khổ người tức
là dạy sơ thiện, trung thiện, hậu thiện. Nghe dạy đạo đức như vậy ai mà không
muốn tu. Phải không các bạn?
Chỉ có từ bỏ
được tâm tham là các bạn đã chấm dứt được sanh tử
luân hồi, chứng
quả vô lậu A La Hán, quá dễ dàng
không có khó khăn, không có mệt nhọc, không
có phí sức. Vậy mà mọi người chịu ảnh hưởng của kinh sách tưởng
giải rồi
nghĩ rằng quả
A La Hán
tu rất khó khăn.
Vậy các bạn hãy
nghe tiếp lời đức Phật:
‚Người gia trưởng
hay con vị gia trưởng hay một người sinh ở giai
cấp hạ tiện nào nghe pháp ấy. Sau khi
nghe pháp người ấy sinh lòng tín
ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, vị ấy suy
nghĩ: ‚Đời sống gia
đình đầy những
phiền trược, con đường
đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có
thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn
thanh tịnh, trắng bạch như vỏ
ốc. Vậy
ta nên cạo bỏ râu tóc,
đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình‛. Một thời
gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ, bỏ tài sản
lớn, bỏ
bà con quyến thuộc
nhỏ, từ bỏ bà
con quyến
thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc đắp áo cà sa
và xuất gia từ bỏ
gia đình, sống không nhà cửa!‛.
‚Khi đã xuất
gia như vậy, vị ấy sống
chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ
nhặt, thọ lãnh và tu học
trong giới pháp,
thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh. Mạng sống trong sạch
giới hạnh đầy đủ, thủ hộ các căn, chánh niệm, tỉnh giác và biết tri
túc‛.
Đoạn kinh trên
đây là chỉ
cho con đường Phạm hạnh mà những ai muốn làm chủ sanh, già, bệnh,
chết và chấm dứt luân hồi đều phải
đi con đường này, không thể còn có một con đường nào
khác hơn được nữa.
Nếu có con đường
nào hơn khác nữa thì đó
không phải là con đường của đạo Phật mà đó là con đường
lừa đảo của tà giáo ngoại
đạo lường gạt người. Xin các bạn nên lưu ý.
Các bạn hãy
đọc kỹ lại đoạn kinh trên, vì trước khi
tuyên bố
con đường này đức Phật đã xác
định cho chúng ta biết:
“Bất cứ một
người nào muốn đưa ra một
giáo lý chỉ dạy con đường
tu tập giải
thoát sinh tử
luân hồi thì phải
là người chứng đạt được 10 danh hiệu như đoạn kinh trên đã nói:
1- Bậc A La
Hán
2- Bậc Chánh
Biến Tri
3- Bậc Minh
Hạnh Túc
4- Bậc Thiên
Thệ
5- Bậc Thế Gian
Giải
6- Bậc Vô
Thượng Sĩ
7- Bậc Điều
Ngự Trượng Phu
8- Bậc Thiên
Nhân Sư
9- Bậc Phật
10- Bậc Thế
Tôn’’
Người chứng
đạt được 10
danh hiệu này mới dám đưa ra con đường duy nhất cứu
cánh giải quyết mọi sự khổ
đau của kiếp
người. Trong khi thực hành
tu tập thì pháp
hành rất thực tế, cụ thể
qua những hành động sống đều
được gắn liền trong đời sống bình thường
hằng ngày, vì nó
là đạo đức nhân
bản - nhân
quả sống không làm khổ mình, khổ
người. Cho nên, ngay trong cuộc sống bình
thường hằng ngày mà
tâm tham, sân,
si đều đã được
từ bỏ
và đoạn diệt một cách tự
nhiên. Bởi vậy,
không còn có con đường nào khác hơn được nữa.
Xin các bạn lưu
ý và đọc lại đoạn
kinh trên để hiểu thấu suốt lời dạy
của Phật, nó không phải là lời nói suông
mà là một sự sống
của những bậc
Thánh A La Hán. Cho nên, các bạn đừng
xem thường những lời dạy này. Đó là những
lời dạy tâm huyết
của đức Phật gửi lại cho đời sau một thông điệp nói về sự sống
giải thoát mọi sự khổ đau của
kiếp người mà đức
Phật đã chỉ rõ mục đích của nó là tâm bất động trước các
pháp ác và
các cảm thọ,
đó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Kính thưa các bạn! Con đường ấy là con đường Thánh
thiện luôn luôn gắn liền với sự sống hằng ngày của mọi
người rất chân
thật, chứ không có
mơ hồ, trừu
tượng ảo giác
chút nào, nó không giống như những con đường ảo tưởng của các tông phái
các tôn giáo khác.
Đây các bạn hãy lắng nghe đức Phật
chỉ dạy con đường giải thoát rất thực tế và cụ thể. Sự
giải thoát ấy
chính nơi trạng
thái tâm của các
bạn mà không
ai không nhận
ra được:
‚Này Vàsettha, Ngươi nói Tỳ
kheo không có ái dục, Phạm
thiên không có ái dục. Vậy
giữa Tỳ kheo
không có ái dục với Phạm thiên không có ái dục, có thể
có một sự cọâng hành, cộng trú không?
- Thưa Tôn giả
Gotama, có thể được.
Lành thay!
Này Vàsettha Tỳ
kheo sau khi thân hoại mạng chung sẽ cộng
trú với Phạm thiên. Thật có thể có sự kiện ấy‛.
Đọc đoạn
kinh này ai cũng biết con người thường đau khổ
là vì tâm ái dục.
Nếu tâm
dục ái hết thì con người
giải thoát, không
còn đau khổ nữa.
Có phải vậy
không các bạn?
Đó là một sự
chân thật cụ thể không
mơ hồ, trừu tượng mà không còn ai dám cho rằng đây
là không đúng.
Muốn từ bỏ tâm dục ái
thì chỉ có con
đường duy nhất của đạo Phật như đoạn
kinh trên đã dạy,
ngoài con đường ấy ra,
thì không còn có con đường
nào khác nữa.
Cho nên, Bà La Môn bảo rằng: ‚Đây
là trực đạo, đây là chánh đạo. Mọi pháp
môn đều dẫn đến nơi cứu cánh giải
thoát‛, đó là lời nói suông. Lời nói suông là lời nói không chỉ rõ mục đích giải
thoát rõ ràng, cụ thể.
CÁI THẤY,
CÁI NGHE, CÁI CÂM THỌ,
CÁI TƯỞNG,
CÁI THỨC TRI KHƠNG PHÂI CỦA CON NGƯỜI
LỜI PHẬT DẠY
‚Vậy này
Bàhiya, Ngươi cần phải học tập như sau: ‚Trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy.
Trong cái nghe sẽ chỉ
là cái nghe. Trong cái thọ tưởng
sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri sẽ chỉ là
cái thức tri‛. Do
vậy, này Bàhiya, Ngươi không là
chỗ ấy‛.
(Tạng kinh
Phật Tự Thuyết trang 298)
CHÚ GIẢI:
Trong kinh sách
tưởng giải phát
triển sau thời đức Phật thường cho rằng: cái biết, cái thấy, cái
nghe là Phật
tánh, còn ở kinh
này đức Phật lại dạy khác:
‚Cái biết, cái thấy,
cái nghe không phải
là Ngươi, là
của Ngươi‛. Sau khi ngộ được
lý này,
Bàhiya là
một tu sĩ
ngoại đạo đã giác ngộ được Niết Bàn và chứng quả A La Hán.
Câu chuyện
xảy ra trong
thời đức Phật như
sau: ‚Bà La
Môn Bàhiya được mọi người cung kính, tôn trọng, cúng dường…
nên Ông
nghĩ rằng: ‚Với
ai là bậc A La
Hán hay đang đi trên đường A La Hán, thì
Ta là một trong những vị ấy‛. Được biết
những tư
tưởng này, có một người
thân của Bà La Môn Bàhiya
nói: ‚Này Bàhiya, Ngươi không phải
là A La
Hán và cũng không phải người
đang đi trên
con đường A La Hán.
Ngươi không có đạo
lộ ấy. Ngươi nên đến yết kiến Tôn Giả Gotama, bậc A
La Hán Chánh Đẳng Giác thì người sẽ rõ‛.
Sau khi đến gặp
Tôn Giả Gotama
ba lần hỏi đạo, trong khi đức Phật
đang đi khất thực, nên không thể giảng nói dài dòng được. Vì thế đức Phật chỉ thẳng: ‚Cái biết, cái thấy,
cái nghe không phải là
ta, là của
ta, là bản ngã
của ta‛. Khi được đức
Phật trả lời
như vậy thì Bàhiya đã hiểu rõ con
đường dẫn đến giải thoát không có gì hơn là các pháp
trên thế gian này không có vật gì là ta, là của ta, là bản
ngã của ta
chỉ cần buông xuống biết là ngay đó chứng quả A La Hán.
‚Buông xuống đi! Buông xuống đi!
Chớ giữ làm
chi có ích gì?
Thở ra chẳng lại còn chi nữa,
Vạn sự vô
thường buông xuống đi !‛. Buông xuống hết tất cả các bạn còn có cái
gì, các bạn
có biết không?
Buông xuống
hết chỉ còn
là một tâm thanh thản, an lạc và vô sự các bạn ạ!
nơi đó là quả vị A La Hán.
Sau khi được
Phật khai ngộ xong, thì hôm ấy
Bàhiya đã bị
bò húc chết.
Trong lúc bị bò
húc ông không bối rối sợ hãi chỉ bình tĩnh giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự,
vì lúc bấy giờ thân tâm này không phải là ông, là của ông, là bản ngã của ông,
nên ông thanh
thản, an lạc và vô sự trong
trạng thái ấy (Đại Bát Niết
Bàn).
Khi đám tang
Ông xong nhiều người
đến hỏi Phật: “Bà La Môn
Bàhiya chết đi về đâu?”. Đức phật xác định: Với thành tâm thưa
hỏi pháp, với lòng
tin bất diệt của Bà
La Môn Bàhiya khi nhận ra tất cả
các pháp không phải
là ta,
là của ta,
là bản ngã của ta thì
ông chỉ còn nhận ra trạng thái tâm bất động
trước các ác pháp và các cảm thọ.
Nhờ sống trong trạng thái
tâm bất động ấy.
Ông
đã Nhập vào Đại
Bát Niết
Bàn và chấm dứt tái
sanh luân hồi. Các
bạn hãy đọc kỹ lưỡng
lại đoạn kinh này:
‚Này các Tỳ kheo, Hiền
trí là Bàhiya đã hành trì tùy pháp, đúng pháp và không có
phiền nhiễm Ta với những tranh luận về pháp.
Này các Tỳ
kheo, Bàhiya đã nhập
Niết Bàn‛.
Tóm lại, người
tu theo Phật giáo đâu phải tu tập khó khăn như người ta tưởng mà chỉ cần biết
buông xả cho thật sạch dục và ác pháp, thì quả A La Hán ở tại đó.
Thường trong
kinh điển Phật
giáo có người nghe Phật thuyết
pháp xong liền chứng đạo. Điều này có thật hay không? Điều này có thật. Vì
có nhiều người
đã tu chứng
quả A La Hán mà không biết cứ
nghĩ rằng quả A La Hán là cao siêu, là tu tập khó chứng lắm, nhưng không ngờ
nó lại ở
trong tầm tay của mọi người.
Người tu hành
chỉ cần biết buông
xả từ bỏ tâm
tham, sân, si thì
ngay đó là Niết
Bàn, là chứng quả A La Hán.
Trong Thanh
Tịnh Đạo có một vị Thượng Tọa tu chứng quả A La Hán mà không biết, đến khi nhờ người thị giả đỡ ngồi dậy thì biết
ngay đó là mình đã chứng quả A La Hán.
Các bạn
hãy đọc một đoạn trong
Luận Thanh Tịnh Đạo số 135 trang
74 nói về một vị trưởng lão bệnh
đang nằm chờ
chết. Tăng chúng và phật tử đến
hỏi thăm Ngài tu hành có đắc địa vị siêu
thế (A La
Hán) không? Ngài bảo:
‚Ta không đắc
địa vị siêu
thế nào hết‛.
Khi ấy có một
vị Tỳ
kheo trẻ tuổi làm thị giả
theo hầu Ngài và bảo:
‚Bạch Đại Đức mọi người
vì tưởng Ngài đã đắc Niết Bàn nên mới đi hàng chục dặm đường để đến đây hỏi thăm Ngài,
Ngài trả lời như vậy, họ sẽ vô cùng thất vọng. Tu hành như Ngài không lẽ
chỉ chết như một phàm phu thường tình
thì đau lòng lắm!
Vị trưởng lão trả lời: ‚Này Hiền giả vì muốn gặp đức Thế
Tôn tương lai (Metteyya) nên ta không nổ
lực để đắc tuệ giác. Vậy
bây giờ Hiền
giả hãy đỡ ta
ngồi dậy may ra có đắc chăng?
Vị Tỳ kheo
liền đỡ Ngài dậy rồi đi ra. Khi vị Tỳ kheo ấy vừa ra khỏi, Trưởng Lão liền đắc quả A La Hán, và khảy móng
tay ra hiệu Tăng chúng tụ lại bạch
Ngài:
- Bạch Đại Đức,
Ngài đã làm một việc rất khó, là hoàn thành Thánh quả vào lúc lâm chung.
- Chư Hiền
việc ấy không
khó. Nhưng Ta sẽ bảo cho chư Hiền biết là việc gì khó thật sự.
Chư Hiền, từ khi xuất gia cho đến ngày nay,
Ta không thấy có một
hành vi nào Ta
làm mà không
ý thức, không có Chánh niệm kèm theo‛.
Đọc đoạn luận
trên đây chúng ta nhận xét câu: ‚Từ khi xuất
gia cho đến ngày nay Ta không thấy có một hành vi nào, Ta làm mà không ý thức, không
có chánh niệm kèm theo‛. Đọc xong
đoạn luận này chúng ta rất thấm thía cái khó của người tu hành theo đạo Phật
không phải chỗ nhập Bốn Thánh Định, thực hiện Tam Minh chứng quả A La Hán mà ở
chỗ Tỉnh Giác Chánh Niệm. Có tỉnh giác chánh niệm ta mới buông xả sạch dục và
ác pháp. Khi buông xả sạch dục và ác pháp là chứng quả
A La Hán,
chứ không phải
còn tu
tập pháp
môn nào cả. Đạo Phật
thì chỉ có tu tập bấy nhiêu thôi.
Vị Trưởng
lão này đã trình bày cho chúng ta thấy
pháp hành và kết quả
của chánh niệm tỉnh giác. Nhưng Ngài không biết đó là
chứng quả A La Hán nên chờ đợi đức
Thế Tôn tương lai để xác định chỗ
tu của Ngài.
Trong khi
Ngài bệnh đau đang nằm chờ chết, không ngồi dậy nổi, mới khởi ý nhờ vị Tỳ kheo
trẻ tuổi
đỡ dậy, trong
khi mọi người đến thăm.
Khi khởi ý
muốn ngồi dậy, đó là Ngài đang sử dụng ‚DỤC
NHƯ Ý TÚC‛
nhưng Ngài không biết. Khi được ngồi
dậy Ngài thấy mình không còn bệnh đau yếu đuối nữa.
Ngài mới biết
mình đã chứng quả A La
Hán vô lậu.
Vì vô lậu
nên tác ý muốn
ngồi dậy bệnh liền biến mất và Ngài tự tại ra
đi.
Chính chỗ này là
chỗ tâm thanh thản, an lạc và vô sự là quả A La Hán mà có ai ngờ đâu.
Khi sử dụng năng lực của Tứ Thần Túc thì mới biết mình chứng quả
A La Hán. Hoặc có người chỉ thẳng
cho ta thì ta mới nhận ra trạng thái
tâm thanh thản, an lạc và vô
sự là trạng thái chứng quả A La Hán.
Trong thời đức Phật
còn tại thế
có nhiều vị Bà La
Môn đã
tu tập được tâm
thanh thản, an lạc và vô sự.
Nhưng không biết đó là quả A La Hán nên khi nghe đức Phật khai ngộ
thì họ mới nhận ra. Khi đã nhận ra mới biết mình đã chứng quả A La Hán. Cho nên, có những đoạn
kinh khi đức Phật giảng xong là có người chứng quả A La Hán ngay liền, là vì họ
tu tập rất lâu mới chứng đạt được
chỗ tâm
Chánh Niệm Tỉnh Giác như
vị Trưởng lão
trong Luận Thanh Tịnh Đạo
đã nói: ‚Việc
chứng quả A La
Hán không khó, nhưng
Ta sẽ bảo
cho chư Hiền biết
là việc gì khó
thật sự. Chư Hiền, từ khi Ta xuất
gia cho tới ngày nay, Ta không thấy có một hành vi nào ta làm mà không ý
thức, không có chánh niệm kèm
theo‛.
Vị Trưởng
lão tu như vậy, sống
như vậy, làm sao không chứng quả
A La Hán được. Phải không các bạn?
Cho
nên, các
bạn đừng hỏi chứng quả A
La Hán.
Mà hãy hỏi
các bạn có Tỉnh Giác Chánh Niệm trong từng hành động của các
bạn chưa?
Quả A La Hán
không khó mà khó ở chỗ Chánh Niệm Tỉnh
Giác xin các bạn hãy lưu ý điều này để sự tu tập của các bạn có kết quả tốt đẹp.
Â
NHIẾP PHỤC THÂN TÂM
LỜI PHẬT DẠY
‚Trong khi
Thế Tôn an cư trong mùa mưa, một
cơn bệnh trầm trọng khởi lên, rất đau
đớn gần như muốn
chết. Nhưng Thế Tôn giữ tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác, chịu đựng cơn đau ấy. Không
một chút ta thán. Thế
Tôn tự nghĩ: ‚Thật không
hợp lẽ nếu ta
diệt độ mà không có
một lời với
các đệ tử hầu cận
Ta, không từ biệt
chúng Tỳ kheo. Vậy
Ta hãy lấy
sức tinh tấn, nhiếp phục cơn bệnh này, duy trì mạng
căn và
tiếp tục sống. Và Thế Tôn với
sức tinh tấn nhiếp
phục bệnh ấy duy trì mạng căn‛.
Rồi Thế Tôn
lành bệnh. Sau khi lành bệnh không bao lâu, đức Phật rời
khỏi...‛.
(Kinh Trường
Bộ tập I trang 582, kinh Đại Bát Niết Bàn).
CHÚ GIẢI:
Đoạn kinh này
xác định về thân bệnh
rất rõ
ràng: Thân tứ đại là
thân nhân quả. Thân nhân quả là thân vô thường, thân vô
thường là phải
có bệnh tật
và khổ đau,
dù người đó đã tu chứng đạo như đức Phật, nhưng thân nhân quả phải bệnh tật như
những thân nhân quả khác,
chứ không phải
người chứng đạo là thân nhân quả
không có bệnh tật. Đó là qui luật chung nhân quả của các pháp do duyên hợp thành,
nên có thân
phải có bệnh
tật, nhưng đạo Phật làm chủ sanh, già, bệnh, chết một cách dễ dàng,
không có khó
khăn, không có mệt nhọc. Vì thế,
đối với bệnh tật đức Phật chỉ dùng
Chánh Niệm Tỉnh
Giác và tinh tấn tác ý đẩy lui bệnh tật ra khỏi thân
Tứ Đại.
Đọc đoạn
kinh trên đây chúng ta thấy rất rõ ràng: ‚Trong khi Thế Tôn an cư trong
mùa mưa,
một cơn bệnh
trầm trọng khởi lên, rất đau đớn, gần
như muốn chết‛. Đúng vậy, dù tu hành có chứng đạo
nhưng thân tứ đại vẫn là thân tứ đại nên phải bệnh tật đau khổ cũng
như mọi thân
người khác. Nhưng người
tu hành theo
Phật giáo có
pháp hành Định Niệm Hơi Thở, có
pháp hành Tứ Niệm
Xứ. Tứ Niệm Xứ
sung mãn thì có đủ
năng lực Bảy Giác
Chi, là có Tứ Thần
Như Ý Túc.
Nhờ đó nên nhiếp phục và đẩy lui tất cả bệnh tật không có
khó khăn, không
có mệt nhọc
như trên đã nói. Cho nên, người tu theo Phật giáo không đi bác sĩ, không
nằm bệnh viện. Còn những người tu
hành không đúng
chánh pháp như các Thầy Đại Thừa
và Thiền Tông không làm chủ được bệnh tật nên phải đi bác sĩ, nằm bệnh viện uống
thuốc và chích thuốc. Họ đã tu hành sai pháp, chứ pháp môn của Phật là
pháp môn làm chủ
sanh, già, bệnh,
chết rất tuyệt vời, nó giúp cho người tu hành làm chủ
sanh tử chấm dứt luân hồi.
Trên đây
là một đoạn kinh dạy trị bệnh
rất hay, cụ thể
và rõ ràng.
Đoạn kinh này chỉ có người tu chứng mới hiểu được nghĩa vì
đó là kinh nghiệm bản
thân, còn các
nhà học giả, khi đọc
đến đoạn kinh này họ đều giảng
dạy lướt qua, chứ
không thể nào hiểu được. Do không hiểu nên không nêu rõ ý nghĩa
cách thức làm chủ bệnh.
Đây các bạn
hãy lắng nghe lời dạy này: ‚Nhưng Thế Tôn giữ tâm
Chánh Niệm Tỉnh Giác chịu đựng cơn đau ấy,
không một chút ta thán‛.
Đọc câu kinh
này, các bạn có biết rõ Phật đang trị bệnh của mình, như thế nào không?
Câu kinh này
lời dạy quá cô đọng,
khiến cho người đọc đến đây
không biết đức Phật dùng pháp
môn nào để đối trị
thân bệnh của mình
gần như sắp chết.
Kính thưa các bạn! Nếu các bạn không hỏi ý nghĩa của đoạn kinh này
thì các bạn chẳng bao giờ
biết Phật dùng
pháp môn nào để đẩy lui
bệnh cả. Chúng tôi xin các bạn
lưu ý những cụm từ Chánh Niệm Tỉnh Giác. Chánh Niệm Tỉnh Giác là tên một pháp
môn trong 4 pháp môn mà đức Phật dạy cho
chúng ta
đầu tiên khi mới bước
chân vào đạo
tu tập, đó
là pháp môn Tứ
Chánh Cần. Trong
pháp môn Tứ Chánh Cần gồm có:
1 - Chánh Niệm
Tỉnh Giác Định
2 - Định Vô
Lậu
3 - Định
Sáng Suốt
4 - Định Niệm
Hơi Thở
Bây giờ các
bạn đã hiểu rõ Chánh Niệm Tỉnh Giác là một pháp môn đối trị bệnh tật mà ở đây
đức Phật đã dùng
nó để trị bệnh gần chết của mình. Nhưng Chánh Niệm Tỉnh Giác
chỉ là
để chịu đựng cơn
đau cũng giống
như
người ôm
phao vượt biển. Như đoạn kinh trên đã dạy:
‚Giữ tâm Chánh
Niệm Tỉnh Giác chịu
đựng cơn đau
không một chút ta thán‛.
Cho nên, khi có những cơn đau như dao cắt ruột thì chỉ còn có cách giữ
gìn tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác
trên Thân Hành
Niệm Nội (hơi thở) hay Thân Hành
Ngoại (hành động tay chân) nhờ giữ tâm tỉnh giác trên thân hành ta mới chịu đựng
được những cơn đau như ai cắt ruột, bứt gan.
Đối với đạo Phật
đây là phương pháp đầu tiên để
chiến thắng giặc sanh tử, giặc bệnh tật và giặc luân hồi. Đối với những
loại giặc này, nếu các bạn không chịu rèn luyện tu tập cho thuần thục,
nhu nhuyễn những
pháp môn này thì rất khó cho các bạn chiến thắng
chúng.
Kính thưa
các bạn! Ở
đây đức Phật
đã thực hiện các pháp môn này để trị ngay trên thân bệnh gần chết của mình,
hành động ấy rất
rõ ràng và cụ thể nhất trong
đoạn kinh này. Nhờ đó lòng tin các bạn lại càng gia tăng lên bội phần;
nhờ đó sự học tập và tu luyện lại càng siêng năng hơn. Lúc nào cũng lấy gương hạnh của Phật mà
áp dụng vào cho mình;
nhờ biết dùng những
pháp môn này
để đối trị những
ác pháp đang tấn công
ào ạt vào
thân
tâm; nhờ có
những pháp môn này mà tâm các bạn mới bất động hoàn toàn, mới ly dục ly ác pháp
được trọn vẹn.
Kính thưa các bạn! Như các bạn đã biết Chánh Niệm
Tỉnh Giác trên thân hành là pháp môn để
vượt qua những cơn đau ghê gớm, khốc liệt như dao cắt, nhưng với hành giả
Phật giáo nhờ Chánh Niệm Tỉnh Giác
nên không một chút
rên la kêu
khóc. Đó là
phương pháp vượt qua cơn đau, chứ không
phải là phương
pháp trị cơn đau. Xin các bạn lưu ý: Nó giống như người bị sóng gió ba
đào giữa biển chỉ còn ôm phao vượt biển, nó giống như lỗ châu mai của người lính
đánh trận, khi giặc
bắn rát quá chỉ
còn núp dưới lỗ châu mai để tránh đạn,
chờ lúc nào thuận tiện nhào lên là đánh lại
ngay liền. Với giặc sinh tử khôn
ngoan vô cùng
chúng đánh chúng ta nhiều mặt, nếu không
kịp phát hiện ra là chúng ta bị thua trận ngay liền. Vậy đánh lại
ngay liền là đánh bằng pháp
môn
nào?
Chúng ta
hãy đọc đoạn kinh thứ
hai để xem đức Phật dùng pháp môn
gì để nhiếp phục cơn đau và duy trì mạng
căn để tiếp tục sống.
Đây, chúng
ta hãy lắng
nghe đức Phật dạy: ‚Thế Tôn tự nghĩ:
‚Thật không hợp lẽ
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!