người vốn
là gốc dục.
Mà dục là
nguyên nhân sinh ra muôn ngàn ác
pháp và khổ đau.
Đức Phật biết
rất rõ điều này, nên khi thuyết giảng bài pháp đầu tiên như trên đã nói,
Ngài đã
nói bốn chân
lí của loài người
‚Khổ, Tập, Diệt, Đạo‛.
Muốn cho loài người
thoát kiếp khổ đau thì giáo pháp của đạo Phật phải là
đạo đức nhân bản -
nhân quả
như trên đã nói, để hướng dẫn và giáo dục cho mỗi người
sống không làm khổ mình,
khổ người. Vì thế,
mới có
tám lớp (Bát
Chánh Đạo) tu học đạo đức nhân bản - nhân quả ra đời. Trong tám
lớp này được chia làm ba cấp (Giới, Định, Tuệ).
Nhờ có đạo đức nhân bản
- nhân quả mới diệt hết lòng dục. Diệt hết lòng dục thì con người
mới hết khổ.
Cho nên, diệt dục
tức là diệt mọi sự khổ đau. Diệt
hết mọi sự đau khổ của con người tức là sống không làm
khổ mình, khổ người. Sống
không làm khổ
mình, khổ người và khổ tất cả chúng
sanh, đó là một
trạng thái giải thoát; là bất động tâm; là tâm không còn tham, sân, si; là tâm
không phóng dật... Cho nên, Diệt Đế là một trạng thái của thân tâm thanh thản,
an lạc và vô sự.
Trạng thái ấy là một sự thật của mọi
người, nếu ai chịu khó ngồi lại lắng tâm
nghe
trạng thái ấy
thì thấy ngay liền, nhưng nếu chỉ còn có một niệm tham, sân, si, mạn, nghi khởi
lên thì ngay tức khắc trạng
thái thanh thản, an lạc và vô sự đó liền mất.
Bởi vậy ba cấp
và tám lớp tu học của Phật giáo
giúp cho mọi người ly dục,
từ bỏ
ác pháp, diệt tâm tham, sân, si,
mạn, nghi để dẫn đến trạng thái Diệt Đế như trên đã nói.
Kính thưa các bạn! Ba cấp tám lớp tu học của Phật
giáo là chân
lí thứ tư (Đạo Đế), là con đường
dẫn đến cứu
cánh giải thoát
khỏi mọi sự đau
khổ của kiếp làm
người, là con đường
dẫn đến Phạm
thiên mà các vị Bà La
Môn từng
mơ ước. Và chỉ
có duy nhất đây là
con đường độc lộ, không còn một con đường nào khác hơn dẫn đến sự giải thoát
hoàn toàn, dẫn đến sự làm
chủ bốn sự
đau khổ: sanh,
già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi tái sanh.
Đạo Đế là một
chương trình giáo dục đào tạo đạo đức
nhân bản - nhân quả, giúp cho con người
vượt ra khỏi qui luật
nhân quả (Vô Lậu)
và làm
chủ kiếp sống của
chính mình. Ở đây
các bạn phải hiểu: “Chỉ đây là con đường duy nhất, vì nó là chân lí của loài người’’. Cho nên, tất cả các
tôn giáo khác đều không có chân lí này. Nhưng
vì vô minh từ các hệ phái Thầy Tổ
xa xưa truyền
thừa cho đến Thầy Tổ hôm nay đều tưởng rằng:
Chỉ có giáo
pháp của họ là
trực đạo, là chánh đạo hướng đến mục đích cứu cánh Niết Bàn, Cực Lạc và Thiên
Đàng.
Đây, các bạn
hãy lắng nghe hai vị Bà La Môn Bà Tất
Sá (Vasettha) và
Bà La Môn Bạc
La Đà
Phạn Xà (Baharadvaya)
đều nói: ‚Đây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến,
dẫn đến cộng
trú với Phạm
thiên cho những ai thực
hành theo‛. Đó
là con đường do Bà La Môn
Pokkharasàti giảng dạy. Còn thanh niên Bà La Môn Bạc La Bà Phạn Xà
nói: ‚Đây là trực
đạo, đây là chánh đạo
hướng đến, dẫn đến cộng
trú với Phạm thiên cho
những ai thực hành theo‛, đó là con đường do Bà La Môn Tarukkha giảng dạy‛.
Hai vị
Bà La Môn này đều cho giáo
pháp của Thầy mình là chánh đạo dẫn
đến cứu cánh.
Cuộc tranh luận
bất phân thắng
bại này đã dẫn đến
đức Phật giải quyết. Đức Phật bảo:
‚Này
Vàsettha, người nói như vậy phải không? Đây là chánh đạo, đây là trực đạo, hướng
đến, dẫn
đến cộng trú với Phạm thiên
cho những ai thực hành theo‛, đó là
con đường
do Bà La
Môn pokkharasàđi giảng dạy. Còn
thanh niên Bà La
Môn Bharadvàja nói như vậy có phải không?
‚Đây là trực
đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những ai thực hành
theo‛, đó là
con đường do Bà La Môn Tàrukkha
giảng dạy. Này Vàsettha, ở nơi đây tranh
biện về vấn đề gì? Luận chấp vấn đề gì? Và bất đồng ý kiến về vấn đề gì?
– Kính
thưa Tôn giả
Gotama, về chánh đạo và tà đạo.
Trong đó
có Tôn giả Gotama và nhiều Bà
La Môn thuyết dạy nhiều
con đường sai
khác như các vị Bà La
Môn Addhariỳa, các vị
Bà La Môn Tittiriya, các vị Bà La Môn Chandokà, các vị Bà La Môn Chanda và các
vị Bà La Môn Bràhmacariỳa đều cho rằng tất cả con đường này hướng
đến, dẫn
đến cộng trú với
Phạm thiên cho những
ai thực hành
theo.
– Kính
thưa Tôn giả
Gotama, như ở gần làng
hay ở gần
thị trấn có nhiều con đường
sai khác, nhưng
tất cả con đường
này đều dẫn đến làng, cũng vậy, pháp môn
của Tôn
giả Gotama, của
nhiều Bà La Môn, tất cả pháp môn này sai khác nhưng đều dẫn
đến, hướng đến cộng
trú với Phạm thiên cho những ai
thực hành theo.
Nghe xong đức
Phật hỏi: ‚Này Vàsettha, có phải người nói
chúng dẫn đến?‛.
– ‚Thưa Tôn
giả Gotama! Vậy con nói chúng dẫn đến‛.
– Đức Phật lập lại một lần nữa,
và cho đến đúng
ba lần một
câu hỏi này.
‚Này Vàsettha, có
phải Ngươi nói
chúng dẫn đến không?‛.
– ‚Kính thưa
Tôn giả Gotama!
Vậy
con nói
chúng dẫn đến‛.
Kính thưa các bạn! Tại sao đức Phật gặng hỏi ba lần
như vậy, các bạn có biết không? Đức Phật gặng hỏi cặn kẽ kỹ lưỡng như vậy để
làm gì? Đó là một nguyên nhân mà các bạn cần nên lưu ý.
Các bạn có
thấy không? Hiện giờ các tông phái của Phật giáo đều cho rằng ‚tất cả pháp môn
đều hướng đến và dẫn đến một mục đích giải thoát như nhau”. Những tư tưởng này
ngày nay đã lập lại
đúng những tư tưởng của
Bà La
Môn ngày
xưa. Nếu xét kỹ các bạn sẽ thấy
không sai khác chút nào cả.
Vấn đề này rất quan trọng, và những tông phái này đều dùng
những lý luận
này rồi gán lên
là kinh của đức Phật nói,
các bạn có thấy
không? May mắn trong đời chúng ta còn có những
bài kinh của đức Phật đã
xác định và quét sạch những tư tưởng cho rằng giáo
pháp của Phật là chiếc bè sang sông; là ngón tay chỉ mặt trăng;
là mọi ngả đường đều dẫn đến về
một mục đích giải thoát; là những phương tiện di chuyển để đến nơi cứu cánh Niết Bàn.
Sau khi gặng hỏi
Bà La Môn Vàsettha ba lần như vậy để đưa
Bà La
Môn Vàsettha vào thế không còn chối cãi được nữa. Bấy giờ
đức Phật đưa ra những câu hỏi để quét sạch
những tư tưởng tà
giáo này. Các bạn hãy lắng lòng nghe kỹ:
‚Thế nào Vàsettha? Có
Bà La Môn trong
những Bà La Môn tinh thông ba tập
Vệ Đà tận mắt đã thấy Phạm thiên chưa?
Bà La Môn
Vàsettha trả lời:
- Thưa
Tôn giả
Gotama, không có vị nào‛.
Đọc đoạn
kinh này các bạn nghĩ gì về các tông
phái Phật giáo
phát triển sau thời
đức Phật cho đến hiện giờ? Đã biết bao cao Tăng hiền đức
có những học vị bằng cấp cao đã
làm Pháp sư, giảng sư tại
các trường Phật học nổi tiếng
trên thế giới,
nhưng có vị
nào biết được cõi Cực Lạc chưa?
Biết được cảnh giới Niết Bàn chưa? Và đã có vị nào làm chủ được sanh, già, bệnh, chết
chưa? Khi chết biết có
mình đi về nơi nào chưa ???
Như vậy
Thiên Đàng, Địa ngục, Cảnh giới Niết
Bàn, cõi Cực Lạc Tây
Phương v.v.. đều là cõi tưởng. Phải
không các bạn?
Vậy các bạn hãy
nghe tiếp lời đức Phật dạy
năm xưa mà
ngày nay các bạn thấy
nó không xa lạ với chúng ta chút nào:
‚Thế nào,
Vàsettha? Có tôn sư nào của các Bà La Môn tinh thông ba tập Vệ Đà đã tận mắt thấy
Phạm thiên chưa?
Bà La Môn
Vàsettha trả lời:
- Thưa
Tôn giả
Gotama, không có vị
nào‛.
Đây là câu hỏi
lần thứ hai về các bậc thầy của Bà La Môn.
Vậy chúng tôi sẽ hỏi
các bạn.
Các bạn vui
lòng hãy trả lời cho chúng tôi biết
nhé:
Các bậc
danh Tăng thạc đức thông
suốt tam tạng trước tác kinh luận để
lại chỉ dẫn đời sau tu tập tới cảnh giới Cực Lạc,
Thiên Đàng. Nhưng thử hỏi đã có vị
nào biết cõi Cực Lạc, Thiên Đàng chưa?
biết cõi
Niết Bàn chưa? Và đã
biết được phương pháp
nào làm chủ
sanh, già, bệnh, chết chưa? Có biết khi chết đi về đâu chưa?
Chắc chắn
điều này các bậc tôn
túc hữu học ấy chưa bao giờ biết.
Phải không các bạn?
Các bạn hãy
lắng nghe đức Phật hỏi một lần
nữa: ‚Thế nào, này Vàsettha, có Bà La
Môn nào cho đến bảy đời tôn sư và đại tôn sư của những vị
Bà La Môn tinh thông ba tập Vệ
Đà đã tận mắt
thấy Phạm thiên chưa?
Bà La Môn
Vàsettha trả lời:
- Thưa tôn
giả Gotama, không có
vị
nào‛.
Thưa các bạn! Các bạn có
nghe lời đức Phật
dạy không? Đức Phật đã xác
định dù cho các vị Tổ đã viết ra kinh sách Vệ Đà cũng vẫn
chưa biết Phạm thiên. Đó là điều thiết thực, cụ thể các bạn ạ!
Như vậy, những
vị nào soạn thảo biên tập những kinh
sách ảo
tưởng mê tín, tụng
niệm, chú thuật, dạy
thiền ảo giác
để kiến tánh thành Phật, cúng sao, giải hạn, tế lễ cầu
phước, cầu tự, cầu an, cầu siêu, trai
đàn chẩn tế, cúng vong, tiễn
linh, đốt tiền vàng
mã v.v.. từ xưa
đến nay, những việc làm này của Phật giáo có phải là
mê tín ảo tưởng
không? Cho nên, từ
xưa tới nay chưa có người nào tu hành làm chủ được sinh, già, bệnh, chết,
và chấm dứt
luân hồi tái sanh, thì làm
sao gọi là 84 ngàn pháp môn
là chánh đạo, trực
đạo hướng dẫn
đi đến cứu cánh được?
Tại sao chúng
ta biết được các
vị đó chưa đi đến cứu cánh giải thoát?
Chúng ta biết
được như vậy là nhờ căn cứ vào những kinh sách do các Ngài biên soạn mà không
có pháp tu làm chủ sự sống chết thực tế, cụ thể, thường các pháp tu tập mơ hồ,
không rõ ràng, phần nhiều dạy tu tập ức chế tâm, pháp hành không
nhất quán, lúc
niệm tụng, cầu khẩn; lúc cúng tế sám hối; lúc thì ảo
huyễn, mơ mộng trong cảnh giới tưởng Cực Lạc, Thiên Đàng, Niết
Bàn, Phật tánh,
Bản thể Chân
không diệu hữu,
Bát Nhã Chân Không v.v.. đều là những cảnh giới tưởng tri ảo ảnh, mơ hồ không
thật.
Đó là lối lí
luận tưởng tri trong kinh sách của các Ngài biên soạn, nhưng xét lại những Phạm
hạnh giới luật để
liơ dục, li ác pháp,
để sống đạo đức không
làm khổ mình,
khổ người và khổ tất cả chúng
sanh thì chẳng bao giờ nói đến. Như vậy, rõ ràng những pháp môn tưởng giải từ
các vị đầu
tiên cũng chưa biết được con đường giải thoát và giải thoát như thế
nào? Mà vẫn kéo dài tồn tại cho đến ngày nay cũng chưa biết được con đường giải
thoát và trạng
thái giải thoát như thế nào? Nhờ xét qua kinh sách của các Ngài, mà
chúng ta biết chắc rằng các Ngài chưa cộng trú với trạng
thái giải thoát như
đức Phật đã chỉ dạy
cho chúng ta rất rõ
ràng và cụ thể.
Đây, chúng
ta hãy lắng nghe đức Phật hỏi Bà La Môn
Vàsettha: ‚Thế nào,
này Vàsettha. Những vị tu sĩ thời cổ
trong các Bà La
Môn tinh thông ba tập
Vệ Đà, những vị
sáng tác các thần
chú, những vị trì tụng thần chú mà xưa
kia những thần chú được
hát lên, được
trì tụng, được ngâm
vịnh và ngày
nay những vị
Bà La
Môn tinh
thông ba tập Vệ Đà cũng hát lên, cũng trì tụng và ngâm giảng như các vị Atthaka (A sá ca), Vàmaka, Bàma,
Vàmadeva, Bà Ma Đề Bà, Anginasa, Ương Kỳ
La, Bhagu, Bà Cữu, những
vị này có nói chúng tôi biết, chúng tôi có thấy chỗ ở Phạm
thiên, chỗ đến Phạm
thiên, chỗ đi Phạm thiên?
- Thưa
Tôn giả
Gotama, không có vị
nào‛.
Các bạn
có nghe đoạn kinh này
không? Câu hỏi của đức Phật rất cụ thể và thực tế để
xác định một sự lợi
ích lớn cho loài người. Bởi vì
con người đang
bị những tôn
giáo dùng những pháp môn ảo tưởng,
trừu tượng, mê tín đang bành trướng lừa đảo, lường gạt mọi người bằng một lối
lý luận xa lìa thực tế, rất mơ hồ, thường tạo ra bằng những năng lực thần huyền
do tưởng uẩn lưu xuất,
nhờ những năng lực
đó lại dễ bề lường gạt
người nhiều hơn.
Chỉ vì ý thức
hiểu biết của
con người còn đang bị hạn chế trong không gian và thời gian. Vì thế,
họ không làm sao hiểu rõ những năng lực kỳ lạ ấy của tưởng uẩn, nên họ dễ bị lường
gạt.
Họ cho ‘‘các
tôn giáo và các pháp môn đều có thể
đưa con người đến một mục
đích giải
thoát như
nhau’’, nếu con
người chịu tu tập
theo pháp môn
đó. Họ khéo thiện
xảo dùng những danh từ rất
kêu: “Tất cả
các tôn giáo cũng như tất cả các pháp môn đều trở về
quy nguyên một chỗ’’.
Lời nói lừa đảo này
đã có từ xưa rồi, các nhà học giả sau này vẫn bắt
chước mà thôi. Đến
nay chưa có ai
dám lột mặt nạ
của họï.
Xưa đức Phật
đã lột mặt nạ tà giáo ngoại đạo Bà La
Môn. Đến khi đức
Phật nhập diệt thì các
học giả không
tu chứng lại lạc vào ảo
giác tưởng tri của
Bà La Môn lại bắt chước
lối lý luận này,
đã lường gạt mọi người
từ hơn
2000
năm. Đến
nay chúng tôi quyết định dựng lại
Phật giáo, vạch trần sự giả dối của đa thần giáo Bà
La Môn mê tín
dán vào
“Nhãn mác Đạo Phật” để
các bạn thấu rõ âm mưu
của tà giáo ngoại đạo lúc nào cũng tìm cách dìm Phật
giáo.
Xin các bạn nghe tiếp
đoạn kinh này thì sẽ rõ: ‚Này
Vàsettha như vậy người nói không có một
Bà La Môn nào trong những vị
tinh thông ba tập Vệ
Đà đã tận mắt
thấy Phạm thiên, không có một tôn sư nào của Bà La Môn tinh thông ba tập Vệ Đà
đã tận mắt thấy Phạm thiên, không có một
đại tôn
sư nào của
các Bà La
môn tinh thông ba tập Vệ Đà tận mắt thấy
Phạm thiên, không có một Bà
La Môn nào
cho đến 7 đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà La Môn
tinh thông ba tập Vệ
Đà đã tận mắt thấy Phạm thiên
trong những tu sĩ
thời cổ… Như
vậy các Bà
La Môn tinh thông ba tập kinh Vệ Đà đã nói, chúng
tôi không biết, chúng tôi
không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên. Nhưng chúng tôi
thuyết dạy cho mọi người con đường ấy: ‚Đây là trực đạo, đây là chánh đạo, hướng
đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên cho những
ai thực hành theo’’.
- Này
Vàsettha, Ngươi nghĩ thế nào, sự kiện và
như vậy thời có phải lời nói của những Bà La Môn tinh thông ba tập Vệ Đà là
không chính xác hợp lý?
-Thưa tôn giả
Gotama, sự kiện là như vậy, thì lời nói
của những Bà La Môn tinh thông ba tập Vệ Đà
là không chính xác, hợp lý‛.
Đọc đoạn kinh này
chúng ta thấy
có sự xắp xếp cho thuận lý, hợp lẽ,
nghe xuôi tai, chứ
thực tế
không phải vậy. Bà La Môn là những tu sĩ không phải vừa.
Tuy rằng, họ
không biết Phạm thiên
thật sự, nhưng họ vẫn có những lý luận chống trái
lại câu
hỏi của Phật,
chứ không phải họ chịu thua và tôn kính Phật như ở
đoạn kinh này.
Ở đây,
chúng ta phải
thành thật công nhận một sự thật là chưa có một người
nào đến cõi Trời Phạm thiên, cõi Cực Lạc, cõi Niết Bàn v.v.., và cũng
chưa có ai thấy
được các vị Phật quá khứ hình dáng ra sao? như Phật Tỳ Lô Giá Na cho đến Phật
Cổ Nhiên Đăng cũng chẳng mấy ai thấy
biết hình dáng
mặt mày của những
vị Phật này,
thậm chí như đức Phật Thích
Ca Mâu Ni cũng chưa ai
thấy mặt mày hình
dáng ra sao? Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni là con người thật trên hành tinh có lịch sử
hẳn hoi thế mà hiện giờ
có ai gặp
và thấy Phật Thích Ca Mâu Ni chưa? Cho đến những giáo
pháp duy nhất của Ngài dẫn đến cứu cánh giải thoát thực tế, cụ thể như vậy.
Ngoài pháp này ra không
còn một pháp
môn nào nữa.
Thế mà hiện giờ có
một số người bắt
chước nhai lại bã mía của tưởng tri Đa Thần
giáo cho nên mới bảo
rằng: “pháp môn
nào cũng dẫn đến
cứu cánh
như nhau”. Lối xác định
như vậy thật là
vô lí,
nó không chính
xác và không
hợp lí. Có đúng như vậy không các bạn?
Kính thưa
các bạn! Hiện giờ
nhiều tu sĩ của
nhiều hệ phái
Phật giáo trên
thế giới họ sinh
sống cũng giống
như tu sĩ
Bà La Môn trong
thời đức Phật
còn tại thế. Họ
đã học
và lập lại lý luận của
Bà La Môn:
‚đây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến
giải thoát làm chủ sanh, già, bệnh, chết và châm dứt luân
hồi cho những ai thực
hành theo‛. Nhưng với những pháp
môn tu học của họ không
chính xác, không hợp lý toàn là pháp môn
ảo tưởng.
Đây các bạn
hãy nghe tiếp đức Phật kết luận bài kinh này:
‚– Này Vàsettha, những Bà La Môn tinh thông ba tập Vệ Đà không biết, không
thấy con đường đưa đến cộng
trú với Phạm thiên mà thuyết dạy: ‚Đây
là trực đạo, đây
là chánh đạo, hướng đến, dẫn đến
cộng trú với
Phạm thiên cho những ai thực
hành theo‛. Thật không thể
có sự
kiện ấy. Này Vàsettha,
ví như một chuỗi người mù ôm lưng
nhau, người trước không thấy, người giữa
cũng không thấy, người cuối cũng không thấy, như vậy,
này Vàsettha, lời nói của những Bà
La Môn
tinh thông
ba tập Vệ Đà người đầu không thấy, người giữa
không thấy, người cuối cũng không
thấy giống như lời
nói mù quáng. Lời nói của Bà
La Môn tinh thông ba tập Vệ Đà
như vậy là lời nói đáng chê cười, là lời nói suông, là lời nói không tưởng, là lời
nói trống rỗng…‛. Đem so sánh đoạn kinh này với
kinh sách tưởng giải
thì không có khác điều chi cả. Phải không các bạn?
Lời nói
trong kinh sách phát
triển tưởng giải là lời nói đáng
chê trách, là lời nói suông, là lời
nói ảo tưởng,
là lời nói trống rỗng,
nói trong sự hư ảo, tưởng giải, thiếu thực tế, không cụ thể v.v..
Trong Phật
giáo có đường
lối tu tập rõ
ràng và cụ thể. Đường lối tu tập đó đã
xác định bằng bốn chân
lí của loài người:
KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO. Khổ, tập, diệt,
đạo là một cái nhà lầu có bốn tầng, và
như vậy chúng
ta có thể làm
một cây thang
cao 4 tầng để bắc
lên cái nhà lầu 4
tầng, như vậy mới chính
xác và hợp lý. Phải không các bạn?
Bởi vì bốn tầng
lầu này ai cũng nhận biết một cách rõ ràng:
- Từng thứ
nhất là Khổ Đế, vậy làm người có ai không biết cái khổ này không?
- Từng thứ
hai là Tập Đế, đó là nguyên nhân
sinh ra muôn
thứ đau khổ.
Điều này không ai
dám chối cãi
và phủ định được,
nó thực tế, không mơ hồ trừu tượng mà mọi người khi nghe nói đến nguyên
nhân sinh ra đau khổ là do lòng tham dục
thì ai cũng biết rõ và chấp nhận (Tập Đế) là đúng như thật, đúng 100% phải
không các bạn?
- Tầng thứ ba
là Diệt
Đế, diệt đế là
một trạng thái ly dục, ly ác pháp; là một trạng thái tâm bất động trước
các pháp và các cảm thọ; là một trạng thái
tâm thanh thản,
an lạc và vô
sự. Trạng thái tâm này ai ai cũng biết, dù là người chưa có
tu tập một
ngày nào, họ
cũng nhận ra được, chứ
không phải đợi tu
tập rồi mới biết. Cho nên, khi có
ai nói đến tâm thanh thản, an lạc và vô
sự thì mọi người nhận ngay liền là một
trạng thái giải thoát. Dù bất cứ một người
nào cũng vẫn nhận ra được nó
một cách rõ ràng và cụ thể, chứ
không mơ hồ trừu tượng như cõi Thiên đàng, Cực lạc, Niết bàn, Phật tánh, Bản
lai diện mục, Chân
không diệu hữu, Tánh thấy, Tánh nghe, Tánh biết, Tánh
không
và Trí Tuệ
Bát Nhã... của các học giả tưởng tri đã nói.
Toàn bộ những cảnh
giới và trạng
thái trong các kinh sách
tưởng tri đều là ảo tưởng không thật có. Cho nên, việc tu hành của
họ không thực tế, cụ thể chỉ toàn là mục đích ảo tưởng, trừu tượng, ảo giác.
Nên chưa có ai thực hiện giải
thoát được như đức Phật đã dạy ở đoạn kinh trên. Vì thế, khi thực
hành không mang lại kết quả diệt
trừ tâm tham, sân, si mà tâm tham, sân, si lại còn to lớn hơn.
Phật giáo
Nguyên Thủy lại
khác. Ngay trên tâm tham, sân,
si dùng mọi pháp
diệt trừ nó để bảo vệ chân lí thứ ba. Vì thế chân lí thứ
tư là
‚Đạo Đế‛ ra đời. Đạo đế là một chương trình giáo dục đào
tạo những bậc
Thánh A La Hán vô lậu gồm có tám
lớp:
1- Lớp Chánh kiến
2- Lớp Chánh tư duy
3- Lớp Chánh ngữ
4- Lớp Chánh nghiệp
5- Lớp Chánh mạng
6- Lớp Chánh tinh tấn
7- Lớp Chánh niệm
8- Lớp Chánh định
Tám lớp
này được chia ra
làm ba cấp. Trong ba cấp này gồm có:
1- Cấp GIỚI
2- Cấp ĐỊNH
3- Cấp TUỆ
Bởi vậy đạo Phật
có chương trình giáo dục, đào tạo hẳn hoi, có bài vở tu học theo thứ lớp từ
lớp thấp đến lớp cao hơn. Mỗi bài vở học và tu tập được trau dồi và rèn luyện
thân tâm một cách cụ thể, rõ
ràng. Vì nó
là những bài học
rèn luyện và
tu tập cụ thể để đối trị
tâm tham, sân, si. Cho nên, bốn chân lí như cái nhà có bốn tầng lầu. Còn
Đạo Đế như cây thang để leo lên bốn tầng của ngôi nhà lầu.
Vậy chúng ta
hãy lắng nghe đức Phật dạy:
‚Này Vàsettha, như có một người
muốn xây tại ngã tư đường một cái
thang để
leo lên một ngôi nhà lầu, nhưng
có người hỏi:
‚Này bạn,
ông muốn xây một cái
thang để leo lên một ngôi nhà lầu, vậy ông có biết ngôi nhà lầu ấy ở về hướng Đông hay ở về hướng Tây, hay ở về hướng Bắc hay ở về hướng Nam,
ngôi nhà lầu ấy cao hay thấp
hay trung bình?
Được hỏi như vậy
người ấy trả lời không biết‛.
‚Lại có người hỏi: ‚Này
bạn, như vậy có
phải ông xây một cái
thang để leo
lên một ngôi nhà lầu mà
ông không biết, không thấy? Hỏi vậy, vị ấy trả lời
phải. Này Vàsettha, Người nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, thời
có phải lời
nói của người kia không chính
xác, hợp lí?‛.
‚- Vâng phải,
kính bạch Thế Tôn sự kiện là như vậy, thời
lời nói của người kia là không chính xác, hợp lý?‛.
Ở đây, đức
Phật đã cho một ví dụ cho các bạn dễ hiểu, dễ nhận ra cái
sai của các
pháp môn tưởng giải: Cây thang và ngôi nhà lầu.
Cây thang
dụ cho pháp, ngôi
nhà lầu, dụ cho mục
đích giải thoát.
Mục đích giải thoát
mà biết không rõ, không thấy rõ thì giáo pháp tu tập
làm sao có kết quả thực tế được. Phải không các bạn?
Thế mà
các nhà học
giả tưởng ra cây
thang, thì làm sao để leo lên được ngôi nhà lầu. Cây thang
tưởng đó không
dùng được và như vậy
giáo pháp đó không thể
đưa đến cứu cánh,
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!