cho nên kinh sách của các học giả biên
soạn là kinh sách tưởng, không phải Phật thuyết.
Diệt Đế là chân
líù của đạo Phật rất cụ thể, rõ
ràng, không mơ hồ, trừu tượng. Một
trạng thái giải thoát thật sự mà mọi người ai cũng nhận ra được bằng ý thức của
mình.
Kính thưa các bạn! Chân
lí của Phật giáo đã xác định rõ ràng điều này.
Khổ Đế và Tập Đế là hai chân lí đầu
tiên đã chỉ rõ đời sống thế gian là một đời
sống dẫy đầy sự khổ đau vô cùng tận. Những chân lí này
đã xác định như vậy thì không còn ai phủ nhận được. Còn chân
líù thứ ba là Diệt Đế. Diệt đế là chỉ cho tâm bất động trước các pháp
ác và các cảm thọ; là một đời sống bình
an và hạnh phúc không còn khổ đau nữa. Đó chính
là mục đích giải thoát của Phật giáo
rõ ràng và cụ thể, nên không ai
có thể cho nó mơ hồ ảo tưởng được.
Chân lý thứ tư như các bạn đã biết nó là
chương trình giáo dục đào tạo bằng những giáo pháp tu tập rèn
luyện đưa đến không còn khổ đau nữa
tức là đạt đến mục đích giải
thoát hoàn toàn mà trong kinh đức Phật đã cho ví dụ như một cây thang bắc
lên ngôi nhà lầu.
Đọc trong bài kinh này
chúng ta thấy tất cả các vị Bà
La Môn từ đại tôn sư biên soạn viết
ra kinh sách Vệ Đà cho đến các vị Bà
La Môn hiện nay đang hành trì theo
giáo pháp này. Người nào cũng không xác định được cảnh giới
giải thóat cụ thể rõ ràng. Phần
nhiều các vị Bà La Môn chỉ nói hay lý luận trong mơ hồ, trừu
tượng, ảo tưởng v.v.. Điều đó cho biết các
Bà La Môn này chắc chắn là không biết, không thấy. Vậy mà họ bảo
rằng: ‚Đây là trực đạo, đây là
chánh đạo hướng đến, dẫn đến cộng trú với
Phạm thiên, nếu ai tu theo nó”. Lời dạy này
không chính xác và không hợp lí, xin các
bạn lưu ý: Những loại kinh sách tưởng giải nầy trong Đạo Phật ở thời đại
chúng ta vẫn phát triển nhiều lắm.
Ví dụ ngôi nhà lầu và cây thang là ý đức
Phật không chấp nhận những cảnh giới
siêu hình, những loại thiền tưởng, ức
chế tâm sinh ra những trạng thái mơ hồ, trừu tượng...
Mục đích cứu cánh
giải thoát là phải cụ thể rõ ràng, mọi người đều
nhận ra bằng ý thức một cách dễ dàng, có đúng như vậy mới tin còn không
đúng như vậy mà tin là tin mù quáng.
Giáo pháp tu tập
của Phật giáo là đức hạnh sống của con người, vì
thế chứng đạt được
mục đích không có khó khăn. Giáo pháp của
Phật không phải là thứ giáo pháp mơ hồ, trừu tượng như kiểu kinh sách tưởng
giải: Kiến tánh thành Phật, Chẳng niệm thiện niệm ác là bản
lai diện mục hiện tiền hay Tham thoại
đầu, Khán công án, hay Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm hoặc
Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời
chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ
nhất thiết khổ ách… rồi thõng tay vào chợ, tự tại vào chốn thanh lâu
tiểu điếm, vô ngại ăn thịt chó uống rượu để độ sanh, hoặc còn Chăn
trâu, Giữ ông chủ hay biết vọng liền buông, hay đói ăn khác uống mệt đi ngủ
v.v..
Kính thưa các bạn! Cách thức tu tập
như vậy không có thực tế, còn nô lệ
cho lòng dục của mình rồi biện minh
đủ điều, không đoạn diệt tâm tham, sân, si…
Đây các bạn hãy nghe
đức Phật dạy tiếp:
‚Này Vàsettha, như sông Aciravati này đầy
tràn đến bờ khiến con quạ có thể uống được. Có người đến, có
sự việc bên bờ kia, tìm đến bờ bên
kia, hướng đến bờ bên kia và muốn lội
qua bờ bên kia. Người đứng bờ bên này
kêu bờ bên kia và nói: ‚Bờ bên kia hãy lại đây!
Bờ bên kia hãy lại đây!‛. Này Vàsettha người nghĩ thế
nào? Có phải
vì người kia kêu gọi bờ bên kia, vì cầu
khẩn, vì hy vọng, vì tán thán mà bờ bên kia của
sông Aciravati đến bờ bên này không?‛.
Đức Phật cho một
ví dụ điển hình cho chúng ta thấy pháp môn Tịnh
Độ, pháp môn Pháp Hoa là những pháp môn cầu khẩn, cúng bái, sám hối v.v..
mà từ bấy lâu nay đã truyền thừa bao thế hệ với những điều mê tín
bằng sự cầu khẩn, tán thán, hy vọng hay sám
hối, cầu an để được tiêu tai giải trừ nghiệp ác. Những hành
động tu tập của những giáo pháp
này cũng giống như người đứng ở bờ
bên này mà gọi bờ bên kia để bờ
bên này sang sông. Một việc làm mơ mộng không thực tế
chút nào, một sự tu hành như vậy không thể có sự giải
thoát được.
Đây là một bài
kinh mà đức Phật đã làm sáng tỏ cái sai của kinh
sách nương vào tha lực ảo tưởng. Nhờ bài kinh này
mà chúng ta thấy những kinh sách ảo tưởng là sau này
biên soạn chứ không phải giáo pháp của đức Phật thuyết.
Sự cầu khẩn, sự cúng tế, sự lễ lạy
sám hối, sự niệm hồng danh chư Phật, sự niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc Tây
phương cũng giống như người đứng ở bờ sông bên
này mà kêu gọi bờ
sông bên kia ‚Bờ bên
kia hãy lại đây! Bờ bên kia hãy lại đây!‛.
Những việc làm vô vọng, những sự tu hành như vậy thật
là hoài công, vô ích, chỉ uổng cho một đời tu tập.
Bài kinh trên đây đã xác định cho các bạn
thấy rằng: chỉ có một con đường duy nhất
đưa đến cứu cánh giải thoát hoàn
toàn, đó là Đạo Đế. Đạo đế là
một chương trình giáo dục và đào tạo
đạo đức nhân bản - nhân quả
sống không làm khổ mình, khổ người, có tám lớp và ba cấp như
đã nói ở trên. Cho nên, người mới vào tu
tập là phải vào cấp một, tức là cấp giới luật. Sau khi tốt nghiệp cấp giới luật
xong mới lên cấp hai, cấp hai là cấp
tu tập thiền định. Sau khi tốt nghiệp cấp
thiền định xong, thì mới lên cấp ba là
cấp tuệ. Sau khi tốt nghiệp xong cấp tuệ là
đã học xong chương trình đào tạo đức hạnh
làm Người, làm Thánh. Ngoài Đạo Đế này ra thì
không có pháp môn nào hướng đến, dẫn đến cứu cánh
giải thóat được. Cho nên, các bạn có nhớ lời Phật dạy không?
Phật dạy: Đừng có tin! Đừng có tin!!!
1. ‚Chớ có tin vì nghe truyền
thuyết.
2. Chớ có tin vì nghe truyền thống.
đến.
3. Chớ có tin vì nghe nhiều người
nói
4. Chớ có tin vì được kinh tạng
truyền tụng.
5. Chớ có tin vì
nhân lý luận siêu hình.
6. Chớ có tin vì đúng theo một lập trường.
7. Chớ có tin vì
đánh giá hời hợït những dự kiện.
8. Chớ có tin vì
phù hợp với định kiến của mình.
9. Chớ có tin
nơi xuất phát có uy quyền.
10. Chớ có tin vì bậc Sa Môn là Đạo sư của
mình v.v..‛.
Có 10 điều đức Phật đã dặn bảo mọi
người đừng có tin những điều giáo pháp dạy
không thực tế, không cụ thể, không rõ ràng, đối với sự cứu cánh giải
thoát.
Kinh sách tưởng giải đã không xác định mục
đích giải thoát cụ thể rõ ràng như chân lí Diệt Đế của Phật
Giáo Nguyên Thuỷ. Mà chỉ dùng những từ mơ hồ,
trừu tượng, hư tưởng,
không cụ thể, không
thực tế như: Phật Tánh, Tánh Giác, Tánh Thấy,
Tánh Nghe, Tánh Biết
v.v..
Con người khổ là vì năm pháp dục tăng
thịnh lẫy lừng; vì năm triền cái được
gọi là chướng ngại pháp; và vì thập thất kiết sử
v.v.. Sự kiến tánh thành Phật; sự niệm
Phật cầu vãng sanh Cực Lạc Tây Phương; sự niệm chú có thần
thông của Mật Tông thì đâu có đối trị
và đoạn diệt được năm dục tăng trưởng, thập thất kiết sử và
năm triền cái. Cho nên, tu theo ảo
tưởng sẽ dẫn đến một hướng khác, hướng ảo tưởng. Vì thế, đối với năm dục trưởng
dưỡng và năm triền cái càng tăng trưởng mạnh mẽ
hơn, nên cuộc sống của họ tiện nghi đầy đủ, chùa to Phật lớn chứng minh
cho các bạn biết những tu sĩ này đang chạy theo
dục lạc thế gian danh lợi, ăn ngủ phi
thời, họ sống chẳng khác như người thế tục,
chỉ có y áo và chiếc đầu cạo trọc.
Vậy các bạn hãy
lắng nghe đức Phật dạy:
‚Này Vàsettha, có năm pháp khiến
dục lạc tăng thịnh, năm pháp này được xem là sợi dây
chuyền, sợi dây thắng trong giới luật của
bậc Thánh. Thế nào là năm? Những sắc
pháp do mắt thấy cảm nhận khả ái, mỹ
miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với
dục, ái lạc; những
tiếng do tai cảm nhận..., những vị do lưỡi cảm
nhận..., những xúc do thân cảm nhận, khả ái mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu
hữu với dục, ái dục. Này Vàsettha. Năm pháp khiến dục lạc tăng thịnh ấy,
được xem là sợi dây chuyền, sợi dây thắng trong
giới luật của bậc Thánh. Này Vàsettha, năm pháp khiến dục lạc
tăng thịnh ấy. Các Bà La Môn tinh thông ba tập Vệ Đà
vẫn chấp trước mê đắm bị trói buộc, không thấy
nguy hiểm của chúng, không nhận thức sự không
thoát ly của chúng, đã tận hưởng năm pháp
ấy‛.
Đọc đoạn kinh này các
bạn nên đem các tu sĩ hiện giờ ra so
sánh với các tu sĩ Bà La Môn trong
thời đức Phật thì các bạn thấy rất rõ những
tu sĩ hiện giờ đâu có khác gì những tu sĩ Bà La Môn,
mặc dù trong số họ có nhiều người
đạt học vị cao, thông tam tạng kinh điển, nhưng họ đều bị
năm dục trưởng dưỡng tăng thịnh đã xỏ mũi. Vì
thế, họ chạy theo danh lợi, dục lạc, luôn luôn bị
năm triền cái tác độâng làm chướng ngại pháp,
khiến cho họ khổ sở vô cùng, vô tận, không bao giờ dứt như đoạn kinh trên đã
dạy.
Đây, các bạn hãy lắng
nghe đức Phật quở trách các vị Bà La Môn trong thời ấy: ‚Này
Vàsettha, những Bà La Môn tinh thông ba tập Vệ Đà loại bỏ những pháp tác
thành người Bà La Môn, tuân theo những pháp
không tác thành người Bà La Môn, chấp trước mê
đắm, bị trói buộc không thấy nguy hiểm của chúng, không
nhận thức sự không thoát ly của chúng, tận hưởng
chúng bị trói buộc bởi sự trói buộc của dục
lạc, sau khi thân hoại mạng chung sẽ cộng trú với
Phạm thiên, thật không có sự kiện ấy”.
Kính thưa các bạn!
Đọc đến đoạn kinh này các bạn thấy rất rõ những tu sĩ hiện giờ
không khác gì những tu sĩ Bà La Môn.
Họ đã ném bỏ giáo pháp của đức Phật,
để rồi kiến giải Phật pháp theo kiểu học giả, và chấp nhận
giáo pháp của ngoại đạo, còn gọi giáo pháp
đó là pháp môn Tối thượng thừa. Do đó, các bạn thấy chùa to
Phật lớn mọc lên như nấm khắp nơi,
làm hao tốn tiền của Phật tử
biết bao nhiêu, kể sao cho hết. Họ sống chạy theo danh lợi,
dục lạc thế gian, ăn ngủ phi thời.
Họ là những tu sĩ phá giới, phạm
giới, bẻ vụn giới. Sau khi thân hoại mạng
chung họ thọ lấy sự
khổ đau vô cùng, vô tận, vì thế họ làm sao
cộng trú với trạng thái giải thoát cho được.
Đó là một sự lầm lạc rất lớn của tu sĩ
Phật giáo hiện nay, không khác gì sự lầm lạc của Bà La Môn trong
thời đức Phật ngày xưa. Cho nên, bài
kinh này đã xác định và vạch ra một sự
thật để làm sáng tỏ sự sai lầm
của một số kinh sách tưởng giải ngày nay, để nhắc nhở Tăng sĩ
và mọi người cần phải cảnh giác khi bước vào đường tu.
Vì nhân tu sai một ly thì đạo quả sẽ
xa đi ngàn dặm!!!
Cho nên, các bạn lưu ý: Đừng nghe những gì
họ nói mà hãy thấy những gì của họ đã làm.
Đây, các bạn hãy nghe tiếp đức Phật
dạy:
‚Này Vàsettha có năm
triền cái được gọi là chướng ngại, cũng được gọi là
triền cái, cũng được gọi là màn che, cũng được gọi là
triền phược trong giới luật của bậc Thánh. Thế nào là năm?
Dục ái, sân ái, hôn trầm, thùy miên ái,
trạo hối ái, nghi ái. Này Vàsettha, các
Bà La Môn tinh thông ba tập Vệ Đà
bị chướng ngại, bị triền phược, bị che đậy
v.v.. Bị trói buộc bởi năm triền cái này, sau khi
thân họai
mạng chung sẽ cộng trú với Phạm thiên.
Thật không thể có sự kiện ấy xảy ra!‛.
Đọc đoạn kinh này chúng
ta thấy rất rõ đa số các vị tu sĩ thời nay đang bị trói
buộc bởi năm triền cái này, vì vậy con
đường tu hành giải thoát của họ làm
sao có được. Phải không các bạn?
Bài kinh này đã xác
định rõ ràng không thể ai phủ nhận được cái sai của họ. Bởi
vì một sự thật hiển nhiên đang bày ra trước
mắt mọi người. Cho nên, ai cũng chứng
kiến thấy rõ ràng tu sĩ hiện giờ đang chạy theo dục lạc và
hưởng thụ danh lợi thế tục.
Các bạn hãy nghe
tiếp đoạn kinh này:
‚Này Vàsettha, Ngươi nghĩ
thế nào? Ngươi có nghe những Bà La
Môn niên cao lạp trưởng, tôn sư và đại tôn sư cùng nhau
nói chuyện không? Phạm thiên có ái dục hay
không ái dục?
- Thưa Tôn giả Gotama, không
có ái
dục.
tâm.
- Có hận tâm hay không hận
tâm?
-Thưa Tôn giả Gotama, không có
hận
- Có sân tâm hay không sân tâm?
tâm.
- Thưa Tôn giả Gotama, không có
sân
- Có nhiễm tâm
hay không nhiễm
tâm?
- Thưa Tôn giả Gotama,
không có nhiễm tâm.
- Có tự tại hay không có tự tại?
- Thưa Tôn giả Gotama, có tự tại.
- Này Vàsettha Ngươi nghĩ thế nào
các Bà La Môn tinh thông ba tập Vệ Đà có
ái dục hay không ái dục?‛.
Đọc đoạn kinh trên các
bạn thấy rất rõ ràng đức Phật đã
nêu lên mục đích giải thoát cụ thể không có
mơ hồ không có trừu tượng, không có ảo giác. Đó
là ‚tâm không ái dục‛. Như vậy ái dục là chân lý
thứ hai của đạo Phật để xác định nguyên nhân sinh ra muôn sự
đau khổ của chúng sanh nên gọi là ‚Tập Đế‛. Tập đế là nơi tập hợp mọi sự
khổ đau.
Đoạn kinh này cũng xác định rõ ràng
đức Phật đã hết ái dục. Bà La Môn còn ái dục. Như vậy tu sĩ
nào còn ái dục và sống phi Phạm
hạnh, phạm giới, phá giới, bẻ vụn
giới, sống như vậy thì làm sao cộng trú với Phạm
Thiên, với sự giải thoát được. Phải không các bạn?
Cho nên, nói tất cả pháp đều dẫn về một
mục đích giải thoát thì không thể có được, như trong bài kinh này đức
Phật đã xác định, sống không đúng giới luật
thì không bao giờ có sự giải thoát chân thật.
Muốn thấu rõ sự
đúng sai của tu sĩ thời nay chúng
ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:
‚Này Vàsettha, ở
đời các Bà La Môn có tinh thông ba tập
Vệ Đà, khi các vị ngồi (với sự
tự tin) thật sự là đang chìm trong bùn
lầy và khi đang chìm trong bùn
lầy, phải sống trong thất vọng, lầm tưởng rằng đã đến cảnh giới an
lạc hơn. Do vậy đối những Bà La Môn tinh thông ba
tập Vệ Đà, sự tinh thông ấy được gọi là
bãi sa mạc không có nước, sự tinh thông ấy được gọi là rừng
rậm không có đường lối, sự tinh thông cũng được gọi là
sự bất hạnh‛.
Kính thưa các bạn!
Đọc đoạn kinh trên đây, nó đã xác
định cho chúng ta biết rằng: Các học giả thông suốt tam
tạng kinh điển, thuyết giảng như gió thổi, mây
bay, nhưng sự tinh thông ấy được gọi sa mạc không
có nước, sự tinh thông ấy được gọi là rừng rậm không có đường lối,
sự tinh thông ấy cũng được gọi là sự bất hạnh. Bởi vậy, kinh sách tưởng giải mà
các
vị ấy biên soạn ra là một thứ bánh vẽ,
bánh giấy. Không giúp ích cho con người lợi lạc
mà còn dẫn dắt con người vào thế giới ảo tưởng, sống mê tín
lạc hậu. Có đúng như vậy không các bạn?
Tóm lại, trong thời đức Phật đã có những
Bà La Môn cho tất cả pháp môn là mọi con đường đều dẫn đến
một địa điểm cứu cánh, tư tưởng ấy đã được truyền thừa
đến ngày nay và đang phát triển mạnh. Đó là kinh sách phát triển sau thời
đức Phật (84.000 pháp môn của các hệ phái tưởng
tri biên soạn…).
Ngày xưa, đức Phật đã
dẹp bỏ những tư tưởng sai lầm này. Ngài đã vạch ra rất rõ
ràng, nhưng từ khi Ngài mất các Tổ Bà
La Môn đã khéo dìm mất những lời dạy này của Ngài rồi biến
dầàn thành giáo pháp của Bà La
Môn đa thần ảo tưởng.
Hôm nay đủ duyên chúng
tôi dựng lại những gì của đức Phật
đã dạy, để cho mọi người đến với
đạo Phật mà không còn bị tà giáo ảo
tưởng đa thần lừa đảo. Những tư tưởng ảo giác đều cho rằng
tất cả giáo pháp tu hành là những chiếc bè
sang sông, là phương tiện di chuyển, là mọi con
đường dẫn đến một địa
điểm, là ngón tay
chỉ mặt trăng v.v.. thật là một sự hiểu
biết lầm lạc rất đáng thương!!!
Chúng tôi tin rằng khi
các bạn đọc xong lời chú giải này thì đối
với những loại kinh sách tưởng tri như thế sẽ không còn
có thể lừa đảo các bạn được nữa. Thân thương
chào các
bạn.
Kính ghi
Thích Thông Lạc
TỪ BỎ TÂM THAM
LỜI PHẬT DẠY
‚Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được
bậc A La Hán nói đến, và tôi đã được nghe: ‚Này các
Tỳ kheo, hãy từ bỏ một pháp. Ta
bảo đảm cho các Ngươi không có tái
sanh. Thế nào là một pháp? Tham, này các Tỳ kheo! Là một pháp
các Ngươi hãy từ bỏ, Ta bảo đảm cho các Người
không đi tái
sanh‛.
(Kinh Thuyết Như Vậy, trang 413, Chương I,
Tập Một Pháp)
CHÚ GIẢI:
Kính thưa các bạn!
Đọc qua lời Phật dạy trên đây chúng ta có đặt
trọn lòng tin nơi lời dạy này hay không?
Riêng chúng tôi khi tu tập Thiền Đông Độ
bị bế tắc, không biết đường tiến tới
nữa, nên đọc được lời dạy này chúng tôi
nổ lực hằng
ngày tu tập với
câu tác ý: ‚Tâm như đất ly tham, sân,
si cho thật sạch, vì tâm tham, sân, si là ác
pháp, là đau khổ”. Khi tác ý mỗi lần như
vậy nếu có điều gì khiến tâm khởi lên tham, sân, si là chúng tôi
quyết định dừng lại một cách kiên cường dũng mãnh, không để một
phút giây tham, sân, si trong tâm
mình tác động. Do đặt trọn niềm tin nơi
những lời Phật dạy, vì thế, chúng tôi
nhiếp phục tâm mình một cách dễ dàng, không có khó khăn,
không có mệt nhọc, không có phí sức.
Trong lời dạy này chỉ
cần có “từ bỏ tâm tham‛ là chấm dứt
tái sanh luân hồi. Nhớ lời dạy lời dạy ấy nhất
là có sự quả quyết của đức Phật: ‚Ta bảo
đảm cho các Ngươi‛. Vì thế, sáu tháng
trời chúng tôi chuyên cần tu tập từ
bỏ tâm tham, sân, si, đúng pháp như
lý tác ý, thế là chúng tôi đã thành
tựu đạo giải thoát, làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi
như lời đức Phật đã bảo đảm.
Bởi vậy bài kinh này
lấy tên là Tập Một Pháp trong Tập
Kinh Phật Thuyết Như Vậy. Để bảo đảm
lời dạy này, đức Phật đã đọc một bài kệ
ngắn gọn:
‚Với tham bị tham đắm
Chúng sanh đi ác thú (tái sanh) Bậc thiền
quán chánh trí
Từ bỏ tham ái ấy
Từ bỏ không bao giờ
Trở lại đời này nữa‛
Kính thưa các bạn! Vậy tâm tham ái
là gì? Tham là sự tham lam, ham muốn,
thường
con người ai cũng có
tâm tham lam và ham
muốn: nhưng có người tham muốn
nhiều, lại có người tham muốn ít. Muốn từ bỏ
tâm tham muốn là các bạn nên lưu ý từng hành động nhỏ nhặt
của các bạn như: ăn, uống, ngủ nghỉ,
vui chơi, giao tiếp với bạn bè v.v.. khi muốn
từ bỏ tâm tham muốn các bạn phải xem xét kỹ lưỡng từ cái
ăn, cái mặc, cái vui chơi xem coi nó còn
tham ăn, tham ngủ, tham nói chuyện không?
Ăn ngủ và nói
chuyện là tướng tham sẽ hiện nơi đó. Khi tướng
tham còn hiện nơi đó là tâm các bạn chưa thanh tịnh,
tâm chưa thanh tịnh dù các bạn có muốn tu pháp nào đi nữa thì các
bạn cũng đều là tu sai pháp, tu
lạc đường cả. Do đó, sự tu tập của các
bạn chỉ uổng công mà thôi.
Bởi vậy, khi tu tập từ bỏ tâm tham thì các
bạn nên xem mình ưa thích ăn cái này, cái kia không? Nếu còn
thích ăn cái này, cái kia thì tâm các bạn
còn tham ái. Biết tâm còn tham ái thì các bạn phải cố gắng nhiếp phục tâm mình
để từ bỏ tâm tham ăn, tham uống, tham ngủ nghỉ phi thời. Khi
từ bỏ được tâm tham ăn là các bạn không ăn uống
phi thời, không ăn uống lặt vặt, đúng giờ thì ăn, không đúng giờ thì không
ăn. Và không bao giờ thèm ăn cái
này hay thèm ăn cái kia. Như vậy
các bạn đã lìa hay từ bỏ tâm tham ăn.
Trong giới luật Phật có giới cấm
không ăn phi thời. Không ăn phi thời là đức hạnh ly tâm tham của
một vị tu sĩ. Thế mà giới này các
tu sĩ Phật giáo ngày nay đều vi phạm ăn uống phi thời, các
thầy còn tâm tham ăn chưa từ
bỏ. Chưa từ bỏ tâm tham ăn mà muốn kiến tánh thành Phật, thì
Phật đó là Phật còn tham ăn ư! Vậy mà
muốn sau khi chết được trực vãng Tây Phương Cực
Lạc. Chả lẽ cõi Cực Lạc đó lại dung chứa những
tâm tham dục ăn uống phi thời ấy
sao? Những pháp môn này tu hành mong
cầu tha lực ảo tưởng như vậy thì
không bao giờ có giải thoát thật sự, phải không các bạn?
Bài kinh Tập Một Pháp
đã xác định rõ ràng như vậy, không còn có một giáo pháp nào
lừa đảo chúng ta được nữa. Không lìa tâm tham mà muốn chứng quả A La Hán, muốn
kiến tánh thành Phật và muốn trực vãng Tây Phương Cực Lạc, thì đó là giấc mộng
các bạn ạï!
Đây là con đường từ bỏ tâm tham đưa đến
làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi
mà đức Phật đã thường nhắc nhở chúng ta: ‚Này Vàsettha, nay ở
đời đức Như Lai xuất hiện là bậc A La Hán,
Chánh kiến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ
thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều
ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế
Tôn, đức Như Lai sau khi tự mình chứng ngộ
với thượng trí, thế gian này với Thiên
giới, Ma giới, Phạm thiên giới gồm cả thế giới này với
Sa Môn, Bà La Môn, Trời, Người lại tuyên
thuyết điều Ngài đã chứng ngộ, Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung
thiện, hậu thiện đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy Phạm hạnh
hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh‛. (Trường Bộ
Kinh tập 1, trang 425 kinh Tevija thuộc tạng kinh
Việt Nam do Hòa Thượng Minh Châu dịch).
Khi được nghe đức Phật dạy đạo
đức làm
Người, làm Thánh sống
không làm khổ mình,
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!