dục hữu là tâm của ta”; “Tánh không chuyển hướng về sắc hữu là tâm của ta”; “Tánh không  chuyển  hướng  về  vô  sắc  hữu là  tâm  của  ta”. Hoặc  các  bạn  tu  tập  cả  ba nhóm những pháp hành này, nhưng tốt nhất là tu  theo  đặc  tướng  của  mình  hợp  với  nhóm  nào thì nên tu theo nhóm ấy.
Đức Phật kết luận đoạn kinh này một kết quả  tuyệt  vời.  Một  sự  giải  thoát  thật  sự  mà trong sáu tháng chúng tôi tu tập đã thành tựu viên mãn rõ ràng, cụ thể. Đây các bạn hãy lắng nghe  đoạn  kết: “Này  các  Tỳ  Kheo, khi nào tâm Tỳ Kheo được  khéo tích tập với trí tuệ, thời  thật hợp lý  cho  Tỳ  Kheo  ấy  nói  như sau: “Ta  rõ biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP III


đã   thành, những  việc  nên  làm  đã  làm, không còn trở lui  trạng thái này nữa”.
Tóm lại, trong lời Phật dạy này chúng ta chú  ý  những  điểm  chính  để  biết pháp  hành  cụ thể như trên đã  nói. Trước tiên chúng ta chú ý về những từ ngữ.
Khéo  tích  tập  nghĩa  là  gì? Khéo  tích  tập có nghĩa là khéo tích tụï, gom lại, tập họp lại, làm cho nhiều.
“Ly   tham là  tâm  của  ta”,  câu  này  là pháp  như  lý  tác  ý.  Trong  câu:  “Ly   tham là tâm  của  ta”, như vậy  tâm  vị  ấy  được  khéo tích tập với trí tuệ”.  Toàn bộ lời dạy này như thế nào?
Chúng  ta  hãy  lắng  nghe  cho kỹ  lời  dạy này:  “được  khéo tích tập  với  trí tuệ”.  Câu này có nghĩa là luôn luôn phải nhớ tác ý: “Ly tham là tâm của ta”. Càng tác ý nhiều là tích tập nhiều. Các bạn có hiểu câu này chưa?
Muốn  tích  tập  tâm  ly  tham  thì cứ  nhắc tâm nhiều lần câu này. Đó là cách thức kết tụ tâm ly tham, ly sân, ly si... thành một khối không tham, sân, si...
Và khi tu tập như vậy kết quả sẽ  ra sao?

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Hằng  ngày  tu  tập  như  vậy,  đến  khi tâm  ly tham,  sân,  si  thật  sự  thì chúng  ta  biết  rất  rõ: “Sanh   đã    tận,   Phạm   hạnh   đã   thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
Rõ ràng, Phật dạy chỉ có hằng ngày tu tập tác  ý  như  vậy,  lần  lượt  tâm  tham,  sân,  si  bị đoạn diệt, cho nên chúng ta biết rất  rõ tâm có thanh  tịnh  hay  không  thanh  tịnh.  Nên  đức Phật  đã  xác  định một  cách  quả  quyết:  “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên  làm  đã  làm,  không còn  trở  lui trạng thái này nữa”. Đó  là  lời  nói  không  dối  mình dối người. Vậy chúng ta hãy nỗ lực hằng ngày khéo  nhắc  tâm  ly,  xả,  đoạn diệt, từ  bỏ  tâm tham, sân, si... thì kết quả tâm sẽ vô lậu.
Nhưng  chúng  ta phải  biết cách  vừa  nương vào thân hành niệm nội hay ngoại vừa tác ý ly tham, sân, si. Với sự chuyên cần tinh tấn hằng ngày tu tập rèn luyện như vậy cho đến khi tâm tham sân si bị diệt sạch thì chúng ta đã  thành công  trên  đường  tu  tập  giải  phóng  được giặc sanh  tử  luân  hồi,  không  còn  bị  qui  luật  nhân quả chi phối vượt thoát ra ngoài không gian và
thời gian.




0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!