Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

những lời gốc phật dạy - tập 3-12


GÂY GỔ


LỜI PHẬT DẠY

“Thế  nào này các  Thầy  Tỳ  Kheo! Có  phải  các Thầy vì muốn làm vua,  làm giàu, làm quan  hay vì đời sống thiếu  hụt đói khát mà đi tu chăng?
Các  Thầy  há chẳng   phải  muốn  xa lìa sanh  tử  luân  hồi  mà  cầu  đạo  giải thoát sao?
Tại  sao quý  Thầy  không chịu học đạo  tu  hành, mà  lại  tranh đấu,  đấm  đá với  nhau,   đối  mặt gây  phải  trái nói  ác với   nhau.    Các   Thầy   đồng một   Thầy, đồng  tu  một  pháp,  các  Thầy  phải  sống lục  hòa  thân hành, khẩu  hành, ý  hành
phải hòa hợp như nước với sữa”.


CHÚ GIẢI:
Vì mục đích cao đẹp làm chủ sanh, tử, luân hồi, chúng ta bỏ hết cuộc  đời  để đi tu, chứ đâu  phải  còn  ham  muốn  làm  quan,  làm  vua,



làm  giàu;  chứ  đâu  phải  vì nghèo  đói  mà  đi  tu. Phải không các bạn.
Đời sống ăn ngày một bữa, không tiền, không của cải, không nhà cửa, không gia đình, đi  xin  ăn...  Vậy  còn  thú  vị  gì mà  các  bạn tập họp  nhau,  nói  chuyện  tào  lao,  tranh cãi  hơn thua, nói chuyện phù phiếm, nói xấu người này, nói  xấu  người  kia... Tu  như  vậy  chỉ  uổng  phí một  đời  chẳng  có  ích  lợi gì cho sự  tu  tập  của quý bạn.
Tiếc  thay!  Tiếc  thay!  Chỉ  mang  tiếng  tu theo Phật, chứ nào Phật giáo có những hạng người đệ  tử như vậy. Những hạng người  ăn no, dụm ba, dụm bảy nói chuyện tào lao, tranh cãi hơn  thua,  là  những  loại  Ma  Ba  Tuần  trong Phật giáo. Những hạng người còn ham dục lạc thế gian mà đi tu theo Phật là làm một gánh nặng cho xã hội. Các bạn có biết không?
Lời  giáo  giới  trên  đây,  là  một  lời  phiền trách  rất  nặng  nề  của  đức  Phật  ngày  xưa đối với  chúng  Tỳ  Kheo. Đối  với  những  hạng  người tu hành dối trá, là những người tu hành chẳng chấp  hành  nghiêm  trì giới  luật,  chẳng  giữ  gìn Thánh hạnh Độc Cư, họ là những loại Ma Ba Tuần trong Phật giáo đang phá hoại Đạo Phật.



CƠNG ƠN RẤT LỚN


LỜI PHẬT DẠY

“Nếu ai nương vào  một người  nào, mà biết được Phật, Pháp, Tăng. Ơn này rất khó báo đền, không thể đem cơm áo, giường  nằm, nệm  ngồi,  thuốc  men  mà
báo đáp ơn kia được”.


CHÚ GIẢI:
Trong   Phật   giáo,   có   một   ơn  rất   lớn nhất.  Đó  là  người  nào  đã  đem cho mình  biết được  Phật,  Pháp,  Tăng.  Tức  là  đem cho mình một nền đạo  đức nhân bản - nhân quả, không làm  khổ  mình  khổ  người.  Đó  là  một  sự  giải
thoát thật sự. Một điều làm chủ bốn sự khổ đau
của  kiếp người.  Vì  thế,  ơn  nghĩa  ấy  rất  sâu nặng, không thể lấy gì trong thế gian này đem so sánh được.
Trên đây là lời dạy của đức Phật để  chúng ta biết rằng Phật Pháp là một pháp bảo vô giá, một ơn nghĩa sâu nặng như trời biển. Người đời



thường không hiểu nên đã xem thường Phật Pháp.  Phật  Pháp  là  một  cứu  cánh  cho  loài người,  giúp  con người  ra khỏi  mọi  sự  khổ  đau của kiếp người. Cho nên, không thể lấy một vật gì trong  thế  gian  này  mà  báo  đáp  được  ơn đức
này.

Người  nào  nhận  được  pháp  môn  này,  bèn từ  bỏ  hết  những  pháp  thế  gian,  nỗ  lực  tu  tập theo đúng chánh pháp của Phật, thì người ấy là người có đầy đủ đệ nhất phước báu. Ngược lại, người gặp được chánh pháp của Phật mà xem thường, tu tập lấy có là người thiếu phước, tuy gặp Phật, Pháp nhưng chẳng ích lợi gì cho họ.





ĐỆ NHẤT PHÁP CỦA PHẬT LÀ PHÁP KHƠNG PHĨNG DẬT


LỜI PHẬT DẠY

“Ba  mươi bảy  phẩm  trợ  đạo,  pháp không phóng dật là đệ nhất. “Muốn tu pháp  không phóng dật  thì  phải  tu  Tứ  Ý
Đoạn”.


CHÚ GIẢI:
Tứ Ý Đoạn tức là Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần là pháp ngăn ác diệt ác, sinh  thiện tăng trưởng thiện.
Trong  cuộc  đời  tu  hành  theo  Phật  thì lúc nào,  giờ  nào  phải  thường  cảnh  giác  ngăn  và diệt các ác pháp, không cho chúng tác động vào thân, tâm. Khiến cho thân tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Nhờ thế mà tâm không  bị  phóng  dật,  nên  đức  Phật  dạy:  “Đệ nhất pháp tâm không phóng dật là Tứ Ý Đoạn”.  Nhưng  tâm  không  phóng  dật  là  thành



tựu  đạo  giải  thoát,  tức  là  viên  mãn  con đường tu  tập.  Trước  khi vào  Niết  Bàn  Ngài  di  chúc lại:   “Ta   thành   Chánh   Giác   là   nhờ   tâm không phóng dật”.
Trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo mà pháp môn Tứ Chánh Cần là pháp môn đệ  nhất ngăn ác  diệt  ác  pháp  khiến  cho thân  tâm  bất  động. Nhờ đó mà tiến tới các pháp cao hơn sâu hơn.
Tứ Chánh Cần là nền tảng đạo  đức vững chắc nhất của Phật giáo. Cho nên, muốn tu tập Tứ Chánh Cần thì đức Phật đã trang bị cho chúng ta bốn loại định:
1-  Định Sáng Suốt.

2-  Định Vô Lậu.

3-  Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.

4-  Định Niệm Hơi Thở.

Trong  Định Niệm  Hơi  Thở  có  18 đề  mục tu  tập  (xin  đọc  lại  Định Niệm  Hơi  Thở).  Định Niệm   Hơi   Thở   là   một   pháp   môn   rất   quan trọng.  Nó  được xem   như   là   một   chiếc   “chổi thần” dùng  để quét tất cả các chướng ngại pháp trên thân,  thọ, tâm,  pháp  của Tứ Niệm  Xứ. Tứ Niệm Xứ mà được viên mãn đều phải nhờ đến cây chổi thần này.

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP III


Định Niệm  Hơi  Thở  được ví  như  những loại  vũ  khí  tối  tân  và  hiện  đại  nhất  để  chiến đấu trong chiến trận sanh tử. Người tu sĩ  Phật giáo tu tập Định Niệm Hơi  Thở cũng giống như một  binh  sĩ  được huấn  luyện  trong  trường  võ
bị.

Sự  quan  trọng  của  Định  Niệm  Hơi  Thở như vậy, nên khi tu tập theo Phật giáo phải tu tập rất kỹ lưỡng về Định Niệm Hơi  Thở để  cho nó có đủ  năng lực đẩy lùi các chướng ngại pháp trên thân và tâm.
Ông  Châu  Lợi  Bàn  Đặc  suốt  ngày  đêm trong  thất  chuyên  quét  tâm,  cuối  cùng  chứng quả A La Hán.
Ông  A  Nan  đi  kinh hành  quét  tâm  suốt đêm chứng quả A La Hán.
Tóm lại, quét tâm có phương pháp để  tâm bất  động.  Tâm  bất  động  là  tâm  không  phóng dật.  Tâm  không  phóng  dật  là  đạt  được giải thoát.





LẠC LÀ NIẾT  BÀN


LỜI PHẬT DẠY

“Này các Hiền giả, lạc là Niết Bàn;
này các Hiền giả, lạc là Niết Bàn.

Khi nghe  nói  vậy,  Tôn  giả  Udàyi nói  với  Tôn  giả  Sàriputta,  sao  đây  là lạc, khi  ở  đây không có  cái gì được cảm
thọ?

Này Hiền giả, cái này ở  đây là lạc, dù  rằng lạc  ấy  ở   đây  không được  cảm thọ.

Này  Hiền  giả,  có  năm dục trưởng dưỡng này. Thế nào là năm?
Các  sắc  do  mắt nhận  thức, khả lạc,  khả  hỷ,  khả  ý,  khả  ái  liên  hệ  đến dục, hấp dẫn.
Các tiếng do tai nhận thức… Các hương do mũi nhận thức… Các vị… Các xúc… hấp dẫn.
Này  Hiền  giả  có  năm dục trưởng dưỡng này khởi  lên lạc hỷ, này Hiền giả, đây gọi là dục lạc.



Ở  đây, này Hiền giả, Tỳ Kheo ly dục ly ác,  bất  thiện  pháp…  chứng đạt an  trú Sơ  Thiền. Này  Hiền  giả,  nếu  trong  khi Tỳ Kheo ấy trú với an trú này, các tưởng tác  ý  câu  hữu  với  dục vẫn  hiện hành; như vậy đối với vị Tỳ Kheo ấy là một chứng  bệnh...  Ví  như  này  chư  Hiền,  với một  người  sung  sướng,  khổ  đau  có  thể khởi lên như một chứng  bệnh.
Cũng vậy với  Tỳ  Kheo ấy,  các tưởng tác  ý,  câu  hữu  với  dục vẫn  hiện hành; như   vậy,   đối   với   Tỳ   Kheo  ấy   là   một chứng bệnh. Này chư Hiền, chứng bệnh được Thế  Tôn  gọi là  khổ.  Với pháp  môn này,  này  chư  Hiền,  cần  phải  hiểu Niết Bàn là lạc.
(Tăng Chi Bộ Kinh Tập IV trang 163)



CHÚ GIẢI:

Đọc  đoạn kinh trên  đây  chúng  ta  cần phải hiểu cho rõ ràng, trong khi tu tập gặp những  trạng  thái  hỷ  lạc  thì chúng  ta  cứ  ôm chặt  pháp  mà  tu,  chứ  đang tu  tập  mà  lại  khởi

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


niệm:  “Ta   tu tập  có  hỷ  lạc”  thì đó   là  một chứng  bệnh  mà  Ngài  Xá  Lợi Phất  (Sàriputta) đã xác định cho chúng ta thấy: “Ở  đây, này Hiền  giả,  Tỳ  Kheo  ly  dục ly  ác,  bất  thiện pháp…   chứng đạt  an   trú  Sơ  Thiền. Này Hiền giả, nếu trong  khi  Tỳ Kheo ấy trú với an  trú  này,  các  tưởng  tác  ý  câu  hữu  với dục vẫn  hiện hành;  như  vậy  đối  với  vị  Tỳ Kheo ấy là một chứng bệnh...”.
Ở  đây chúng tôi khuyên các bạn, cứ ôm pháp  mà  tu  tập  cho chính  xác,  đừng tu  tập  sai theo kiến giải, đừng để tâm chạy theo lạc thọ, khổ thọ, bất lạc bất khổ thọ. Vì chạy theo các trạng thái cảm thọ ấy là các bạn đã rơi vào các chứng bệnh thiền tưởng.
Niết Bàn là một trạng thái lạc nhưng Tôn giả  Udàyi  không  hiểu  nên  hỏi:  “Sao  đây  là lạc,  khi  ở   đây  không  có  cái  gì được  cảm thọ?”. Nếu còn có cảm thọ thì sự cảm thọ đó là dục lạc chứ không phải lạc của Niết Bàn.
Ngài Sàriputta xác định rất rõ ràng: “Dục lạc  có  năm: Sắc,  thinh,  hương, vị,   xúc”. Còn lạc của Niết Bàn Ngài nói: “- Này Hiền giả, cái này ở  đây là lạc,  dù rằng lạc ấy ở đây không được cảm thọ”.



Bởi  thế  khi tu  hành  có  các  cảm  thọ,  thọï lạc  hay thọ  khổ,  chúng  ta  đừng  nên  lưu ý  đến nó. Biết thì biết, nhưng phải ôm cho chặt pháp đừng  vì thọ  khổ  mà  bỏ  pháp  mà  cũng  đừng  vì thọ  lạc  mà  cho  là  mình   chứng  đạo.  Tất  cả những trạng thái này là bệnh.
Các bạn nên lưu ý: trạng thái Niết Bàn có “lạc”  nhưng  không  có  “cảm thọ”.  Còn có  cảm thọ  bất  cứ  một  trạng  thái  nào  đều   là  bệnh thiền.




BÍ QUYẾT GIÂI THỐT


LỜI PHẬT DẠY

“Bí   quyết  thành   tựu  của  Đạo  Phật
chỉ có hai điều kiện quan  trọng nhất:

1-  Giữ tâm không phóng dật.

2-  Thích  sống   nhàn   tịch,  độc   cư,
trầm lặng một mình”.


CHÚ GIẢI:
Con   đường  tu  tập  giải  thoát  của  Phật giáo,  không  phải  cần  nhiều  pháp  môn,  chỉ  có hai pháp quan trọng nhất cho con đường tu tập này.  Đó  là  “Giữ  tâm  không phóng  dật  và thích sống  nhàn  tịch, độc  cư,  trầm lặng một mình”. Vậy  giữ  tâm  không  phóng  dật  và thích  sống  nhàn  tịch,  độc  cư, trầm  lặng  một mình  như thế nào?
1/  “Giữ   tâm   không   phóng  dật”.  Các bạn  đều biết  những  pháp  môn  tu  tập  này  chứ? Đó là Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Thân Hành



Niệm. Nhờ các pháp này tu tập tâm lần lượt sẽ không phóng dật. Vậy các bạn hãy cố gắng tu tập đừng biếng trễ.
2/   “Thích  sống   nhàn   tịch,  độc   cư, trầm  lặng  một mình”. Chắc các bạn đều biết những pháp môn tu tập này chứ? Đó là pháp môn phòng hộ sáu căn, pháp môn như lý tác ý.
Khi tu  tập,  các  bạn  phải  thiện  xảo  khéo léo  áp  dụng đúng  thời,  đúng  lúc  thì rất  hữu hiệu, đạt kết quả rất cao.
Người nào tu tập thích sống nhàn tịch, độc cư, trầm lặng một mình  là con đường tu tập sắp đến đích, còn ngược lại không thích sống nhàn tịch, độc cư, trầm lặng một mình,  thích nói chuyện,  thích  tập  họp  thì con đường  tu  tập  sẽ còn  xa lắm,  biệt  mù.  Biết  rõ  những  điều  này các bạn cần lưu ý hai pháp trên đây. Vì thương xót chúng ta mà đức Phật mới nhắc nhở. Vậy chúng  tôi  mong các  bạn  cố  gắng  tu  tập  nhiều hơn nữa, để  chứng minh  cho các nhà Đại Thừa biết rằng chúng ta tu theo pháp thiền định của Nguyên Thủy mà kết quả rõ ràng và cụ thể.




PHÁP MƠN  NHƯ  LÝ TÁC Ý


LỜI PHẬT DẠY

“Này  các  Thầy  Tỳ  Kheo, do  không như   lý  tác  ý,  các  lậu  hoặc  chưa   sanh được sanh  khởi và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng”.
“Này  các  Thầy  Tỳ  Kheo, do như lý tác  ý,  các  lậu  hoặc  chưa   sanh   không sanh  khởi, các  lậu  hoặc  đã  sanh  được
đoạn trừ”.


CHÚ GIẢI:

Đệ nhất pháp diệt lậu hoặc là pháp môn như  lý  tác  ý.  Người  ở   đời  do không  biết  pháp môn như lý  tác ý  này, nên khổ đau, phiền não dẫy  đầy.  Người  tu  hành  theo  Phật  giáo  nhờ pháp  như  lý  tác  ý  mà  tâm  được an vui,  thanh thản  và  vô  sự,  sống   một  đời  sống   tràn  đầy hạnh  phúc,  không  một  pháp  ác  nào  tác  động được vào tâm.



Lời dạy thứ  nhất  đức  Phật  nói:  “Này  các Tỳ Kheo, do không như  lý tác ý, các sự đau khổ chưa  sanh  được sanh  khởi và các đau khổ đã  sanh  được tăng  trưởng”.   Đúng  vậy, nếu các bạn hằng ngày không theo pháp như lý tác ý ly tham, đoạn ác pháp, thì chắc chắn các bạn sẽ không tránh khỏi sự khổ đau.
Ngược lại, nếu các bạn hằng ngày theo pháp  như  lý  tác  ý  ly  tham,  đoạn ác  pháp,  thì chắc  chắn  các  bạn sẽ  vượt  ra khỏi  mọi  sự  khổ đau. Đó  là  sự  giải  thoát  của  Phật  giáo.  Từ  nơi đó các bạn chứng quả A La Hán. Các bạn có tin điều  này  không?  Các  bạn  cứ  thực  hiện  ngay liền sẽ thấy kết quả một cách cụ thể thực tế. Phật pháp không dối người.
Pháp  môn  như  lý  tác  ý  lợi  ích  như  vậy, xin  các  bạn  hãy  siêng  năng  tập  luyện.  Sự  an vui,  hạnh  phúc  trong  tầm  tay  các  bạn,  quả  A La  Hán  không  xa đâu  các  bạn ạ!  Nếu  các  bạn xem thường  nó  thì cuộc  sống  của  các  bạn chắc chắn khổ nhiều, vui ít.
Những  lời dạy  ngắn  gọn  nhưng  kết  quả giải thoát không lường được, một giá trị pháp môn  tu  hành  cao nhất  trong  Phật  giáo  là  diệt lậu hoặc hoàn toàn.



Cách đây 25 năm chúng tôi tu theo pháp môn tri vọng của Thiền Đông Độ, lạc vào  định tưởng, tưởng chừng như mình muốn điên. Nhờ pháp  môn  như  lý  tác  ý  này  mà  chúng  tôi  xả được 18 loại hỷ tưởng, ổn định được thần kinh. Cuối  cùng  nhờ  nó  mà  chúng  tôi  làm  chủ  được bốn sự khổ đau của kiếp người: sanh, già, bệnh, chết.





XÂ NHÂN, DUYÊN, NGHIỆP


LỜI PHẬT DẠY

1-  “Xả  của  cải  tức  là  xả  cái  duyên
lìa tội ác.

2-  Xả  tham  đọa tức  là  xả  cái  nhân lìa tội ác.
3-  Xả tội tức là dứt các nghiệp sanh
tử”.

--o0o--

1-  “Không  xả   bỏ   của   cải   thì pháp
sám hối không thành.

2-  Không      xả        tâm     tham thì       nhân luân hồi không dứt.
3-  Không  xả  tội  thì   hạnh  ô    nhiễm
không quên”.


CHÚ GIẢI:

Đúng như lời Phật dạy: “Xả của cải tức là  xả  cái  duyên  lìa tội ác”.  Người  còn  tích lũy của cải là  người  còn tạo duyên tội ác. Thưa



các  bạn!  Người  xả  của  cải  là  ai? Và  xả  của  cải như thế nào?
Noi gương đức Phật đấy các bạn ạ! Phật là hàng vua chúa, Người đã  xả bỏ ngai vàng, điện ngọc, vợ  đẹp, con thơ. Người  đã  xả  hết  chỉ  còn ba y một  bát,  đi xin  ăn,  sống  rày  đây,  mai  đó, không  nhà,  không  gia  đình,  thiểu  dục,  tri túc, tâm  hồn  trắng  bạch  như  vỏ  ốc,  phóng  khoáng như hư không. Ngài là hiện thân gương hạnh buông xả và đã nhờ buông xả mà Ngài đã tìm thấy  được  chân  lý.  Con  đường  giải  thoát  cho chính mình  và cho mọi người mai sau. Gương hạnh sống buông xả của Phật thật là tuyệt vời. Cuộc  đời  Ngài  nói  được làm  được,  đó  là  lời  nói đi  đôi  với  hành  động:  “Xả  của  cải  tức  là  xả cái duyên lìa tội ác”. Ngài đã sống đúng nhất quán, lìa tội ác.
Hỡi các  bạn  đồng tu!  Đức  Phật  thì xả  cái duyên  lìa tội  ác,  còn  các  bạn  thì sao? Sao các bạn  lại  tích  lũy  của  cải  nhiều  thế?  Chùa  to Phật  lớn,  tiền  bạc  nhiều,  xe cộ,  đồ  đạc,  phòng ốc  sang đẹp như ông Chúa, bà Hoàng, …  của  cải không thấy bớt, ngày càng thêm nhiều... Như vậy các bạn có biết không? Các bạn có xả cái duyên tội ác không? Tích lũy của cải là tích lũy tội  ác  đấy  các  bạn  ạ!  Hãy  tránh  xa của  cải  thì

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP III


tội ác mới tiêu trừ. Như vậy con đường tu hành của các bạn mới tìm  thấy sự giải thoát.
Qua lời dạy trên đây chúng ta thấy rất rõ cái duyên tội ác là do của cải, tài sản. Cho nên ai tích lũy của cải tài sản nhiều là người tạo duyên tội ác nhiều, ai tích lũy của cải tài sản ít thì tạo duyên tội ác ít.
Một  người  tu  theo  Đạo  Phật  khi đã  hiểu biết duyên  nào  gây  ra tội  ác,  thì chúng  ta  nên từ  bỏ  và  tránh  xa  duyên  đó.  Phải  không  các bạn? Nếu không tránh xa duyên tội ác đó thì chúng ta đừng nên tu theo Đạo Phật, vì có tu chẳng  có  ích  lợi  gì  cả.  Duyên  tội  ác  là  gì các bạn.  Là  của  cải,  tài  sản,  ruộng  vườn,  đất  đai, nhà cửa, chùa to, Phật lớn, v.v…
Xả  của  cải tài sản,  v.v... là  xả  cái quả  của tội ác như trên, còn xả cái nhân tội ác. Thì đến câu  hai  đức  Phật  dạy:  “Xả  tham đọa  tức  là xả  cái  nhân  lìa tội  ác”.   Vậy  tham  đọa là nghĩa gì?
Tham  đọa tức  là  tham  độc,  một  trong  ba độc: Tham, sân, si.
Tham  đọa  có  nghĩa  là  lòng  tham  muốn đưa chúng  ta  vào  sự  khổ  đau; tham  đọa còn  có



nghĩa  là  do lòng  tham  muốn  đưa chúng  ta  vào cảnh khổ hay địa ngục.
Lòng  còn  tham  muốn  là  cái  nhân  của  tội ác.  Người  tu  theo  Đạo  Phật  phải  thấy  rõ  cái nhân này: “Tâm tôi có tham tôi biết tâm tôi có tham”, tức là tôi biết tâm tham là nhân của tội lỗi. Do đó, tôi phải ngăn và diệt nó, ngăn và diệt cái  nhân  tội  lỗi  là  diệt lòng  tham  muốn của mình.
Qua lời dạy  này  tôi  biết  rất  rõ  nhân  của tội ác là tâm tham muốn của tôi. Vậy từ đây tôi quyết tâm diệt trừ cái nhân gây ra tội ác. Nhờ có quyết tâm ấy, tâm tham của tôi chấm dứt.
Lời dạy này tuy ngắn ngủi nhưng nó mang đầy đủ tính  chất đạo giải thoát của Phật giáo.
Theo như lời Phật dạy: “Xả  tội ác  tức  là dứt  các  nghiệp sanh  tử”.  Ở    đây  đức   Phật dạy: “xả tội ác”. Vậy xả tội ác như  thế nào?
Như hai lời dạy ở  trên:

1-  Duyên của tội ác là của cải.

2-  Nhân của tộâi ác là lòng tham muốn. Theo  như  lời dạy  trên  đây  chúng  ta  đã
biết duyên và nhân của tội ác. Vậy xả tội ác thì



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!