tan rã thì mọi
vật trở về không. Nghĩa là trên thế
gian này không
có một vật
thường còn, vĩnh viễn; không
có một vật
gì còn mãi
mãi. Nếu không có 12 duyên hợp thì thế gian này là trống không. Thế gian
này trống không thì không thành là thế gian nữa. Cho
nên, khi thấu rõ 12
nhân duyên này
thì người ta biết mọi
vật trên thế
gian này không
có vật gì thường hằng, bất di bất
dịch cả. Vì thế, không có vật gì
là ngã, là của ta và cũng không có vật gì là bản ngã của ta cả.
Khi hiểu được
12 nhân duyên như vậy, thì chúng ta không
còn tham đắm
và chấp trước một vật gì trên thế gian này nữa cả. Do
không còn tham đắm
và chấp trước
một vật gì,
thì tâm hồn chúng ta lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm hồn
thanh thản, an lạc và vô sự thì không còn tương ưng với dục và ác pháp thế gian nữa. Vì thế, con đường
sinh tử luân hồi chấm dứt.
Thưa các bạn, lời dạy này có đúng chăng? Xin các bạn phải tư duy nhiều hơn nữa, để thấu
triệt lời dạy này. Khi đã thấu triệt thì
các bạn có cần gì tu
tập nữa đâu.
Thấu triệt, có
nghĩa các bạn đã hiểu như thật. Do hiểu thế giới
duyên hợp này
như thật thì tâm tham,
sân, si
của các bạn
không còn nữa.
Khi hiểu như thật thì các bạn còn tham
cho ai đây? Phải
không các bạn? Khi hiểu như thật thì các bạn sân cho ai đây? Khi hiểu như thật thì các bạn si, mạn, nghi cho ai đây? Phải
không các bạn?
Những người
đang sống trên thế gian này, mà muốn con đường sinh tử luân hồi được chấm dứt,
thì phải thông hiểu
và thấu suốt
12 nhân duyên, tức là thấu suốt thế giới quan của Phật giáo. Thấu
suốt được thế giới
quan của Phật giáo thì tâm hồn không còn tham đắm và
chấp trước mọi vật trên thế gian này nữa như đã nói ở trên.
Những người thấu
suốt được như vậy, thì lậu
hoặc không còn,
nên gọi là bậc A La
Hán Duyên Giác.
Do sự thông
hiểu, tường tận thế giới quan của Phật giáo
như thật, nên
tâm tham đắm, dính
mắc không còn
như trên đã
nói. Tâm tham đắm dính mắc không còn, thì lậu hoặc sẽ được quét sạch.
Lậu hoặc được quét
sạch thì chứng quả A La Hán ngay
liền.
Thưa
các bạn! Tại sao chỉ
cần thông suốt lý 12 nhân duyên như thật là chứng quả A
La Hán mà không thấy tu tập gì cả?
Thưa các bạn!
Khi thông hiểu 12 nhân duyên như thật
thì cuộc sống trong
thế gian
này, không
còn có nghĩa lý gì cả các bạn ạ! Chỉ thấy
nó như là một cơn ác
mộng mà thôi.
Vì thế danh, lợi, sắc, thực, thùy không còn quan trọng với họ nữa, chỉ là những ảo giác, cám dỗ của nhân quả, để dẫn dụ
lôi cuốn các bạn chìm đắm
trong khổ đau và
mãi mãi luân hồi muôn
kiếp.
Mười hai
nhân duyên này hợp tan tạo nên hình
hài của vạn hữu giống
như sóng biển, chẳng
có gì là hạnh phúc,
an lạc, là êm ấm, đẹp
đẽ cả... Cho nên người nào hiểu rõ được 12 nhân duyên này
như thật, thì họ buông bỏ vật chất tiền
tài danh lợi
trên thế gian
này như ném bỏ một chiếc giày
rách, một vật phế thải không còn dùng vào một việc gì được cả.
Do buông
bỏ tất cả,
không còn chút
xíu nào tiếc rẻ,
ngay cả thân
tâm của họ
mà họ cũng không còn tiếc. Có một
câu chuyện buông bỏ tuyệt
vời: “Trên núi
cao thanh vắng vùng Hy
Mã Lạp Sơn có một vị ẩn sĩ
tu hành đã chứng
quả A La Hán. Nhiều
người được biết đến,
dù ở cách
xa muôn ngàn vạn dặm,
người ta vẫn tìm đến Ngài và cầu xin làm đệ tử. Ngài vui vẻ chấp nhận, nhưng phải trèo lên mỏm đá cao cheo leo trên kia
và dám nhảy
xuống thì Ngài nhận làm đệ tử liền.
Mãi đến nay chưa có
người nào
dám lao mình
xuống vực thẳm”. Đứng trên núi cao nhìn xuống vực thẳm, mà lao đầu xuống thì ai cũng ớn
lạnh. Phải không các
bạn?
Như vậy, rõ
ràng người ta chưa dám buông bỏ.
Chưa dám buông
bỏ là người
ta còn thấy thân
tâm này chân
thật. Còn thấy
thân tâm này chân
thật là còn thấy vạn vật trong
thế gian này là
chân thật. Do còn
thấy như vậy, nên
các bạn muốn
tu giải thoát
thì phải sống đúng giới luật và
tu tập theo 37 phẩm trợ đạo. Người tu tập như vậy thì không phải người giác ngộ
12 nhân duyên. Người giác ngộ 12 nhân duyên thì họ không tiếc rẻ một vật gì
trên thế gian này, ngay cả
thân mạng của họ như
trên đã nói, thì tâm
hồn họ như thế nào
các bạn? Thanh thản, an lạc và vô sự các bạn ạ! La Hầu La
con của đức Phật khi nghe nói thân này không
phải là ta,
là của ta,
là bản ngã của ta thì Ngài trở về thất tu tập
không đi khất thực nữa. Bởi vì
Ngài nghĩ thân
này không phải
là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì đi khất thực nuôi ai đây. Đúng vậy,
Ngài là bậc Duyên Giác A La Hán, là con
Phật. Còn bây giờ chúng
ta thì sao? Là con Phật (Phật tử) mà sao thích nói
chuyện quá vậy? Nói
chuyện có ích lợi
gì các
bạn?
Khi họ buông
xả sạch, không còn tiếc rẻ một vật gì ngay cả bệnh tật khổ đau nhức nhối trong
thân, họ cũng buông bỏ chẳng hề sợ hãi, ưu tư
và lo lắng nữa. Người
ta buông bỏ như
vậy thì tâm hồn của họ bất động.
Phải không các bạn?
Khi tâm hồn họ bất động trước
các ác pháp và các cảm thọ thì có
7 năng lực Giác Chi xuất hiện. Dù chúng ta chưa tu tập Tứ Chánh cần, Định Niệm
Hơi Thở, Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Tứ Niệm Xứ và Thân Hành Niệm,
mà chỉ cần
giác ngộ 12 nhân
duyên thì tâm trạng
của chúng ta
cũng giống như tâm trạng tu tập Tứ
Niệm Xứ vậy.
Do viên mãn
tu tập Tứ Niệm Xứ mà chúng ta nhập các định và thực hiện Tam Minh dễ dàng. Còn ở đây chúng ta chỉ giác ngộ 12 nhân duyên,
buông xả sạch vật chất thế gian thì tâm trạng
chúng ta cũng
giống như người
tu Tứ Niệm Xứ đã làm sung mãn Tứ Niệm Xứ,
do đó chúng ta cũng nhập các định và thực hiện Tam Minh dễ dàng. Như
vậy, người tu tập Tứ Niệm
Xứ chứng
quả vô lậu A
La Hán, thì người giác ngộ 12 nhân duyên cũng chứng quả vô lậu
A la
Hán như nhau. Họ cũng đầy đủ Tứ
Như Ý Túc và cũng chấm dứt tái sanh luân hồi.
Cho nên, đức
Phật dạy: “Này Anandà, đừng nói thế
! Đừng nói
thế ! Giáo
lý duyên khởi này sâu xa và có vẻ sâu xa hơn. Chính vì không hiểu rõ,
không thâm nhập giáo lý này,
mà nhân loại
trở nên như cuộn
chỉ rối rắm,
như ổ kiến
rối, như cỏ babaja, không thể
thoát ly khỏi khổ xứ, ác thú, địa ngục và sanh tử”. Xem thế chúng ta mới thấy
12 nhân duyên là một pháp môn quan trọng
vô cùng. Cho nên,
bước đầu vào học và hiểu
chân lý thứ nhất của Đạo Phật.
Ngài đã xác định “Đời Là Khổ”.
Vì các pháp
trên thế gian này là do các duyên hợp mà thành, có pháp nào chân thật đâu? Thế
mà mọi người không chịu buông bỏ xuống.
Ôi! Con người quá
điên đảo, ngu si
cứ lao đầu vào ảo ảnh mà cho rằng:
các pháp như thật có, chân thật có, sao lại nay còn, mai mất? Chân thật hạnh phúc,
an lạc sao lại nay hạnh phúc, an lạc
mà mai lại khổ đau, buồn
rầu? Vì không hiểu biết các pháp
do duyên hợp tạo thành, nên rối rắm như cuộn chỉ, lầm chấp cho các pháp
là thật có,
nên để rồi phải chịu
khổ
đau như loài
thiêu thân thấy ánh sáng lao đến để tìm hạnh phúc.
Mười hai
nhân duyên gồm có:
1- Duyên Vô
Minh; 2- Duyên Hành; 3- Duyên Thức; 4- Duyên Danh sắc; 5- Duyên Lục nhập; 6- Duyên
Xúc; 7- Duyên Thọ;
8- Duyên Ái; 9- Duyên Hữu; 10- Duyên Thủ; 11- Duyên Sanh; 12- Duyên ưu
bi, sầu khổ, bệnh chết.
Trong 12 duyên
này, hễ có
duyên này có thì duyên
kia có, hễ duyên
này diệt thì duyên kia diệt.
Giáo lý
Nguyên Thuỷ có hai ngõ vào:
- Ngõ thứ nhất,
là vào duyên
SANH đột phá bằng giới luật và 37
phẩm trợ đạo như những bậc Thinh Văn A La Hán.
- Ngõ thứ
hai, là vào duyên THỌ đột phá bằng bất động tâm
như những bậc Duyên Giác A La Hán, Độc Giác Phật.
Giáo lý Đại Thừa
có một ngõ
vào, đó là vào duyên VÔ MINH đột phá bằng MINH như những
bậc Bồ Tát, ngõ này chỉ là ảo tưởng nên các vị Bồ Tát chưa nếm được mùi vị giải
thoát.
Thưa các bạn!
Sau khi nghiên cứu và quán xét 12
nhân duyên này
xong thì các bạn thấy
rõ con đường
giải thoát của Phật giáo
là đạo đức nhân bản - nhân quả.
Chánh pháp của
Phật đây rồi! Thế có ai biết! Biết, sao các bạn không dám buông bỏ xuống!?
Có buông
bỏ xuống thì các
bạn mới thấy rõ: đâu là ảo ảnh của hạnh phúc và đâu
là chân thật của hạnh phúc!
ĐOẠN TẬN LẬU
HOẶC
LỜI PHẬT DẠY
“1- Hộ trì
các căn
2- Tiết độ
ăn uống
3- Chú tâm tỉnh
giác”.
CHÚ GIẢI:
Có ba pháp
đoạn tận lậu hoặc.
Vậy lậu hoặc là gì?
Lậu hoặc
là sự khổ
đau của con người.
Ba pháp đoạn tận
lậu hoặc tức
là ba pháp đoạn tận
sự khổ đau của
con người. Vậy ba pháp môn này là
gì? Ba pháp này là:
1- Hộ trì
các căn
2- Tiết độ
ăn uống
3- Chú tâm tỉnh
giác
Hộ trì các căn
Hộ trì các
căn như thế nào?
Hộ trì các
căn là một pháp môn để giữ gìn mắt, tai,
mũi, miệng, thân, ý, để tâm ly dục ly
ác pháp, để
tâm tuôn trào tất cả nghiệp chướng do từ lâu huân tập. Hộ trì các căn là một
pháp trong nhóm của pháp môn “độc cư”. Độc cư chia ra làm ba nhóm:
- Nhóm thứ
nhất, là độc cư thuộc về thân, còn gọi là an trú.
- Nhóm thứ
hai, là độc cư
thuộc về
ý, còn gọi là độc trú.
- Nhóm thứ
ba, là độc cư thuộc về sáu căn, gọi
là phòng hộ
sáu căn, còn gọi là hộ trì các căn. Hộ trì các căn tức là dùng pháp
như lý tác ý để giữ gìn mắt, tai, mũi,
miệng, thân và ý.
Độc cư thuộc
về thân thì phải sống một
mình nơi
thanh vắng, yên tịnh, không
thích hộïi họp, không thích nói chuyện, không thích kết bè, kết bạn, thường
an trú nơi thân hành.
Độc cư về
tâm thì phải tập
luyện giữ gìn tâm vắng lặng, tịch chiếu, nên thường tác
ý: “Tâm phải thanh thản, an lạc
và vô
sự ”. Độc cư về tâm thuộc về pháp môn Tứ Niệm Xứ
(quét tâm).
Độc cư thuộc
về sáu căn
thì khi đi, đứng, nằm, ngồi đều phải
tác ý nhắc
các căn phải quay vào trong thân. Ví dụ: Mắt phải
nhìn bước đi; tai phải
lắng
nghe bước đi;
mũi phải ngửi
bước đi; miệng
phải cảm
vị bước đi;
thân phải cảm nhận bước đi; ý phải
ý thức từng bước đi.
Tóm lại, độc
cư là pháp phòng hộ sáu căn đệ nhất pháp của Phật.
Rèn luyện và
trau dồi nó thì chúng ta sẽ có một
ý chí kiên cường, một nghị lực dũng mãnh, nó cũng là pháp môn bí quyết thành tựu
viên mãn Tứ Niệm Xứ để thực hiện Tứ
Thánh Định. Đó
là pháp thứ nhất
đoạn tận khổ đau, nếu
các bạn siêng năng
tu tập và sống
cho đúng Phạm hạnh thì quả vị A La Hán không còn khó khăn nữa.
Tiết độ ăn uống:
Tiết độ ăn uống như thế nào?
Tiết độ trong ăn uống thì không
được ăn uống phi thời. Ăn ngày một bữa, không ăn uống lặt vặt.
Tiết độ trong ăn uống là pháp môn ly dục đệ nhất.
Người ăn ngày một bữa,
tâm dục ít. Tâm dục ít, thì ít bệnh tật khổ đau; tâm
dục ít, thì ít ham muốn; tâm dục ít, thì dễ lìa xa
ngũ dục lạc; tâm dục ít, thì thích sống độc cư, trầm lặng; tâm dục ít, thì ít
hôn trầm, thùy miên, vô
ký…
Tiết độ trong
ăn uống thì chúng
ta có nhiều thì giờ
rảnh rang, tâm hồn lại dễ thanh thản,
an lạc và vô sự. Người
ăn ngày một bữa
dễ hòa
nhập vào đời sống của
chư Phật, chư Hiền, Thánh, Tăng,
tức là tương
ưng với chư Phật, chư vị A La Hán, v.v..
Tóm lại, hạnh
ăn uống có tiết độ là một Thánh đức hạnh của bậc
lìa xa ngũ dục thế
gian, là
của những bậc
đã xa lìa mọi sự
ràng buộc triền phược,
kiết sử của thế gian,
là bậc giải thoát.
Chú tâm tỉnh giác
Chú tâm tỉnh
giác như thế nào? Chú tâm tỉnh giác là pháp môn nương vào thân hành niệm nội và
ngoại tu tập như:
1/ Chánh Niệm
Tỉnh Giác
2/ Mười tám
đề mục Định Niệm Hơi Thở.
3/ Thân Hành
Niệm.
Đó là những pháp
chú tâm tỉnh
giác đệ nhất của Phật giáo.
Nếu ai tu
đúng thì tỉnh giác rất cao, tỉnh
giác trong cuộc sống hằng ngày, có việc gì xảy đến, đều hóa giải một cách dễ dàng,
có nghĩa là đẩy lui
các chướng ngại pháp
một cách dễ
dàng. Còn nếu
ai tu sai, thì bị
ức chế tâm,
sinh ra các trạng
thái tưởng và có
thể rối loạn
thần kinh, hoặc đứt mạch mao phế quản trong phổi khiến khạc ra máu,
như cư sĩ Minh Tông (Tôn) v.v..
Tóm lại,
ba pháp môn đoạn tận
lậu hoặc này, nếu
ai quyết tâm
tu tập tìm cầu
sự làm chủ sinh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi thì phải kiên trì sống
và tu tập ba
pháp môn này. Luôn
lúc nào cũng
phải nhớ “Hộ
trì các căn”, tức là phải sống độc cư. Đồng
thời, phải sống đúng
cách “ăn uống
phải tiết độ”, không được ăn uống phi thời. Như vậy cũng
chưa đủ, hằng ngày phải siêng năng tu tập “Chánh niệm tỉnh giác” trong mỗi niệm
của tâm, trong mỗi hành động của
thân, để hoá
giải từng tâm niệm, từng ác pháp. Có sống và tu tập
đúng ba pháp môn trên như vậy thì sự đau khổ sẽ chấm dứt, lậu hoặc sẽ
không còn. Cho nên,
các bạn cần phải thông suốt ba
pháp môn này. Ba pháp môn này là ba
pháp môn
đoạn tận lậu hoặc tuyệt vời, mà không còn có một phương
pháp nào hơn được.
CĨ NĂM PHÁP
CẦN TU TẬP
LỜI PHẬT DẠY
1- Tín
căn cần tu tập
“Tứ Chánh
Cần”.
2- Tấn
căn cần tu tập
“Tứ Chánh
Cần”.
3- Niệm
căn cần tu tập
“Tứ Niệm
Xứ”.
4- Định căn cần tu tập
“Tứ Thánh
Định”.
5- Tuệ căn cần
tu tập “Tam Minh”.
CHÚ GIẢI:
Ở đây đức Phật
dạy có năm căn cần phải tu tập. Vậy năm căn là gì? Năm căn là năm cội gốc vững
chắc trên đường
tu tập đi đến giải thoát hoàn toàn. Năm căn gồm có:
1/ Tín căn
2/ Tấn căn
3/ Niệm Căn
4/ Định căn
5/ Tuệ căn
TÍN CĂN
Tín căn
nghĩa là gì? Tín là lòng tin; căn là cội gốc. Vậy tín căn có nghĩa là cội gốc của
lòng tin. Muốn có được cội gốc của lòng
tin thì phải tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần.
Tứ Chánh
Cần là phương
pháp tu tập ngăn và diệt các ác pháp, để rồi luôn sống
và tăng trưởng trong các thiện pháp. Đó là một phương pháp
chứng nghiệm kết quả thực tế
giải thoát ngay liền
tức thời. Vì
tu tập có kết
quả giải thoát ngay liền, nên mọi người bắt đầu tu theo
Phật giáo là tin
tưởng ngay giáo pháp này.
Tin tưởng ngay
giáo pháp này
là cội gốc của lòng tin (tín căn).
Muốn được vậy,
thì hằng ngày chúng
ta nên sống trong
chánh kiến, chánh
tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh
mạng. Có sống được như vậy, thì chúng
ta ngăn và diệt
được ác pháp, khiến
cho tất cả ác
pháp không tác động
vào thân, tâm
chúng ta được. Khi ác pháp không tác động vào thân,
tâm chúng ta được, thì đó là trạng thái
bất động tâm. Trạng
thái bất động tâm
là trạng thái
giải thoát. Tương ưng với chư Phật
và A La Hán.
Khi tu tập đạt được kết quả như vậy, đó
là cội gốc của lòng tin. Cội gốc của lòng tin tức là tín căn.
Như vậy,
muốn có tín căn
thì cần phải tu tập “Tứ Chánh Cần”, nói cách khác cho dễ hiểu hơn, là muốn có niềm tin sâu với Phật
Pháp thì phải tu tập “Tứ Chánh Cần”. Tu tập “Tứ Chánh Cần” tức là tu tập lòng
tin với Phật giáo.
Bởi vì tu tập
Tứ Chánh Cần là có kết quả giải thoát
ngay liền khiến cho thân, tâm sống
thanh thản, an lạc và vô sự, không còn phiền não, khổ
đau hay giận hờn,
thương ghét, v.v.. có
tu tập được như vậy
thì mới có lòng
tin sâu sắc. Cho nên,
lòng tin của Phật
giáo, không phải là
lòng tin suông; không
phải là lòng
tin trong mơ mộng ảo tưởng; không phải lòng tin mù quáng;
không phải lòng
tin trong mơ hồ, trừu tượng, ảo giác mà tin bằng cách chứng
nghiệm chân thật mình đã cảm nhận được tâm giải thoát thật sự. Có
nghĩa là tâm mình đã lìa tham, sân, si,
mạn, nghi thật.
Lòng tin của
Đạo Phật là lòng tin chân thật. Tin một
điều gì, thì điều đó phải có thật, phải được chứng
nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe và
cảm nhận được một
cách rõ ràng,
chứ
không phải
lòng tin hồ đồ như
tin có cõi Trời, có
linh hồn, có ma,
có quỉ, có
cõi Cực Lạc, Thiên Đàng, có Thần, Thánh, có đại ngã,
tiểu ngã, có Phật tánh, có Ngọc Hoàng Thượng Đế, v.v.. Tin như vậy
là mê tín, là
lạc hậu, tin mà không căn cứ vào đâu cả, tin mà không
có bằng chứng cụ thể. Đó là tin trong mê muội; trong vô minh; trong ngu si; trong mù quáng; niềm tin không
có trí tuệ v.v..
Tin như vậy không thể gọi là tín căn. Cho nên đức
Phật dạy: Muốn có cội gốc lòng tin, thì phải
tu tập Tứ
Chánh Cần. Tu tập
Tứ Chánh Cần tức
là tu tập
lòng tin Phật giáo.
Tin một điều thấy, hiểu, biết và
cảm nhận có thật.
TẤN CĂN
Tấn căn
nghĩa là gì? Tấn là
tinh tấn, siêng năng; căn
là cội gốc. Vậy tấn
căn có nghĩa là cội gốc của
lòng tinh tấn, siêng năng. Vậy muốn
có được cội gốc tinh tấn, siêng năng thì phải tu tập pháp môn gì?
Ở đây
đức Phật dạy:
phải tu tập
“Tứ Chánh Cần”. Tại sao Tứ Chánh Cần giúp cho chúng ta tu tập siêng
năng?
Bởi, Tứ
Chánh Cần là một pháp
môn mang đến cho chúng
ta có một đời sống
giải
thoát, đem đến
cho chúng ta có sự an vui
thật sự ngay liền, một
kết quả cụ thể rõ
ràng, mà không thể ai phủ nhận được.
Càng tu tập càng thích tu hơn, đó là tấn
căn.
Ví dụ 1: Một nhà
nông làm ruộng, có làm
ruộng là có lúa ăn. Vì có lúa ăn nên nhà nông siêng năng làm.
Ví dụ 2: Tâm
tôi có tham, tôi biết tâm tôi có tham. Tham là một ác pháp, ác pháp sẽ đem đến
cho tâm tôi khổ đau, không được an vui. Do biết
như vậy, tôi liền
tác ý
diệt ác pháp.
Khi diệt ác pháp xong,
tâm tôi không
còn tham nữa. Tâm
không còn tham nữa là
tâm giải thoát, là hết khổ đau.
Do kết quả giải thoát an vui thật sự như vậy, nên chúng tôi rất hoan hỷ
siêng năng, tinh tấn
tác ý để
ngăn và diệt những
ác pháp hằng
ngày. Nhờ có
tác ý ngăn và
diệt ác pháp,
nên ác pháp
không tác động vào thân tâm được. Vì thế, chúng tôi
luôn luôn được sống trong sự thanh thản,
an vui và hạnh phúc. Do sự tu tập có lợi ích thiết thực như vậy cho đời sống nên
chúng tôi siêng
năng tu tập. Cũng
như làm ăn
có khá giả,
nên chúng tôi siêng năng làm ăn. Phải không các bạn?
Vì kết quả lợi ích như vậy, nên
lòng ham muốn siêng
năng phát sinh mạnh mẽ.
Nhưng
để muốn
thể hiện lòng
siêng năng, tinh cần này
thì chỉ có
tu tập “Tứ
Chánh Cần”. Tứ Chánh Cần là cội gốc siêng năng, tinh tấn.
Do vậy đức Phật
dạy: “Tấn căn
cần tu tập
Tứ Chánh Cần”.
NIỆM CĂN
Niệm căn
nghĩa là gì?
Niệm là những hành
động nơi thân của chúng
ta, căn là cội
gốc. Vậy niệm căn có nghĩa là cội gốc niệm nơi mỗi hành động của
thân chúng ta.
Có người hiểu sai lầm niệm là ý
niệm, tâm niệm, nên vì thế mới có pháp môn niệm Phật, niệm tâm, niệm chú,
niệm không v.v..
Vậy muốn có được
cội gốc
niệm chân chánh,
thì phải tu tập
pháp môn “Tứ Niệm Xứ ”.
Chữ “Niệm”
thông thường người ta hiểu nghĩa
như: hồi niệm,
ức niệm hay
ý thầm niệm: “Nam
mô A Di
Đà Phật” hay
“Nam mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni
Phật” như trên chúng tôi đã nói.
Theo quan niệm của Đạo Phật,
chữ niệm có nghĩa
là hành động của thân.
Quan niệm nghĩa như vậy, là để nương vào thân hành của mình, xả tâm ly dục
ly ác pháp. Cho nên, mỗi hành động của thân là mỗi niệm xả tâm. Như vậy mỗi niệm
thân hành xả tâm như thế nào?
Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi lấy thân hành
hơi thở làm niệm xả tâm.
Ví dụ:
“Quán ly tham tôi
biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”.
Câu này trong kinh Xuất Tức Nhập Tức dạy.
Chúng tôi xin cho một câu tác ý xả tâm khác để dễ hiểu
hơn: “Tâm phải đoạn diệt
tham, sân, si tôi biết tôi đang
thở”. Đó là
dùng niệm thân
hành nội xả
tâm.
Thưa các bạn!
Đọc đến đây, các bạn có thể nhận ra pháp hành của Phật giáo không giống các pháp hành của ngoại
đạo Bà La Môn Đại Thừa, Thiền Tông, Mật Tông, Tịnh Độ Tông và Nam Tông, v.v.. rồi
chứ?
Đạo Phật
là đạo diệt ngã, xả tâm,
ly dục, ly ác pháp, nên ngoại đạo
và các nhà học giả không thể hiểu được nghĩa này. Vì thế, họ mới sản xuất ra những
pháp ức chế tâm như: Sổ tức quán, Quán niệm hơi thở, Minh Sát Tuệ, Niệm Phật, Tụng
kinh, Trì chú, ngồi thiền Công Án, Tham
Thoại Đầu, chăn trâu, tri vọng, v.v..
Muốn có được
niệm căn thì trên Tứ Niệm Xứ phải ngăn ác diệt ác pháp bằng niệm thân
hành. Vì
thế đức Phật dạy: “Niệm
căn cần tu tập “Tứ
Niệm Xứ”. Chỉ
có Tứ Niệm Xứ mới tu
tập được niệm căn,
ngoài Tứ Niệm Xứ không
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!