chỉ có xả nhân
và duyên của
nó, thì tội ác sẽ
không còn nữa.
“Xả tội ác
tức xả của cải và
tâm tham muốn của
chúng ta”. Tu theo
Phật giáo quá đơn giản
phải không các bạn?
Chỉ cần
xả của cải và tâm tham muốn của
mình thì không còn tội lỗi và dứt nghiệp
sanh tử. Nói thì dễ nhưng làm được việc
này không phải dễ. Phải không các bạn?
Hiểu biết
thì dễ và rất
đúng nhưng làm sao xả của cải và tâm tham muốn của
mình cho được. Không đơn giản đâu
các bạn. Cả một
công trình vĩ đại của một đời người tu tập.
Xả của cải thì dễ,
nhưng xả lòng
ham muốn thì khó.
Khó lắm các bạn ạ! Chỉ có những
bậc thấy biết đời
này khổ
như thật thì mới làm được và làm rất dễ dàng. Còn
chúng ta là những hạng cóc, nhái, đời cũng muốn mà đạo cũng muốn. Cả hai đều muốn
hết nên cóc, nhái cũng chỉ là
cóc, nhái mà
thôi. Phải không
các
bạn?
Đức Phật đã
xác định: “Không xả bỏ của cải thì pháp
sám hối không thành”.
Người đời thường hay đến chùa lạy hồng
danh Phật để sám hối hoặc phát lồ sám hối trước
một vị
thầy để mong cho tiêu tội, nhưng sám hối phát lồ hay lạy hồng danh chư Phật mà không xả bỏ của cải
của mình thì
pháp sám hối
không thành có nghĩa là tội lỗi không dứt, không bao giờ hết.
Trên đây
là lời
kết thúc của đức Phật
cho chúng ta thấy lạy lễ hồng danh
chư Phật và phát lồ sám hối không thể tiêu tội nghiệp chướng được.
Người nào dạy chúng ta lạy Phật nhiều và phát lồ sám hối cho tiêu tai nghiệp
chướng là dạy
mê tín, là đi ngược lại lời dạy của
đức Phật; người ấy là đạo sĩ
Bà La Môn đang lừa đảo tín đồ.
“Không xả bỏ của cải thì
pháp sám hối không thành”.
Các bạn có
nghe lời dạy này không?
“Tánh tội vốn
không do tâm tạo Tâm đã diệt rồi tội sạch không Tội trong tâm ấy cả hai không Thế mới là chân sám hối”.
Đây là sự
sám hối của Thiền Tông và Đại
Thừa, nhưng
sự sám hối này
không giống như lời đức Phật dạy: “Không xả bỏ của cải
thì pháp sám hối không
thành”. Chúng ta hãy
nhìn sự thật
về Thiền Tông
và Đại Thừa.
Thiền Tông và
Đại Thừa thì của
cải tài sản càng lúc càng đồ sộ.
Chùa to Phật lớn hằng tỷ bạc, vật chất xe cộ đầy đủ không
thiếu vật gì, giống như người
thế gian. Có
đúng như vậy không các bạn? Vậy sám hối của Thiền Tông
và Đại Thừa có tiêu tội
không các bạn hay chỉ
là lời nói suông mà thôi.
Đức Phật đã
xác định: “Không xả tâm tham thì nhân
luân hồi không dứt”.
Nhờ lời dạy này chúng ta biết rõ nguyên nhân luân hồi là tâm tham. Cho
nên, người nào tâm còn tham là còn
luân hồi; người
nào dứt tâm tham là
dứt luân hồi.
Do lời dạy xác định
này mà trên đường tu tập chúng ta biết rất
rõ mình còn luân hồi hay đã hết luân hồi. Tâm tham còn là còn luân hồi,
tâm tham hết là hết luân hồi.
Như vậy, Đạo Phật
không có dạy điều
gì là mơ hồ trừu tượng mê tín, mà là một sự luân hồi rất cụ thể rõ ràng. Vì tâm
tôi hết tham thì sẽ tương ưng nơi đâu tâm không có tham, còn tâm tôi có tham
thì tôi phải tương ưng với tâm tham của mọi người trên thế gian này, vì mọi người
trên thế gian này tâm đều có tham. Luân hồi là như vậy, là một điều thực tế như
vậy, không thể có
ai chối bỏ được
thuyết luân hồi này
là không có.
Anh còn tham
thì anh tránh
đâu khỏi
chỗ luân hồi;
anh hết tham
thì luân hồi chẳng làm gì
anh được. Ví như:
tâm tham của anh là một tảng đá,
dù anh không muốn nó chìm xuống đáy hồ, nhưng
khi ném nó xuống hồ
thì nó vẫn chìm
xuống tận đáy.
Còn tâm anh không tham ví như giọt
dầu, dù anh muốn nó chìm xuống
đáy hồ, nhưng
khi ném nó xuống hồ nó vẫn nổi.
Qua ý
nghĩa này chúng
ta mới hiểu
rõ nghĩa lời Phật dạy: “Ta chỉ
còn có
một kiếp này nữa mà thôi”. Như vậy, một
người đã tu chứng
đạo thì không còn
luân hồi trở lại thế gian này nữa, dù người ấy có muốn cũng không được, vì họ
đã trở thành giọt dầu rồi, trong thế
gian này còn chỗ nào đâu mà
tương ưng họ tái sanh luân hồi.
Cho nên, thuyết
Bồ Tát tu thành
chánh quả còn trở lại độ chúng
sanh là học thuyết của Bà La Môn. Khi tu tập hết tham rồi, bây giờ vì độ chúng
sanh nên phải
tu tập tham trở lại để luân hồi.
Cũng như học thuyết Phật tánh. Đã
là Phật tánh
là tánh giác,
mà lại còn mê muội chui vào cái đãy da hôi thối (thân tứ đại), lại
còn tham chùa
to Phật lớn, tham
xe hơi nhà lầu,
v.v.. Phật tánh
là tánh giác thì làm
sao có điều vô
lý này được.
Phải không các bạn?
Đúng là
cái lý thuyết
Phật tánh lừa đảo
mọi người. Tỏ ra lòng đại bi, Bồ Tát thương xót chúng sanh như con một. Thật ra
mình tu chưa xong mà muốn làm cỗ xe lớn
độ chúng sanh. Thật là một người mù dẫn
đường cho một đám người mù.
Luân hồi
không phải là
linh hồn đi luân hồi,
như mọi người tưởng,
mà là nghiệp tham đi luân hồi. Cho nên,
người tu hành
là cố tâm tu tập tạo thành nghiệp không tham nơi
tâm mình. Tâm không
còn nghiệp tham
thì chấm dứt luân hồi.
Do những lời dạy
này, chúng ta biết mình
tu tập đến
đâu. Có làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi được chưa? Tu tập có giải thoát hay chưa giải thoát đều biết
rất rõ ràng. Vì tu
tập đến đâu
có kết quả đến
đó. Cho nên đức Phật nói: “Pháp Ta không
có thời gian, đến để mà thấy...”.
Tu theo Phật
giáo chúng ta không sợ lầm đường lạc lối, vì giới luật là một nền tảng vững chắc. Ai
không sống đúng
giới luật thì biết người đó
tu không đúng
pháp. Dù họ
có nói nhập Sơ Thiền,
Nhị
Thiền, Tam Thiền,
Tứ Thiền mà giới
luật không nghiêm
chỉnh thì biết họ chưa ly
dục ly bất thiện pháp.
Chưa ly dục, ly bất
thiện pháp thì Sơ Thiền
còn chưa
nhập được,
huống là Tam
thiền, Tứ Thiền
và làm chủ sanh,
tử, chấm dứt
luân hồi, chỉ là
vọng ngữ
mà thôi. Nhờ những lời dạy này, chúng ta xét về Thiền Tông và Đại Thừa mới
biết rõ giáo pháp của họ
là giáo pháp lừa đảo. Xin
các bạn cảnh giác đừng để khỏi sa
ngã vào đường tội lỗi (diệt Phật giáo).
Đức Phật dạy:
“Không xả tội thì hạnh ô nhiễm không
quên”. Như chúng ta đã biết không xả bỏ của cải
và diệt tâm
tham thì tội không bao giờ hết,
mà tội lỗi không bao giờ hết thì hạnh ô
nhiễm không bao giờ quên.
Ví dụ:
ăn uống phi thời, ngủ
nghỉ phi thời... đó
là những hạnh
ô nhiễm khó
quên. Hút thuốc lá, uống rượu... đó là những hạnh ô nhiễm khó quên.
Tham, sân, si, mạn, nghi... đó là những hạnh ô
nhiễm khó quên. Muốn để cho hạnh ô nhiễm không
còn nữa thì phải
ngay từ lúc này từ bỏ không chạy theo vật chất của cải tài sản, không
tham lam, ngăn chặn lòng ham muốn thì hạnh ô nhiễm mới giữ gìn trọn vẹn.
NHẤT TÂM VÀ
TÁN LOẠN
LỜI PHẬT DẠY
“ Thế nào
tâm không tán loạn?
- Quán thân
trên thân tinh cần không giải đãi, ghi nhớ không quên
để trừ bỏ tham ưu ở đời.
Thế nào gọi
là nhất tâm?
- Thân hành
niệm trong tất cả thời
không mất
oai nghi”.
CHÚ GIẢI:
Tâm tán loạn là gì?
Tâm tán
loạn là tâm còn
nhiều tham ưu, nên
niệm này kế tiếp
niệm khác, suy tư lo nghĩ ưu phiền, lúc nào tâm cũng bất an. Muốn đối trị tâm
tán loạn thì đức Phật đã dạy: “Quán thân trên thân tinh cần không giải đãi,
ghi nhớ không quên để trừ bỏ tham ưu ở
đời”. Vậy quán
thân trên thân tinh cần
không giải đãi,
ghi nhớ không
quên,
để trừ bỏ
tham ưu ở đời là như thế nào?
Câu dạy này
trong kinh Tứ Niệm Xứ dạy về tu tập bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp, tức
là phương pháp truy quét tâm hay còn gọi là pháp môn đẩy lui các chướng ngại
pháp trên thân và tâm để thân tâm được thanh thản, an lạc và vô sự, tức là tâm
không tán loạn.
Nhất tâm
là gì? Nhất tâm
là tâm định trên thân. Tâm định trên thân như thế
nào? Tâm định trên thân
như Phật đã dạy:
“Thân hành niệm trong tất cả thời không
mất oai nghi”. Thân hành
niệm trong tất
cả thời không mất
oai nghi là
như thế nào?
Là đi tôi biết tôi đi, đứng, nằm, ngồi hay hít thở
đều biết không quên. Đó là thân hành niệm.
Thân hành
niệm là một
pháp môn tuyệt vời trong Tứ Niệm Xứ, không những nó là
một pháp môn tu tập nhất tâm mà còn là pháp môn tu tập có đủ mười công đức (thần
lực siêu việt không thể nghĩ lường).
Qua lời dạy
trên đây đức Phật đã trang bị cho
chúng ta
những pháp tu tập xả
tâm rất tuyệt vời,
chứ không như
kinh sách Đại Thừa thường dạy chúng ta tu ức chế tâm bằng
những pháp môn kiến giải, khiến cho chúng ta không thể ly
tham, sân, si được.
Do chỗ ức chế tâm mà
người tu theo
các nhà Đại Thừa rơi vào
danh, lợi, sắc,
thực, thùy. Một bằng chứng
cho ta thấy tu sĩ Đại Thừa càng tu tập tâm danh lợi càng nhiều,
cho nên chùa to, Phật lớn bắt
đầu mọc khắp nơi.
THẾ GIỚI
QUAN CỦA PHẬT GIÁO
LỜI PHẬT DẠY
“Này Bà La
Môn, năm dục trưởng
dưỡng này được gọi là
thế giới trong
luật của bậc
Thánh”.
CHÚ GIẢI:
Thế giới
quan của Phật giáo là năm dục trưởng dưỡng. Vậy năm dục trưởng dưỡng là gì?
Năm dục trưởng
dưỡng như trong kinh Tăng Chi Bộ tập 4 trang 184 dạy: “Các sắc do con mắt nhận
thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái liên hệ đến dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... Các
hương do mũi nhận
thức... Các vị do lưỡi nhận
thức... Các xúc do
thân nhận thức khả lạc, khả hỷ,
khả ý, khả
ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn”. Thế giới quan của Phật giáo rất
thực tế không có mơ hồ trừu tượng. Đó là
một thế giới khổ đau, nếu muốn
cho thế giới này hết khổ đau thì tu tập từ pháp
ly dục ly
ác pháp đến
pháp Tam Minh thì cả thế giới này mới chấm dứt khổ đau.
Nói nghe
đơn giản nhưng
tu tập không đơn giản chút nào. Khi nhãn căn tiếp
xúc nhãn trần sinh ra cảm
thọ, từ cảm thọ sinh
ra khả ái, khả lạc. Một thế giới quan hiện bày đầy đủ tính đau khổ.
Muốn cho thế giới này
không hiện bày thì người tu sĩ phải ngay nơi căn trần xúc chạm sinh ra
thọ thì ngay nơi thọ lạc ta không bị lôi cuốn, nhưng
khi thọ khổ thì ta đừng
sợ hãi, dao động tâm. Chỉ nơi
duyên thọ mà tâm ta bất động thì
thế giới quan sẽ bị diệt. Thế giới quan sẽ bị diệt thì con đường đau khổ sẽ chấm
dứt.
Nói đến:
“Năm dục trưởng dưỡng này được gọi là thế
giới trong luật của bậc Thánh”. Trong
luật của bậc Thánh là 12 nhân duyên,
nói đến 12 nhân
duyên là nói đến thế giới quan của Phật giáo. Nói đến thế giới
quan của Phật giáo
là nói đến bậc Thánh
Duyên Giác. Bậc Thánh Duyên Giác là người xông thẳng vào cửa THỌ giữ tâm
bất động, THỌ LẠC không tham; THỌ KHỔ
không sợ. Chỗ tâm bất động này phá vỡ các duyên khác như: ái, hữu, thủ,
sanh, ưu, bi, sầu, khổ, bệnh, tử, chấm dứt. Từ
đó, thế giới quan đau khổ của Phật giáo bị
sụp đổ tan
tành. Người ấy chứng Thánh quả Duyên
Giác A La Hán đầy đủ
Tam Minh, Lục Thông. Cho
nên đức Phật
gọi: “Năm dục trưởng dưỡng này
được gọi là thế giới trong
luật của bậc Thánh”.
TÁNH THẲNG
THẮN
LỜI PHẬT DẠY
“Thấy cái dở
mà không dám chê là
hèn kém, là
nhút nhát, là dua nịnh.
Thấy cái
hay mà không
dám khen
là ganh tị,
hẹp hòi, cao ngạo”.
CHÚ GIẢI:
Phật dạy:
“Thấy cái dở
mà không dám chê là hèn kém, là
nhút nhát, là dua nịnh”. Đúng vậy, khi chúng
ta biết kinh sách nào Đại Thừa và
Thiền Đông Độ là không phải
giáo pháp của Phật,
mà chính do các
Tổ biên
soạn theo
giáo lý của Bà La Môn, với mục đích là dìm và diệt Phật giáo, mà không dám nói
ra, lại còn tán dương, a dua, nịnh bợ theo, thì thật là hèn nhát, những người
như vậy không xứng đáng là tín đồ
Phật giáo.
Người tín đồ Phật giáo
phải gan dạ, phải thẳng
thắn dám ăn, dám
nói, chỉ thẳng
những cái sai,
cái không phải của Phật giáo. Dựng
lại những gì của Phật
giáo đang bị
ném bỏ. Đừng
có a dua theo kinh sách
Đại Thừa mà trở thành
kẻ hèn nhát
các bạn ạ!?
Người có trí
mà không
thấy cái sai
trong kinh sách phát triển
Đại Thừa và Thiền Đông Độ
thì đâu được gọi
là người có
trí. Như Phật dạy: “Mình ngu mà
biết mình ngu là mình có
trí, mình ngu mà không biết
mình ngu là mình chí ngu”. Cho nên, mình
là những tu sĩ và cư sĩ của Phật giáo mà không thấy cái sai của kinh sách
phát triển Đại Thừa thì không thể
gọi mình là người
có trí. Bởi vì kinh sách phát triển
Đại Thừa có rất nhiều
cái sai, chứ đâu
phải có một hoặc hai.
Chắc các bạn đều
thấy biết rất
rõ, nhưng các bạn quá sợ hãi trước cái khối lực lượng Đại Thừa quá
đông đảo. Trước một thế lực đông đảo như Đại Thừa hiện nay, mà
dám nói thẳng
cái sai của
giáo pháp Đại Thừa là một người tốt,
nói để sửa sai chứ không phải nói xấu mà sợ. Phải
không các
bạn?
Ví dụ: Một Quan Gián Nghị Đại Phu dám can ngăn nhà vua, là vì lợi ích hạnh
phúc cho toàn dân, cho đất nước đó. Một
tu sĩ Phật giáo hay một cư
sĩ Phật
giáo dám nói
cái sai của kinh sách
Đại Thừa là vì
lợi ích cho Tăng, Ni
và tín đồ
Phật giáo. Người
như vậy mới là
người có trí tuệ, người có lòng thương yêu rộng lớn đối với đạo cũng như đời.
Phật dạy:
“Thấy cái hay
mà không dám khen là ganh tị, hẹp hòi, cao ngạo”. Đúng vậy, là tu sĩ Đại
Thừa thấy cái đúng của Phật giáo Nguyên
Thủy mà không
dám khen, là ganh tị, hẹp
hòi, là cố chấp, kiến chấp,
là không thấy xa, hiểu rộng. Làm con người thì phải có trí tuệ thông
minh, phải nhận biết đâu đúng, đâu sai,
chứ đâu phải là người đui, người
điếc.
Thấy người
khác hay hơn
mình, biết rất rõ
mà không dám
khen đó là do
lòng ganh tị, hẹp hòi, cao ngạo; người như vậy là
người xấu, người không đáng cho
ta kính trọng.
Tóm lại, hai
câu trên đây, chúng ta phải hằng ghi nhớ trong lòng, để mình không trở
thành người hèn kém, nhút nhát, lúc nào
cũng là người dám ăn, dám nói thẳng một sự thật.
KHƠNG THỂ CỨU ĐỘ
LỜI PHẬT DẠY
“Không thể rửa
nghiệp đen,
Của kẻ ác
gây tội.
Đối kẻ sống
thanh tịnh, Ngày nào cũng ngày tốt. Với kẻ sống thanh tịnh Ngày nào cũng ngày
lành”.
(Kinh
Trung bộ tập 1 trang 93).
CHÚ GIẢI:
Bài kệ trên
đây xác định Đạo Phật không cứu khổ cho ai được, nên hai câu kệ đầu Phật dạy:
“Không thể rửa nghiệp
đen, của kẻ ác gây tội”.
Vì thế
đức Phật khuyên
rằng: “hằng ngày nên
ngăn ngừa các
ác pháp, luôn sống
trong thiện pháp
thì ngày nào
cũng là ngày tốt, ngày
nào cũng là ngày lành”,
không cần cầu
ai cứu khổ mình cả. Có đúng vậy không
các bạn?
Người theo
Phật giáo mà cầu an, cầu
siêu là người đã đi sai lời dạy của đức Phật. Phật không cứu khổ cho ai
được chỉ có mình tự cứu mình. “Các con tự
thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là người
hướng dẫn đường
mà thôi”. Lời dạy này không khác bài kệ trên đây.
Tóm lại, Đạo Phật
là một tôn
giáo dạy mỗi người
phải tự cứu
mình bằng cách sống
trong thiện pháp,
thì đó là tự
mình xây dựng cho mình
cuộc sống Thiên Đàng, Cực Lạc. Phải mạnh dạn đứng trên đôi chân của
mình, đừng cầu cạnh Thần,
Thánh, Trời, Phật,
quỉ ma vô
ích.
Chúng ta nên
học thuộc lòng những câu kệ này để luôn luôn tác ý, luôn luôn nhớ những lời dạy này đừng quên
các bạn ạ! Vì nó
là hạnh phúc của các bạn. Vì nó
là con đường thoát khổ của các bạn. Các bạn tiến lên đừng chùng bước trước những
gian nan thử
thách, trước những sự khó khăn vô cùng mà người tu sĩ phải
gặp đừng sợ hãi, có Phật và có Thầy đang ở bên các bạn. Khi gặp những
điều gì khó khăn
các bạn không vượt
qua được, thì các bạn
hãy gọi tên Thầy
và giữ gìn
tâm thanh thản,
đừng sợ hãi
đừng dao động
tâm, các bạn sẽ vượt
qua được những đoạn đường khó khăn gian hiểm đó.
KẾT QUÂ CỦA LY DỤC LY ÁC PHÁP
LỜI PHẬT DẠY
1- “Khi quán
tự thân đã xả ly năm triền cái, tâm được định tỉnh mới ly dục ly ác pháp.
2- Với tâm định
tỉnh thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản”.
CHÚ GIẢI:
Lời dạy trên
đây, chúng ta nên chú ý câu một “Quán tự
thân đã xả
ly”. Vậy quán tự thân xả ly là
gì? Quán tự thân xả ly tức là tu
tập Tứ Niệm Xứ.
Khi nào tu tập Tứ Niệm Xứ
mà xả
ly các chướng ngại pháp
trên thân, thọ, tâm, pháp, thì lúc
bấy giờ tâm mới đạt được
trạng thái định tỉnh
thì đây mới chính
là tâm ly dục ly ác pháp hoàn
toàn.
Đoạn kinh
này xác định cho chúng ta thấy pháp môn Tứ Niệm Xứ là pháp môn tu tập
để tâm ly dục
ly ác pháp và đạt được trạng thái “Định
tỉnh”. Trạng thái định tỉnh là một bí pháp để khởi đầu nhập các định
và thực
hiện Tam Minh.
Ở đây
các bạn nên nhớ Tâm định
tỉnh này do ly dục ly ác
pháp, chứ không
phải do ngồi ức chế tâm cho hết vọng
tưởng như Đại Thừa, Thiền Đông Độ và Thiền Minh Sát
Tuệ,
v.v..
Câu hai Phật dạy: “Với tâm
định tỉnh thuần tịnh, không cấu
nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến,
dễ sử dụng, vững
chắc, bình thản”.
Khi tu tập Tứ Niệm Xứ được
sung mãn thì tâm chúng ta đạt được định
tỉnh. Khi đạt được định tỉnh thì tâm
chúng ta có những kết quả
mà câu hai đức Phật
đã xác định rất
rõ ràng: “Với tâm định tỉnh”, thì phải có thuần
tịnh, tâm không
còn cấu nhiễm,
không còn phiền não,
lúc nào cũng
nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc và bình thản.
Ở đây các bạn cần lưu ý: phải tu tập Tứ Niệm Xứ được
viên mãn
thì tâm chúng ta mới
đạt được những kết quả như Phật đã dạy trên.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!