đâu có chánh
niệm, vì chánh niệm là Tứ Niệm
Xứ.
Thưa các bạn! Bây
giờ các bạn
đã rõ: Niệm căn là Tứ Niệm Xứ, Tứ
Niệm Xứ là chánh Niệm của Phật
giáo. Như vậy
các bạn không còn lầm lạc pháp của Phật và pháp của
ngoại đạo. Phải không các bạn?
Thân Hành
Niệm là một
niệm có sẵn trong
thân hành. Vì thế, người
tu hành cần nương
vào đó mà
tu tập chứ đừng tự đặt ra niệm
khác mà làm
sai lạc Phật
pháp. Ngoài thân hành ra mà dùng
niệm khác mà tu tập thì chẳng khác nào lấy đá đè cỏ, nên nó không thể thành cội gốc niệm căn
được.
ĐỊNH CĂN
Định căn
nghĩa là gì? Định là sự bất động nơi
thân và tâm của chúng
ta, căn là cội gốc. Vậy
định căn có nghĩa
là nơi cội gốc im lặng,
bất động của thân tâm. Có người hiểu sai lầm định căn, là
tâm không vọng tưởng,
nên cố tu tập
ức chế tâm,
khiến cho tâm không
có niệm khởi, như
Thiền Đông Độ, Đại Thừa…
Hiểu Phật Pháp một cách sai lệch, nên họ dùng ý niệm, tâm niệm để tu tập. Vì thế, mới có pháp môn niệm Phật, niệm
tâm, niệm chú... Vậy muốn có được cội gốc định thì phải tu tập pháp
môn Tứ
Thánh Định, như
trên đức Phật
đã dạy: “Định căn cần tu tập
Tứ Thánh Định”. Vậy tu tập Tứ Thánh Định
như thế nào?
Khi nào
chúng ta tu tập viên
mãn Tứ Niệm Xứ, có nghĩa là lúc
bấy giờ tâm chúng ta bất động trước
các pháp và
các cảm thọ,
vì nó đã lìa dục và bất thiện pháp nên trong nội tâm có bảy
năng lực Giác
Chi. Khi biết tâm
có đủ bảy Giác Chi thì dùng chúng
mà tu tập Tứ Như Ý Túc.
Muốn tu tập
Tứ Như Ý Túc thì đầu tiên chúng ta phải tu tập Định Như Ý Túc. Tu tập Định Như
Ý Túc thì dùng năng lực Trạch Pháp Giác
Chi ly dục
ly ác pháp
nhập Sơ Thiền. Đó là
loại định đầu tiên
trong Tứ Thánh
Định. Ở đây chúng tôi
xin lưu ý
các bạn, hầu hết các nhà học giả xưa và nay đều hiểu lầm lạc về Sơ Thiền, họ cho rằng khi nhiếp
tâm không niệm khởi là nhập Sơ Thiền. Đó
là hiểu sai
nên sau này không còn có người nhập được Tứ Thánh Định nữa, chính cái hiểu sai này của người xưa mà từ đó con đường
nhập vào Tứ
Thánh Định đã bị lấp mất. Do hiểu
sai, tu tập sai nên người sau làm mất dấu vết của Phật và chúng Thánh Tăng đi.
Một khi nhập
được Sơ Thiền là chúng
ta đã có cội gốc chánh
định (định căn). Từ đó chúng
ta mới có định
thật sự.
Còn chưa nhập được Sơ Thiền
thì chúng ta chưa
có cội gốc định. Chưa có cội gốc định thì làm
sao nhập định được? Vậy mà có người vỗ ngực xưng tên mình đã
nhập Sơ Thiền,
Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền… Thật là tội nghiệp cho những người ngu mà
không biết mình ngu !
Muốn nhập Tứ
Thánh Định thì phải có đủ bảy năng lực của Giác Chi. Có đủ bảy năng lực Giác Chi thì mới tu tập Định Như
Ý Túc. Có tu tập Định Như
Ý Túc thì mới
nhập được Sơ Thiền, chứ đâu phải
muốn nhập Sơ Thiền là lúc nào cũng nhập được. Muốn nhập Sơ Thiền phải có đủ điều kiện của
Chánh Niệm. Nếu Chánh Niệm tu tập
chưa đủ điều kiện
thì không bao giờ nhập
được Sơ Thiền. Cho
nên, chúng ta phải hiểu Tứ Niệm Xứ chưa viên mãn thì đừng
nói đến Sơ Thiền, Nhị Thiền…
Phải nhập
cho được Nhị Thiền mới có thể lên từng bậc định cao hơn. Muốn nhập Nhị Thiền phải
dùng năng lực Trạch Pháp Giác Chi tu tập Định Như Ý Túc xả trạng thái Sơ Thiền,
khi nào xả hết trạng thái
Sơ Thiền thì mới nhập được Nhị
Thiền và muốn
tiếp tục nhập
các định cao hơn
thì cũng phải dùng
năng lực Trạch Pháp Giác Chi và Định
Như ý Túc để xả và nhập định.
Do có năng lực của Trạch
Pháp Giác Chi nên đức Phật dạy: “Nhập
Sơ Thiền, Nhị Thiền,
Tam Thiền và Tứ Thiền
không có khó khăn, không có mệt
nhọc”.
Đây chỉ có Tứ
Thánh Định là những pháp môn tu tập tạo ra cội gốc định (định căn) chân chánh của
Phật giáo. Nếu ai tu tập không đúng những pháp môn trên đây là họ đã tu tập theo tà thiền,
tà định, chứ
không phải là
chánh định của Phật giáo.
Tứ Thánh Định
là định căn, cội gốc của thiền định. Ngoài Tứ Thánh Định ra, đi tìm cội gốc thiền
định thì không bao giờ có thiền định. Tại sao vậy?
Tại vì thiền
định của Đạo Phật nhắm vào sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết, chuyển hóa
nhân quả, chấm dứt luân hồi, chứ
không phải là những loại thiền định
nhắm vào thần thông, phép thuật, biến hóa, tàng hình để lừa
đảo mọi người của ngoại đạo. Bởi vậy muốn có cội gốc thiền định này thì Tứ
Thánh Định cần phải tu tập. Do đó, đức Phật thường nhắc nhở các đệ tử của mình:
“Định căn cần
tu tập Tứ Thánh Định”.
TUỆ CĂN
Tuệ căn
nghĩa là gì? Tuệ là những hành động tâm thức của chúng ta; căn là cội gốc. Vậy
Tuệ căn
có nghĩa là cội gốc
trí tuệ nơi tâm thức. Có người hiểu sai lầm trí tuệ là ý
thức, là sự hiểu biết của ý thức và còn cho sự hiểu biết của ý thức là trí
tuệ. Vì thế, mới
có pháp môn định, tuệ song tu. Sự thật định chưa có
thì làm sao có tuệ. Vậy
nên định, tuệ song tu
chỉ là điên đảo.
Có người còn
cho cái biết (ý thức) mọi sự việc trong hiện tại không khởi theo sáu trần là
Tánh giác, Phật tánh, v.v.. Thật là điên đảo tưởng!
Theo quan niệm
của Phật giáo Nguyên Thuỷ thì ý thức
không thể gọi
là trí tuệ, là Phật Tánh, tánh giác mà gọi là tri kiến, bởi
vì sự hiểu biết của ý thức còn bị giới hạn trong không gian
và thời gian.
Ngược lại trí tuệ
của Phật giáo thì vượt
khỏi không gian
và thời gian. Trí tuệ vượt
không gian và thời gian
thì chỉ có trí tuệ
Tam Minh. Như vậy
có trí tuệ Tam Minh thì phải
tu tập Tam
Minh. Do đó đức Phật dạy: “Tuệ căn cần tu tập Tam Minh”.
Vậy tu tập
Tam Minh như thế nào?
Muốn tu tập Tam Minh thì phải nhập Tứ
Thánh Định; muốn nhập Tứ Thánh Định thì phải tu tập Tứ Niệm Xứ; muốn tu tập Tứ
Niệm Xứ thì phải tu tập Tứ Chánh Cần; muốn tu tập Tứ Chánh Cần thì phải tu tập
bốn loại định:
1/ Định
Chánh Niệm Tỉnh Giác
2/ Định Vô Lậu
3/ Định Sáng
Suốt
4/ Định Niệm
Hơi Thở
Định Niệm Hơi thở gồm
có mười tám đề
mục:
1- Hít, thở
2- Dài, ngắn
3- Cảm giác
toàn thân
4- An tịnh
thân hành
5- Cảm giác
toàn tâm
6- An tịnh
tâm hành
7- Quán thân
vô thường
8- Quán thọ
vô thường
9- Quán tâm
vô thường
10- Quán các pháp vô thường
11- Quán ly tham
12- Quán ly sân
13- Quán từ bỏ tâm tham
14- Quán từ bỏ tâm sân
15- Quán đoạn diệt tâm tham
16- Quán đoạn diệt tâm sân
17- Quán tâm định tỉnh
18- Với tâm giải thoát
Trên đây là
những pháp cần tu tập để đạt được Tam
Minh hay nói cách khác, đó là những pháp tu Tam Minh.
Các bạn nên
nhớ kỹ, trí tuệ Tam Minh là Tuệ căn của Phật giáo. Nhưng đức Phật dạy: “Giới sinh định.
Định sinh tuệ”. Vậy giới
luật các
bạn có nghiêm
chỉnh chưa? Giới luật chưa nghiêm chỉnh mà
tu thiền định thì thiền định đó chỉ
là thiền ảo tưởng các bạn có biết
chăng?
Thưa các bạn!
Các bạn thấy giáo pháp Đại Thừa Bà La
Môn, có tu sĩ nào
nghiêm trì giới luật đâu mà tu tập
đạt được Tam Minh? Họ chỉ tu danh, tu lợi, tu chùa to, Phật lớn, tu đau, tu bệnh, tu trở thành điên khùng
mất trí, v.v..
Người tu
theo Phật giáo
chưa có trí tuệ
Tam Minh thì chưa được xem là người có trí
tuệ, chỉ có
tri kiến giải thoát mà thôi. Tri kiến giải
thoát là nhờ
có giới luật.
Nếu tri kiến không có giới luật
thì tri kiến ấy là tri kiến phàm phu, tri kiến vô minh hay nói cho rõ hơn là tri kiến dục
u tối. Thứ tri kiến này
không được gọi là Tuệ căn. Cho nên, Tuệ căn ở đâu là Tam
Minh ở đó, Tuệ
căn là cội gốc của
Tam Minh, Tam minh là
pháp tu của Tuệ căn,
Tuệ căn làm thanh tịnh Tam Minh, Tam Minh làm thanh tịnh Tuệ căn.
Tại sao chúng
tôi bảo Tuệ
căn làm thanh tịnh
Tam Minh? Trước khi muốn
hiểu câu này thì phải
hiểu hai chữ Tuệ căn. Vậy Tuệ
căn nghĩa là gì?
Như trên
đã dạy Tuệ căn là 37
phẩm trợ đạo. Nhờ
tu tập 37 phẩm
trợ đạo mà trí
tuệ Tam Minh mới xuất hiện.
Thưa các bạn! Các bạn có biết 37 phẩm trợ đạo là gì không? Khi nêu ra câu hỏi
này các bạn sẽ cho chúng
tôi khinh rẻ các bạn, vì ai
cũng biết 37 phẩm trợ đạo là những pháp
môn tu hành của Phật giáo
Nguyên thủy. Nếu
các bạn trả lời như vậy thì chúng tôi đâu có đưa ra câu hỏi này để làm
gì?
Về giới luật
của Phật mà các bạn thường nghe trong kinh Nguyên Thủy Phật dạy những
bài kinh mang tên
tựa đề như: kinh Tiểu Giáo Giới La Hầu La,
Kinh Đại Giáo Giới
La Hầu La, kinh Giáo
Giới Ca Chiên Diên,
kinh Giáo Giới A Nan, v.v.. Như
vậy 37 phẩm trợ đạo là Giới
Hành của Đạo Phật, bởi
vì 37 phẩm trợ đạo
là pháp môn
tu tập ngăn
ác diệt ác pháp, ly
dục diệt ngã xả
tâm giúp cho tâm
thanh tịnh, tâm thanh tịnh
là trí tuệ Tam Minh. đức Phật cho ví dụ: “Khi tâm thanh tịnh như nước hồ
trong vắt, nhìn thấy
đáy, rùa trạch
cá tôm đều thấy cả, không
có vật gì mà
không thấy”. Khi thấy được như vậy
là gì sao các bạn có biết không? Đó
là cái thấy biết của Tam Minh.
Cái thấy biết của
Tam Minh thì không có
không gian trải dài
và ngăn cách
và không có thời
gian chia cắt quá khứ, vị lai và hiện tại nên giống nước trong suốt như pha lê.
Vì thế, chúng tôi mới bảo:
“Tuệ căn làm thanh
tịnh Tam Minh”.
CĨ NĂM CÁCH
SỐNG
LỜI PHẬT DẠY
1/ Ta phải sống với tâm
không có tưởng.
2/ Ta phải sống với tâm không động chuyển.
3/ Ta phải sống với tâm không chấn động.
4/ Ta phải sống với tâm
không lý luận.
5/ Ta phải sống với
tâm từ bỏ ngã
mạn.
CHÚ GIẢI:
CÁC LOẠI TƯỞNG
Đức Phật nhắc nhở
chúng ta có năm cách sống của một
người tu theo Phật giáo, nhưng trước tiên chúng ta phải tìm hiểu các loại tưởng
như Phật đã dạy: Ta phải
sống với tâm
không
có tưởng. Vậy
bằng cách nào chúng ta sống với tâm không có tưởng?
Muốn sống
với tâm không
có tưởng thì phải hiểu biết có bao nhiêu thứ tưởng. Tưởng
gồm có 33 loại tưởng:
1/ Sắc tưởng
2/ Thinh tưởng
3/ Hương tưởng
4/ Vị tưởng
5/ Xúc tưởng
6/ Pháp tưởng
7/ Vọng tưởng
8/ Mộng tưởng
9/ Giới tưởng
10/ Định tưởng
11/ Tuệ tưởng
12/ Nhãn tưởng
13/ Nhĩ tưởng
14/ Tỷ tưởng
15/ Thiệt tưởng
16/ Thân tưởng
17/ Ý tưởng
18/ Nhãn tưởng
thông
19/ Nhĩ tưởng
thông
20/ Tỷ tưởng
thông
21/ Thiệt tưởng
thông
22/ Thân túc
tưởng thông
23/ Tha tưởng
thông
24/ Không vô
biên xứ tưởng định
25/ Thức vô
biên xứ tưởng định
26/ Vô sở hữu
xứ tưởng định
27/ Phi tưởng
phi phi tưởng xứ định
28/ Khí công tưởng
29/ Nội công
tưởng
30/ Ngoại
công tưởng,
31/ Nhân điện
tưởng
32/ Khinh
công tưởng
33/ Trọng
công tưởng
Ba mươi ba
loại tưởng này do
đâu mà
có? Do hằng ngày sống trong tâm tư có nhiều ảo vọng, trừu
tượng nuôi dưỡng
bằng niềm tin, nên
tưởng uẩn hoạt động như: đồng, cốt hoặc
do bệnh tật ngặt
nghèo; hoặc do tai
nạn đột ngột khiến cho tưởng uẩn
hoạt động như: các nhà ngoại cảm;
hoặc do dùng tưởng
tập luyện
như: các
nhà tập Nhân
điện, Khí công,
Võ công, các nhà Thôi miên, các nhà sư Mật Tông, Thiền Tông, Tịnh Độ
Tông, Nam Tông, v.v... những tôn giáo cầu cơ, cầu hồn và các thầy phù thủy đánh
thiếp, đi thiếp, v.v..
Sắc tưởng nghĩa là gì?
Sắc tưởng
là những hình ảnh đã qua
của mọi người còn
lưu lại từ trường trong
không gian do tưởng uẩn bắt gặp.
Sắc tưởng là
những hình ảnh do tưởng uẩn trong ta biến
hóa lưu xuất hiện hình như: nhà, cửa,
sông, núi, đất, đá, ánh sáng, hào quang, người, vật, Thần, Thánh, ma, quỷ, linh
hồn người chết, cõi Cực Lạc,
Thiên Đàng, Tiên, Phật, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Chúa Trời,
v.v..
Thinh tưởng nghĩa là gì?
Thinh tưởng là những
âm thanh do tưởng uẩn trong ta biến hóa
lưu xuất hiện hành phát ra âm thanh như:
tiếng nói chư Thiên,
tiếng kêu, tiếng hú,
tiếng la, tiếng
thét, tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng
khóc, tiếng rên, tiếng tụng kinh, niệm chú,
tiếng nói đối
đáp trong ta, tiếng
gọi tên, tiếng
tác ý, v.v..
mà chỉ có mình
ta nghe, hoặc một vài người nghe được do
có tu tập tưởng
định, hoặc do
hoang tưởng, hoặc do rối loạn thần
kinh.
Hương
tưởng nghĩa là gì?
Hương tưởng
là những mùi thơm hay mùi thối do tưởng uẩn
trong ta biến
hóa lưu xuất hiện
hành phát ra mùi
hương thơm hay thối
như vậy. Mùi hương này nhận được chỉ có người có tưởng
hoạt động, hay
người tu thiền
sai pháp lọt vào định tưởng
mà nhận được mùi hương này.
Vị tưởng nghĩa là gì?
Vị tưởng là
những mùi vị
cay, đắng, mặn, ngọt… do tưởng uẩn
trong ta biến hóa lưu xuất hiện
hành phát ra
mùi vị ấy
như vậy. Mùi hương này nhận được chỉ người có tưởng hoạt
động, hay người tu thiền sai pháp lọt
vào định tưởng mà nhận ra được mùi vị này.
Xúc tưởng nghĩa là gì?
Xúc tưởng là
những cảm giác nơi thân, nóng, lạnh, đau, nhức, ngứa, tê, mệt nhọc, v.v.. do tưởng
uẩn trong ta biến hóa lưu xuất hiện hành
phát ra những
cảm thọ như vậy. Xúc tưởng này nhận được chỉ có người có tưởng
hoạt động, hay người tu thiền sai pháp lọt
vào định
tưởng mà nhận
được cảm thọ này. Cảm thọ này có ba cách:
1- Thọ lạc
2- Thọ khổ
3- Thọ bất lạc bất khổ
Pháp tưởng nghĩa là gì?
Pháp tưởng
là những lời
nói, câu kinh tiếng
kệ có nghĩa
lý mơ hồ, trừu
tượng, không rõ ràng thường khéo
léo xảo luận để lừa đảo người khác do tưởng uẩn trong ta lưu xuất hiện
hành phát ra ngôn
ngữ như vậy. Pháp tưởng
này có được là nhờ có tưởng hoạt động, hay do tu thiền sai pháp lọt vào định
tưởng nên pháp tưởng hiện ra.
Vọng tưởng nghĩa là gì?
Vọng tưởng
là những niệm khởi trong tâm của
chúng ta, do thất
tình lục dục thúc đẩy ý thức tưởng sinh ra.
Mộng tưởng nghĩa là gì?
Mộng tưởng
là giấc chiêm
bao thực hiện qua sự hoạt động của
tưởng uẩn theo tâm trạng thất tình lục dục.
Giới tưởng nghĩa là gì?
Giới tưởng
là những giới
luật của ngoại đạo đặt ra để tu hành. Ví dụ: Giới hạnh
của con bò, giới hạnh của con chó, giới hạnh ngồi thiền đau chân cũng phải ngồi
cho hết giờ, giới hạnh ngâm mình trong
nước lạnh, giới hạnh tu đứng, giới hạnh tu ngồi, giới hạnh tu nằm, giới hạnh
tu đứng
một chân, giới hạnh ăn
quá ít, giới hạnh lõa thể, giới hạnh
ăn phân bò... Tất cả những giới hạnh này gọi là giới khổ hạnh do tưởng uẩn
nghĩ ra và bảo rằng: ai giữ gìn sẽ
được giải thoát, sau khi chết
sẽ được cộng trú với Trời Phạm Thiên. Nhưng sự thật không
ai giữ giới này
có giải thoát,
thường là chịu
khổ đau và cũng không cộng trú với Phạm Thiên được.
Định tưởng nghĩa là gì?
Định tưởng là một loại
thiền định ức chế tâm
như: Thiền Đại Thừa, Thiền
Đông Độ, Niệm Phật Tịnh Độ
Tông, niệm chú Mật Tông, Thiền Minh
Sát Tuệ, Lục Diệu
Pháp Môn, Quán Niệm Hơi Thở, Sổ
Tức Quán, Chăn trâu, Công Án Tham
Thoại Đầu, Thiền
Tri Vọng,
v.v..
Tuệ tưởng nghĩa là gì?
Tuệ tưởng
là những sự hiểu biết do tưởng uẩn hoạt động nghĩ ra. Tất cả những
triết học,
những giáo
lý của các
tôn giáo, những
sự mê tín trong dân gian đều do
tưởng tuệ của con người.
Nhãn tưởng nghĩa là gì?
Nhãn tưởng
là cái nhìn
thấy của tưởng uẩn
không phải bằng
nhãn thức (nhục
nhãn) của chúng ta.
Nhĩ tưởng nghĩa là gì?
Nhĩ tưởng là
cái nghe âm của tưởng uẩn không phải bằng nhĩ thức (nhục nhĩ) của chúng
ta.
Tỷ tưởng nghĩa là gì?
Tỷ tưởng
là cái ngửi
mùi của tưởng
uẩn không phải bằng tỷ thức
(nhục tỷ) của
chúng
ta.
Thiệt tưởng nghĩa là gì?
Thiệt tưởng
là cái nếm mùi vị của tưởng uẩn
không phải bằng
thiệt thức (nhục
thiệt) của chúng ta.
Thân tưởng nghĩa là gì?
Thân tưởng
là cái cảm xúc của tưởng uẩn không phải bằng
cảm xúc thân
thức (nhục thân) của chúng ta.
Ý tưởng
nghĩa là gì?
Ý tưởng là
cái nghĩ ngợi phân biệt của tưởng uẩn không phải bằng ý thức (ý căn) của chúng
ta.
Nhãn tưởng thông nghĩa là gì?
Nhãn tưởng
thông là một loại thần thông của ngoại đạo thấy mọi vật cách xa ngàn dặm còn gọi
là thiên nhãn tưởng thông.
Nhĩ tưởng thông nghĩa là gì?
Nhĩ tưởng
thông là một loại thần thông của ngoại đạo nghe âm thanh xa ngàn dặm còn gọi là
thiên nhĩ tưởng thông.
Tỷ tưởng thông nghĩa là gì?
Tỷ tưởng
thông là một loại thần thông của ngoại đạo ngửi mùi hương xa ngàn dặm còn gọi
là thiên tỷ tưởng thông.
Thiệt tưởng thông nghĩa là gì?
Thiệt tưởng
thông là một loại thần thông của ngoại đạo nếm được mùi vị cách xa ngàn dặm còn
gọi là thiên thiệt tưởng thông.
Thân túc tưởng thông nghĩa là gì?
Thân tưởng
thông là một loại thần thông của ngoại đạo biến hóa
muôn hình, vạn trạng còn gọi là thần túc tưởng thông.
Tha
tưởng thông nghĩa là gì?
Tha tưởng
thông là một loại thần
thông của ngoại đạo hiểu biết
chuyện quá khứ vị lai của mọi người còn gọi là tha tâm tưởng
thông.
Không vô biên xứ tưởng định nghĩa là gì?
Là một loại định không
vô biên xứ tưởng trong bốn định vô sắc của ngoại đạo.
Thức
vô biên xứ tưởng định
nghĩa là gì?
Là một loại định thức
vô biên xứ tưởng
trong bốn định vô sắc của ngoại đạo.
Vô sở hữu xứ tưởng
định nghĩa là
gì?
Là một loại
định vô sở hữu xứ tưởng trong
bốn định vô
sắc của ngoại đạo.
Phi
tưởng phi phi
tưởng xứ định nghĩa là gì?
Là một loại định phi
tưởng phi phi tưởng
xứ tưởng trong bốn định vô sắc của ngoại đạo.
Khí
công tưởng nghĩa là gì?
Khí công
tưởng là người
dùng tưởng uẩn điều khiển khí lực.
Nội công tưởng nghĩa là gì?
Nội công tưởng
là người dùng tưởng uẩn điều khiển nội lực.
Ngoại công tưởng nghĩa là gì?
Ngoại công
tưởng là người dùng tưởng uẩn điều khiển ngoại lực.
Nhân điện tưởng nghĩa là gì?
Nhân điện tưởng
là người
dùng tưởng uẩn điều khiển điện lực trong thân người.
Khinh công tưởng nghĩa là gì?
Khinh công
tưởng là người dùng tưởng uẩn điều khiển sức nhẹ như bông.
Trọng công tưởng nghĩa là gì?
Trọng công
tưởng là người dùng tưởng uẩn điều khiển sức nặng như núi đá.
Tóm lại,
trên đây là
các loại tưởng
mà đức Phật đã dạy cho
chúng ta đừng
tu tập, đừng ham mê, mà
luôn luôn phải sống trong
ý
thức.
1/ Ta phải sống với tâm
không có tưởng. Xin các bạn
nhớ lời dạy này trong
khi tu tập.
Như vậy,
khi tu tập thiền
định có những trạng thái
an lạc, có
những ánh sáng
hào quang và các loại sắc tưởng; có những tiếng nói
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!