Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

những lời gốc phật dạy - tập 4-2



người  vốn  là  gốc  dục.  Mà  dục  là  nguyên  nhân sinh ra muôn ngàn ác pháp và khổ đau.
Đức Phật biết rất rõ điều này, nên khi thuyết giảng bài pháp đầu tiên như trên đã nói, Ngài  đã  nói  bốn  chân  lí của  loài  người  ‚Khổ, Tập,  Diệt,  Đạo‛.  Muốn  cho loài  người  thoát kiếp khổ  đau thì giáo  pháp  của  đạo  Phật  phải là  đạo   đức nhân  bản  - nhân  quả  như  trên  đã nói, để hướng dẫn và giáo dục cho mỗi người sống  không  làm  khổ  mình,  khổ  người.  Vì  thế, mới  có  tám  lớp  (Bát  Chánh Đạo) tu  học  đạo đức nhân bản - nhân quả ra đời. Trong tám lớp này được chia làm ba cấp (Giới, Định, Tuệ).
Nhờ có đạo  đức nhân bản  - nhân quả  mới diệt hết  lòng  dục.  Diệt  hết  lòng  dục  thì con người  mới  hết  khổ.  Cho  nên,  diệt dục  tức  là diệt mọi  sự  khổ  đau. Diệt  hết  mọi sự  đau khổ của con người tức là sống không làm khổ mình, khổ  người.  Sống  không  làm  khổ  mình,   khổ người  và  khổ  tất  cả  chúng  sanh,  đó   là  một trạng thái giải thoát; là bất động tâm; là tâm không còn tham, sân, si; là tâm không phóng dật... Cho nên, Diệt Đế là một trạng thái của thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Trạng  thái  ấy  là   một  sự   thật  của  mọi người,  nếu  ai  chịu  khó  ngồi  lại  lắng  tâm  nghe



trạng thái ấy thì thấy ngay liền, nhưng nếu chỉ còn có một niệm tham, sân, si, mạn, nghi khởi lên  thì ngay  tức  khắc  trạng  thái  thanh  thản, an lạc và vô sự  đó liền mất.
Bởi vậy ba cấp và tám lớp tu học của Phật giáo  giúp  cho mọi người  ly  dục, từ  bỏ  ác  pháp, diệt tâm tham, sân, si, mạn, nghi để dẫn đến trạng thái Diệt Đế như trên đã nói.
Kính  thưa các bạn! Ba cấp tám lớp tu học của  Phật  giáo  là  chân  lí thứ  tư  (Đạo  Đế),  là con đường  dẫn  đến  cứu  cánh  giải  thoát  khỏi mọi  sự   đau  khổ  của  kiếp làm  người,  là  con đường  dẫn  đến  Phạm  thiên  mà  các  vị  Bà  La Môn  từng  mơ ước.  Và  chỉ  có  duy nhất  đây  là con đường độc lộ, không còn một con đường nào khác hơn dẫn đến sự giải thoát hoàn toàn, dẫn đến   sự   làm  chủ  bốn  sự   đau  khổ:  sanh,  già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi tái sanh.
Đạo Đế là một chương trình giáo dục đào tạo đạo  đức nhân bản - nhân quả, giúp cho con người  vượt  ra khỏi  qui luật  nhân  quả  (Vô  Lậu) và  làm  chủ  kiếp  sống của  chính  mình.  Ở   đây các bạn phải hiểu: “Chỉ đây là con đường duy nhất, vì nó là  chân lí của loài người’’. Cho nên, tất cả các tôn giáo khác đều không có chân lí này. Nhưng  vì vô minh từ các hệ phái Thầy Tổ



xa xưa truyền thừa cho đến Thầy Tổ hôm nay đều  tưởng  rằng:  Chỉ  có  giáo  pháp    của  họ  là trực đạo, là chánh đạo hướng đến mục đích cứu cánh Niết Bàn, Cực Lạc và Thiên Đàng.
Đây, các bạn hãy lắng nghe hai vị Bà La Môn  Bà  Tất  Sá  (Vasettha)  và  Bà  La  Môn  Bạc La  Đà  Phạn  Xà  (Baharadvaya)  đều  nói:  ‚Đây là trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn   đến   cộng   trú   với   Phạm   thiên cho những   ai  thực    hành   theo‛.  Đó   là   con đường do Bà La Môn Pokkharasàti giảng dạy. Còn thanh niên Bà La Môn Bạc La Bà Phạn   Xà   nói: ‚Đây   là   trực   đạo,   đây   là chánh đạo  hướng  đến,  dẫn  đến  cộng  trú với  Phạm  thiên cho  những  ai thực hành theo‛, đó  là con đường do Bà La Môn Tarukkha giảng dạy‛.
Hai  vị  Bà  La Môn  này  đều  cho giáo  pháp của Thầy mình  là chánh đạo dẫn đến cứu cánh.
Cuộc  tranh luận  bất  phân  thắng  bại  này đã  dẫn đến  đức Phật giải quyết. Đức Phật bảo:
‚Này Vàsettha, người nói như vậy phải không? Đây là chánh đạo, đây là trực đạo, hướng đến,  dẫn  đến  cộng  trú  với  Phạm thiên  cho những  ai thực  hành theo‛, đó  là



con  đường  do  Bà  La   Môn pokkharasàđi giảng   dạy.   Còn   thanh  niên Bà   La   Môn Bharadvàja  nói  như  vậy  có  phải  không?
‚Đây  là  trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên cho những   ai  thực    hành   theo‛,  đó    là   con đường do Bà La  Môn Tàrukkha giảng dạy. Này Vàsettha, ở  nơi đây tranh biện về vấn đề gì? Luận chấp vấn đề gì? Và bất đồng ý kiến về vấn đề gì?
–   Kính    thưa    Tôn   giả   Gotama,  về chánh đạo và tà đạo. Trong  đó  có Tôn giả Gotama và  nhiều  Bà  La  Môn thuyết  dạy nhiều  con  đường  sai  khác  như  các  vị  Bà La   Môn Addhariỳa,   các   vị   Bà   La   Môn Tittiriya, các vị Bà La  Môn Chandokà, các vị Bà La Môn Chanda và các vị Bà La Môn Bràhmacariỳa đều cho rằng tất cả con đường  này  hướng đến,  dẫn  đến  cộng  trú với  Phạm  thiên cho  những  ai thực hành
theo.


–  Kính   thưa   Tôn  giả  Gotama, như  ở gần  làng  hay  ở   gần  thị trấn có  nhiều  con đường  sai  khác,  nhưng   tất  cả  con  đường này đều dẫn đến làng, cũng vậy, pháp môn



của   Tôn   giả   Gotama,  của   nhiều   Bà   La Môn, tất cả pháp môn này sai khác nhưng đều   dẫn   đến,   hướng đến   cộng   trú   với Phạm thiên cho những ai thực hành theo.
Nghe xong đức Phật hỏi: ‚Này Vàsettha, có phải người nói  chúng dẫn đến?‛.
– ‚Thưa Tôn giả Gotama! Vậy con nói chúng dẫn đến‛.
–  Đức  Phật  lập  lại  một  lần  nữa,  và cho  đến  đúng  ba  lần  một   câu  hỏi   này.
‚Này  Vàsettha, có  phải  Ngươi   nói  chúng dẫn đến không?‛.
–  ‚Kính thưa   Tôn  giả  Gotama!  Vậy
con nói chúng dẫn đến‛.

Kính  thưa các bạn! Tại sao đức Phật gặng hỏi ba lần như vậy, các bạn có biết không? Đức Phật gặng hỏi cặn kẽ kỹ lưỡng như vậy để làm gì? Đó là một nguyên nhân mà các bạn cần nên lưu ý.
Các bạn có thấy không? Hiện giờ các tông phái của Phật giáo đều cho rằng ‚tất cả pháp môn đều hướng đến và dẫn đến một mục đích giải thoát như nhau”. Những tư tưởng này ngày nay đã  lập  lại  đúng  những  tư  tưởng  của  Bà  La



Môn  ngày  xưa.  Nếu  xét  kỹ  các  bạn  sẽ  thấy không sai khác chút nào cả.
Vấn đề  này rất quan trọng, và những tông phái  này  đều  dùng  những  lý  luận  này  rồi  gán lên  là  kinh của  đức  Phật  nói,  các  bạn  có  thấy không? May mắn trong đời chúng ta còn có những  bài  kinh của  đức  Phật  đã  xác  định  và quét sạch những tư tưởng cho rằng giáo pháp của Phật là chiếc bè sang sông; là ngón tay chỉ mặt  trăng;  là  mọi  ngả  đường  đều  dẫn  đến  về một mục đích giải thoát; là những phương tiện di chuyển để đến  nơi cứu cánh Niết Bàn.
Sau khi gặng  hỏi  Bà  La Môn Vàsettha ba lần  như  vậy  để  đưa Bà  La  Môn  Vàsettha  vào thế không còn chối cãi được nữa. Bấy giờ đức Phật đưa ra những câu hỏi để  quét sạch những tư  tưởng  tà  giáo  này.  Các  bạn  hãy  lắng  lòng nghe kỹ:
‚Thế   nào Vàsettha?   Có   Bà   La   Môn trong  những Bà La  Môn tinh thông ba tập Vệ Đà tận mắt đã thấy  Phạm thiên chưa?
Bà La Môn Vàsettha trả lời:

- Thưa Tôn  giả  Gotama, không có  vị nào‛.



Đọc đoạn kinh này các bạn nghĩ gì về các tông  phái  Phật  giáo  phát  triển  sau thời  đức Phật  cho đến  hiện  giờ?  Đã  biết  bao cao Tăng hiền  đức  có  những  học  vị  bằng  cấp  cao đã  làm Pháp  sư, giảng  sư tại  các  trường  Phật  học  nổi tiếng  trên  thế  giới,  nhưng  có  vị  nào  biết được cõi Cực Lạc chưa? Biết được cảnh giới Niết Bàn chưa? Và đã có vị nào làm chủ được sanh, già, bệnh,  chết  chưa? Khi chết  biết  có  mình  đi  về nơi nào chưa ???
Như vậy Thiên Đàng, Địa ngục, Cảnh giới Niết  Bàn,  cõi  Cực  Lạc  Tây  Phương v.v.. đều  là cõi tưởng. Phải không các bạn?
Vậy  các  bạn  hãy  nghe  tiếp  lời  đức  Phật dạy  năm  xưa  mà  ngày  nay  các  bạn  thấy  nó không xa lạ với chúng ta chút nào:
‚Thế nào, Vàsettha? Có tôn sư nào của các Bà La Môn tinh thông ba tập Vệ Đà đã tận mắt thấy Phạm thiên chưa?
Bà La Môn Vàsettha trả lời:

- Thưa Tôn  giả  Gotama, không có  vị
nào‛.

Đây là câu hỏi lần thứ hai về các bậc thầy của  Bà  La Môn.  Vậy  chúng  tôi  sẽ  hỏi  các  bạn.



Các bạn vui lòng hãy trả lời cho chúng tôi biết
nhé:

Các  bậc  danh  Tăng  thạc  đức  thông  suốt tam tạng trước tác kinh luận để  lại chỉ dẫn đời sau tu  tập  tới  cảnh  giới  Cực  Lạc,  Thiên  Đàng. Nhưng thử hỏi đã có vị nào biết cõi Cực Lạc, Thiên Đàng  chưa? biết  cõi  Niết  Bàn  chưa? Và đã  biết  được phương  pháp  nào  làm  chủ  sanh, già, bệnh, chết chưa? Có biết khi chết đi về đâu chưa?
Chắc  chắn  điều  này  các  bậc  tôn  túc  hữu học ấy chưa bao giờ biết. Phải không các bạn?
Các  bạn hãy  lắng  nghe đức  Phật  hỏi  một lần  nữa:  ‚Thế  nào, này Vàsettha, có  Bà  La Môn nào cho đến bảy đời tôn sư và đại tôn sư của  những vị  Bà  La  Môn tinh thông ba tập  Vệ   Đà  đã  tận  mắt thấy Phạm  thiên chưa?
Bà La Môn Vàsettha trả lời:

-  Thưa tôn  giả  Gotama,  không có  vị
nào‛.

Thưa  các  bạn!  Các  bạn  có  nghe  lời  đức Phật  dạy không?  Đức Phật  đã  xác định dù  cho các vị Tổ  đã viết ra kinh sách Vệ Đà cũng vẫn



chưa biết Phạm  thiên. Đó là điều thiết thực, cụ thể các bạn ạ!
Như vậy, những vị nào soạn thảo biên tập những  kinh sách  ảo  tưởng  mê  tín, tụng  niệm, chú   thuật,   dạy   thiền   ảo   giác   để   kiến   tánh thành Phật, cúng sao, giải hạn, tế lễ cầu phước, cầu tự, cầu an, cầu siêu, trai  đàn chẩn tế, cúng vong, tiễn  linh, đốt  tiền  vàng  mã  v.v..  từ  xưa đến nay, những việc làm này của Phật giáo có phải  là  mê  tín ảo  tưởng  không?  Cho  nên,  từ xưa tới nay chưa có người nào tu hành làm chủ được sinh,  già,  bệnh,  chết,  và  chấm  dứt  luân hồi  tái  sanh, thì làm  sao gọi là  84 ngàn  pháp môn  là  chánh  đạo, trực  đạo  hướng  dẫn  đi  đến cứu cánh được?
Tại  sao chúng  ta  biết  được các  vị  đó  chưa đi đến cứu cánh giải thoát?
Chúng ta biết được như vậy là nhờ căn cứ vào những kinh sách do các Ngài biên soạn mà không có pháp tu làm chủ sự sống chết thực tế, cụ thể, thường các pháp tu tập mơ hồ, không rõ ràng, phần nhiều dạy tu tập ức chế tâm, pháp hành   không   nhất   quán,   lúc   niệm   tụng,   cầu khẩn; lúc cúng tế sám hối; lúc thì ảo huyễn, mơ mộng trong cảnh giới tưởng Cực Lạc, Thiên Đàng,   Niết   Bàn,   Phật   tánh,   Bản  thể   Chân



không diệu hữu, Bát Nhã Chân Không v.v.. đều là những cảnh giới tưởng tri ảo ảnh, mơ hồ không thật.
Đó là lối lí luận tưởng tri trong kinh sách của các Ngài biên soạn, nhưng xét lại những Phạm hạnh  giới luật  để  liơ  dục, li ác  pháp,  để sống  đạo  đức không  làm  khổ  mình,  khổ  người và khổ tất cả chúng sanh thì chẳng bao giờ nói đến. Như vậy, rõ ràng những pháp môn tưởng giải  từ  các  vị  đầu  tiên  cũng  chưa biết được  con đường giải thoát và giải thoát như thế nào? Mà vẫn kéo dài tồn tại cho đến ngày nay cũng chưa biết  được con đường  giải  thoát  và  trạng  thái giải thoát như thế nào? Nhờ xét qua kinh sách của các Ngài, mà chúng ta biết chắc rằng các Ngài  chưa cộng  trú  với  trạng  thái  giải  thoát như  đức  Phật  đã  chỉ  dạy  cho chúng  ta  rất  rõ ràng và cụ thể.
Đây, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật hỏi Bà  La  Môn  Vàsettha:  ‚Thế  nào,  này Vàsettha. Những vị  tu  sĩ  thời  cổ  trong  các Bà   La   Môn tinh  thông ba   tập   Vệ   Đà, những  vị  sáng  tác  các  thần chú,  những  vị trì tụng thần chú  mà xưa  kia những  thần chú   được   hát  lên,   được   trì  tụng,  được ngâm  vịnh  và  ngày  nay  những  vị  Bà  La



Môn tinh thông ba tập Vệ Đà cũng hát lên, cũng trì tụng và ngâm giảng như  các vị Atthaka (A sá ca), Vàmaka, Bàma, Vàmadeva, Bà Ma Đề Bà, Anginasa, Ương Kỳ  La,  Bhagu,   Bà  Cữu,  những  vị  này  có nói chúng tôi biết, chúng tôi có thấy  chỗ ở Phạm  thiên, chỗ  đến  Phạm  thiên, chỗ  đi Phạm thiên?
- Thưa Tôn  giả  Gotama, không có  vị
nào‛.

Các  bạn  có  nghe  đoạn kinh này  không? Câu  hỏi  của  đức  Phật  rất  cụ  thể  và  thực  tế  để xác  định một  sự  lợi ích lớn cho loài  người.  Bởi vì  con  người   đang  bị   những   tôn   giáo   dùng những pháp môn ảo tưởng, trừu tượng, mê tín đang bành trướng lừa đảo, lường gạt mọi người bằng một lối lý luận xa lìa thực tế, rất mơ hồ, thường tạo ra bằng những năng lực thần huyền do tưởng  uẩn  lưu xuất,  nhờ  những  năng  lực đó lại  dễ  bề  lường  gạt  người  nhiều  hơn.  Chỉ  vì  ý thức  hiểu  biết  của  con người  còn  đang  bị  hạn chế trong không gian và thời gian. Vì thế, họ không làm sao hiểu rõ những năng lực kỳ lạ ấy của tưởng uẩn, nên họ dễ bị lường gạt.
Họ cho ‘‘các tôn giáo và  các pháp môn đều có  thể  đưa  con người  đến  một  mục  đích  giải



thoát  như  nhau’’,  nếu  con  người  chịu  tu  tập theo  pháp  môn  đó.  Họ khéo  thiện  xảo  dùng những  danh  từ  rất  kêu:  “Tất  cả  các  tôn  giáo cũng như tất cả các pháp môn đều trở về quy nguyên  một  chỗ’’.  Lời  nói  lừa  đảo  này  đã  có  từ xưa rồi, các nhà học giả sau này vẫn bắt chước mà  thôi.  Đến  nay  chưa có  ai  dám  lột  mặt  nạ của họï.
Xưa đức Phật đã lột mặt nạ tà giáo ngoại đạo  Bà  La  Môn.  Đến  khi đức  Phật  nhập  diệt thì các  học  giả  không  tu  chứng  lại  lạc  vào  ảo giác  tưởng  tri của  Bà  La Môn  lại  bắt  chước  lối lý  luận  này,  đã  lường  gạt  mọi  người  từ  hơn
2000 năm.  Đến  nay chúng tôi quyết  định dựng lại Phật giáo, vạch trần sự giả dối của đa thần giáo  Bà  La  Môn  mê  tín dán  vào  “Nhãn  mác Đạo Phật”  để  các  bạn  thấu  rõ  âm  mưu của  tà giáo  ngoại đạo lúc nào  cũng tìm cách dìm  Phật
giáo.

Xin  các  bạn  nghe tiếp  đoạn kinh này  thì sẽ rõ: ‚Này Vàsettha như  vậy người nói không có một Bà La  Môn nào trong  những vị  tinh thông ba  tập  Vệ   Đà  đã  tận  mắt thấy Phạm thiên, không có một tôn sư nào của Bà La Môn tinh thông ba tập Vệ Đà đã tận  mắt thấy Phạm  thiên, không có  một



đại  tôn  sư  nào  của  các  Bà  La  môn  tinh thông ba  tập  Vệ  Đà  tận  mắt thấy  Phạm thiên, không có  một  Bà  La  Môn  nào  cho đến 7 đời đại tôn sư, tôn sư của những Bà La  Môn  tinh thông ba  tập  Vệ  Đà  đã  tận mắt thấy Phạm  thiên  trong   những  tu  sĩ thời   cổ…   Như   vậy   các   Bà   La   Môn   tinh thông ba tập kinh Vệ Đà đã nói, chúng tôi không biết,  chúng  tôi  không thấy con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên. Nhưng chúng tôi thuyết dạy cho mọi người con đường ấy: ‚Đây là trực  đạo, đây là chánh đạo,  hướng  đến,  dẫn  đến  cộng  trú với  Phạm  thiên cho  những  ai thực hành theo’’.
- Này Vàsettha, Ngươi  nghĩ thế nào, sự kiện và như vậy thời có phải lời nói của những Bà La Môn tinh thông ba tập Vệ Đà là không chính xác hợp lý?
-Thưa tôn giả Gotama, sự kiện là như vậy, thì  lời nói của những Bà La  Môn tinh thông ba  tập  Vệ  Đà  là  không chính xác, hợp lý‛.
Đọc  đoạn kinh này  chúng  ta  thấy  có  sự xắp xếp cho thuận lý, hợp lẽ, nghe xuôi tai, chứ



thực tế không phải vậy. Bà La Môn là những tu sĩ không phải vừa.
Tuy rằng,  họ  không  biết Phạm  thiên  thật sự,  nhưng  họ  vẫn  có  những  lý  luận  chống  trái lại  câu  hỏi  của  Phật,  chứ  không  phải  họ  chịu thua và tôn kính  Phật như ở  đoạn kinh này.
Ở    đây,  chúng  ta  phải  thành  thật  công nhận một sự thật là chưa có một người nào đến cõi Trời Phạm thiên, cõi Cực Lạc, cõi Niết Bàn v.v.., và  cũng  chưa có  ai  thấy  được các  vị  Phật quá khứ hình  dáng ra sao? như Phật Tỳ Lô Giá Na cho đến Phật Cổ Nhiên Đăng cũng chẳng mấy   ai   thấy   biết   hình   dáng   mặt   mày   của những  vị  Phật  này,  thậm  chí  như  đức   Phật Thích  Ca Mâu  Ni cũng  chưa ai  thấy  mặt  mày hình  dáng  ra sao? Đức  Phật  Thích  Ca Mâu  Ni là con người thật trên hành tinh có lịch sử hẳn hoi  thế  mà  hiện  giờ  có  ai  gặp  và  thấy  Phật Thích Ca Mâu Ni chưa? Cho đến những giáo pháp duy nhất của Ngài dẫn đến cứu cánh giải thoát  thực  tế,  cụ  thể  như vậy.  Ngoài  pháp  này ra không  còn  một  pháp  môn  nào  nữa.  Thế  mà hiện  giờ có  một  số  người bắt  chước nhai  lại bã mía  của  tưởng  tri Đa Thần  giáo  cho nên  mới bảo  rằng:  “pháp  môn  nào  cũng  dẫn  đến  cứu cánh  như nhau”.  Lối  xác  định như vậy  thật  là



vô  lí,  nó  không  chính  xác  và  không  hợp  lí.  Có đúng như vậy không các bạn?
Kính  thưa  các  bạn!  Hiện giờ  nhiều  tu  sĩ của  nhiều  hệ  phái  Phật  giáo  trên  thế  giới  họ sinh  sống  cũng  giống  như  tu  sĩ  Bà  La  Môn trong  thời  đức  Phật  còn  tại  thế.  Họ đã  học  và lập  lại  lý  luận  của  Bà  La  Môn:  ‚đây  là  trực đạo, đây là chánh đạo hướng đến, dẫn đến giải thoát làm chủ sanh, già, bệnh, chết và châm dứt   luân   hồi   cho  những   ai  thực hành  theo‛. Nhưng  với  những  pháp  môn  tu học của họ không chính  xác, không hợp lý toàn là pháp môn ảo tưởng.
Đây các bạn hãy nghe tiếp đức Phật kết luận  bài  kinh này:  ‚– Này  Vàsettha, những Bà La  Môn tinh thông ba tập Vệ Đà không biết,  không  thấy con đường  đưa  đến  cộng trú với Phạm thiên  mà thuyết dạy: ‚Đây là trực  đạo,  đây  là  chánh đạo,  hướng đến, dẫn   đến   cộng   trú   với   Phạm   thiên cho những  ai thực  hành theo‛. Thật không  thể có  sự  kiện  ấy.  Này  Vàsettha, ví như  một chuỗi người mù ôm lưng nhau,  người trước không thấy, người  giữa  cũng  không  thấy, người cuối cũng không thấy, như vậy, này Vàsettha, lời  nói  của  những  Bà  La  Môn



tinh thông ba tập  Vệ  Đà  người  đầu không thấy, người  giữa  không thấy, người  cuối cũng  không  thấy giống  như   lời  nói  mù quáng. Lời  nói  của  Bà  La  Môn tinh thông ba tập Vệ Đà như vậy là lời nói đáng chê cười, là lời nói suông,  là lời nói không tưởng,  là lời  nói trống rỗng…‛. Đem so sánh đoạn kinh này  với  kinh sách  tưởng  giải  thì không có khác điều chi cả. Phải không các bạn?
Lời  nói  trong  kinh sách  phát  triển  tưởng giải là lời nói đáng chê trách, là lời  nói suông, là  lời  nói  ảo  tưởng,  là  lời  nói  trống  rỗng,  nói trong sự hư ảo, tưởng giải, thiếu thực tế, không cụ thể v.v..
Trong  Phật  giáo  có  đường  lối  tu  tập  rõ ràng và cụ thể. Đường lối tu tập đó đã  xác định bằng  bốn  chân  lí của  loài  người:  KHỔ,  TẬP, DIỆT, ĐẠO. Khổ, tập, diệt, đạo là một cái nhà lầu  có  bốn  tầng,  và  như  vậy  chúng  ta  có  thể làm  một  cây  thang  cao 4 tầng  để  bắc  lên  cái nhà  lầu  4 tầng, như vậy  mới  chính  xác  và  hợp lý. Phải không các bạn?
Bởi vì bốn tầng lầu này ai cũng nhận biết một cách rõ ràng:



- Từng thứ nhất là Khổ Đế, vậy làm người có ai không biết cái khổ này không?
- Từng thứ hai là Tập Đế, đó là nguyên nhân  sinh   ra  muôn  thứ  đau  khổ.  Điều  này không  ai  dám  chối  cãi  và  phủ  định được,  nó thực tế, không mơ hồ trừu tượng mà mọi người khi nghe nói đến nguyên nhân sinh  ra đau khổ là do lòng tham dục thì ai cũng biết rõ và chấp nhận (Tập Đế) là đúng như thật, đúng 100% phải không các bạn?
- Tầng  thứ  ba là  Diệt  Đế,  diệt   đế là  một trạng thái ly dục, ly ác pháp; là một trạng thái tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ; là một  trạng  thái  tâm  thanh  thản,  an  lạc  và  vô sự. Trạng thái tâm này ai ai cũng biết, dù là người  chưa có  tu  tập  một  ngày  nào,  họ  cũng nhận  ra được,  chứ  không  phải  đợi tu  tập  rồi mới biết. Cho nên, khi có ai nói đến tâm thanh thản, an lạc và  vô sự thì mọi người  nhận ngay liền là một trạng thái giải thoát. Dù bất cứ một người  nào  cũng  vẫn  nhận  ra được nó  một  cách rõ ràng và cụ thể, chứ không mơ hồ trừu tượng như cõi Thiên đàng, Cực lạc, Niết bàn, Phật tánh,  Bản  lai diện  mục,  Chân  không  diệu  hữu, Tánh thấy, Tánh nghe, Tánh biết, Tánh không



và  Trí  Tuệ Bát Nhã... của các học giả tưởng tri đã nói.
Toàn  bộ  những  cảnh  giới  và  trạng  thái trong  các  kinh sách  tưởng  tri đều  là  ảo  tưởng không thật có. Cho nên, việc tu hành của họ không thực tế, cụ thể chỉ toàn là mục đích ảo tưởng, trừu tượng, ảo giác. Nên chưa có ai  thực hiện  giải  thoát  được như  đức  Phật  đã   dạy  ở đoạn kinh trên.  Vì  thế,  khi thực  hành  không mang lại kết quả diệt trừ tâm tham, sân, si mà tâm tham, sân, si lại còn to lớn hơn.
Phật  giáo  Nguyên  Thủy  lại  khác.  Ngay trên tâm tham, sân, si  dùng mọi  pháp  diệt  trừ nó để  bảo vệ chân lí thứ ba. Vì thế chân lí thứ tư  là  ‚Đạo  Đế‛ ra đời.  Đạo  đế  là  một  chương trình giáo  dục đào  tạo  những  bậc  Thánh  A La Hán vô lậu gồm có tám lớp:
1-        Lớp Chánh kiến

2-        Lớp Chánh tư duy

3-        Lớp Chánh ngữ

4-        Lớp Chánh nghiệp

5-        Lớp Chánh mạng

6-        Lớp Chánh tinh tấn

7-        Lớp Chánh niệm



8-        Lớp Chánh định

Tám  lớp   này  được chia  ra  làm  ba  cấp. Trong ba cấp này gồm có:
1-  Cấp GIỚI

2-  Cấp ĐỊNH

3-  Cấp TUỆ

Bởi  vậy  đạo  Phật  có  chương  trình giáo dục, đào  tạo hẳn hoi, có bài vở tu học theo thứ lớp từ lớp thấp đến lớp cao hơn. Mỗi bài vở học và tu tập được trau dồi và rèn luyện thân tâm một  cách  cụ  thể,  rõ  ràng.  Vì  nó  là  những  bài học  rèn  luyện  và  tu  tập  cụ  thể  để  đối  trị  tâm tham, sân, si. Cho nên, bốn chân lí như cái nhà có bốn tầng lầu. Còn Đạo Đế như cây thang để leo lên bốn tầng của ngôi nhà lầu.
Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:
‚Này   Vàsettha, như  có   một  người   muốn xây tại ngã tư  đường một cái thang  để  leo lên một ngôi nhà lầu, nhưng  có người hỏi:
‚Này  bạn,  ông muốn  xây  một cái  thang để leo lên một ngôi nhà lầu, vậy ông có biết ngôi nhà lầu ấy ở  về hướng Đông hay ở  về hướng Tây, hay ở  về hướng Bắc hay ở  về hướng Nam,  ngôi nhà lầu ấy cao hay thấp



hay  trung bình?  Được  hỏi như  vậy  người ấy trả lời không biết‛.
‚Lại  có  người  hỏi: ‚Này  bạn,  như  vậy có  phải  ông  xây  một  cái  thang  để  leo  lên một  ngôi  nhà  lầu  mà  ông  không biết, không thấy?  Hỏi  vậy,  vị  ấy  trả lời  phải. Này Vàsettha, Người nghĩ thế nào? Sự kiện là  như  vậy,  thời  có  phải  lời  nói của  người kia không chính xác, hợp lí?‛.
‚- Vâng phải, kính bạch Thế Tôn sự kiện là như  vậy, thời lời nói của người kia là không chính xác, hợp lý?‛.
Ở  đây, đức  Phật đã  cho một ví dụ cho các bạn  dễ  hiểu,  dễ  nhận  ra cái  sai  của  các  pháp môn tưởng giải: Cây thang và ngôi nhà lầu.
Cây  thang  dụ  cho pháp,  ngôi  nhà  lầu,  dụ cho mục  đích  giải  thoát.  Mục  đích  giải  thoát mà biết không rõ, không thấy rõ thì giáo pháp tu  tập  làm  sao có  kết  quả  thực  tế  được. Phải không các bạn?
Thế  mà   các  nhà   học  giả  tưởng  ra  cây thang, thì làm sao để leo lên được ngôi nhà lầu. Cây  thang  tưởng  đó  không  dùng  được và  như vậy  giáo pháp  đó  không thể  đưa đến cứu  cánh,



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!