nếu Ta diệt độ
mà không có một lời với các đệ tử hầu cận Ta, không từ biệt chúng Tỳ kheo.
Vậy Ta hãy
lấy sức tinh
tấn, nhiếp phục cơn bệnh
này, duy trì mạng căn và tiếp tục sống‛.
Kính thưa
các bạn! Các bạn hãy
lưu ý những cụm từ dưới đây, đó
là những cụm từ cần phải hiểu nghĩa rõ ràng:
1- Hãy lấy sức
tinh tấn.
2- Nhiếp phục
cơn bệnh này.
3- Duy trì mạng
căn và tiếp tục sống.
Cụm từ thứ nhất
có nghĩa là
hãy lấy sức tinh tấn,
tức là phải
siêng năng ôm pháp
môn cho thật chặt, không
được lơi lỏng. Như
người ôm phao vượt biển.
Ví dụ: Khi thân
bị bệnh đau bất
cứ chỗ nào, nặng
nhẹ mặc kệ
chúng ta hãy cố gắng dựng thân ngồi
kiết già sừng sững đừng nên nằm,
rồi nhiếp tâm
thanh thản, an lạc
và vô sự, khi tâm thanh thản, an
lạc và vô sự thì tâm định trên hơi thở
ra hơi thở vào một cách nhẹ nhàng rõ ràng và cụ thể. Khi biết
tâm đã định trên hơi thở như vậy thì chúng
ta tác ý nhắc:
‚Thọ là
vô thường cái đau bệnh
này phải
đi khỏi nơi
thân tâm ta‛ (Nhất là phải chỉ rõ
bệnh gì? Bệnh
ở đâu?). Khi tác ý xong câu này thì tiếp
tục tác ý
câu thứ hai:
‚An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra‛.
Khi tác ý xong thì cứ bám cho chặt trong hơi thở vô, hơi thở ra, ý thức chỉ biết
hơi thở vô ra đều đặn, đừng lưu ý đến bệnh đau,
thỉnh thoảng lại
tác ý: ‚Thọ
là vô thường cái thân bệnh
này hãy đi!
Đi! Đi cho khỏi thân ta‛. Trên đây là phần nhiếp phục cơn bệnh
đau mà trong kinh chỉ
nói vắn tắt, khiến
cho mọi người khó hiểu vì lời dạy quá cô đọng: ‚Ta hãy lấy sức
tinh tấn nhiếp phục cơn bệnh
này‛, đọc đến
đây không ai biết pháp trị bệnh của đức Phật như thế
nào? Nếu chúng tôi không giải thích thì các bạn không bao giờ
hiểu rõ nghĩa
lý của đoạn kinh này
thì muôn đời đoạn kinh này
vẫn khép kín mà các nhà học giả
không bao giờ khám phá ra được. Phải không các bạn? Đó là pháp môn như lý tác ý
và pháp môn Định Niệm Hơi Thở.
Cụm từ thứ
ba là duy trì mạng căn và tiếp tục sống, lời dạy này
cũng làm mọi
người không thể hiểu.
Thưa các bạn! Khi duy
trì mạng căn và tiếp
tục sống thì chúng
ta phải tu tập pháp môn
gì đây? Đó là
pháp môn Tứ Niệm Xứ các
bạn ạ! Pháp
môn Tứ Niệm Xứ còn gọi là pháp môn
quét tâm. Đây
các bạn hãy lắng nghe pháp môn quét tâm:
‚1- Trên
thân quán thân để khắc phục tham ưu.
2- Trên
thọ quán thọ để khắc
phục tham ưu.
3- Trên tâm
quán tâm để khắc phục tham ưu.
4- Trên pháp
quán pháp để khắc phục
tham ưu‛.
Bốn pháp môn
Tứ Niệm Xứ này chúng ta phải tu tập như thế nào?
Kính thưa
các bạn! Muốn
trả lời câu hỏi
này, xin
các bạn hãy trả lời câu hỏi của
chúng tôi. Khi thân tâm
các bạn không
có chướng ngại pháp
thì trạng thái ấy
là gì? Các bạn
không trả lời được chúng
tôi xin trả lời thay. Đó
là trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô
sự. Các
bạn có nhận
ra trạng thái này
chưa? Nếu chưa thì các bạn
hãy ngồi yên lặng rồi quan
sát thân, thọ,
tâm, pháp thì chỉ
trong phút giây các bạn
sẽ nhận
ngay liền. Nếu các bạn đã nhận ra
thì đó là trạng thái của tâm Tứ Niệm Xứ. Khi có
một niệm ác
tác động vào
thân tâm của
các bạn thì các bạn quan sát thấy ngay
liền. Lúc bấy giờ
các bạn dùng
cây chổi thần pháp
môn như lý
tác ý mà
quét niệm ác đó
ra liền, như đoạn kinh trên đức Phật giữ tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác, chịu đựng cơn
đau ấy, không rên la một chút xíu nào cả. Từ bất động tâm ấy rồi
siêng năng dùng
pháp như lý tác ý quét bệnh ra như trên
đã dạy. Cuối
cùng đẩy lui được bệnh thì thân
tâm trở về trạng
thái thanh thản, an lạc và vô sự.
Thưa các bạn!
Trạng thái tâm thanh thản, an lạc và vô sự trong đó còn có tâm tham, sân, si hay
những sự phiền
muộn khổ đau nữa
không? Nếu có khổ đau,
có phiền não,
còn tham, sân, si thì
làm sao gọi là
tâm thanh thản, an lạc và
vô sự được. Phải
không các
bạn?
Người đời
vì tâm còn
tham, sân, si dễ
sanh ra phiền muộn, khổ đau nên tuổi thọ giảm lần, vì thế nên không duy trì mạng
căn được và không thể tiếp tục sống
lâu được. Cho
nên, đoạn kinh này dạy: ‚Duy trì
mạng căn tiếp tục sống‛
tức là đức Phật đang
giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự, đó là phương pháp duy trì mạng căn và tiếp tục sống
trường thọ.
Kính thưa các bạn! Phật pháp không dối người, chỉ
có con người không chịu tu tập nên không làm chủ sự khổ đau của kiếp người mà
thôi. Bài kinh Đại Bát Niết Bàn đã xác định rõ ràng. Pháp môn nào đẩy lui bệnh
tật và pháp môn nào duy trì mạng
căn sống lâu muôn tuổi như
trên đã chú
thích. Đây là những lời Phật
dạy chứ không phải chúng tôi tự kiến giải theo kiểu Đại Thừa. Xin các bạn tư duy cho kỹ đừng vộâi bảo rằng
chúng tôi đúng mà cũng đừng vội bảo rằng chúng tôi sai. Vì những lời dạy này sẽ
được áp dụng vào đời sống của mọi người. Và những kết quả đối trị được những bệnh
tật của cơ thể, thì đó sẽ là câu trả lời đúng, sai.
Đây là một
bài kinh rất sống động, chính lấy thân Phật làm một thí điểm để áp dụng các pháp mà đức Phật đã dạy chúng
ta. Như vậy rõ ràng đức Phật do từ các pháp môn này mà làm chủ sự sống chết,
bệnh tật thì chúng
ta cũng ngay từ trên các pháp môn
này mà tu tập thì cũng làm chủ được
sự sống
chết, bệnh tật và
kéo dài
tuổi thọ, muốn sống muốn
chết tự tại như Phật ngày xưa.
Một bài pháp
có giá trị lợi ích rất lớn cho loài người. Xin
các bạn hãy lưu
ý và đặt trọn
lòng tin nơi pháp bảo này để mang lại
lợi ích
cho
mình, cho người, nhờ đó Phật pháp sẽ
sáng chói huy hoàng mãi mãi muôn đời.
Â
PHÁP MƠN TÁC
Ý
LỜI PHẬT DẠY
‚Này Ananda
Ta nay đã già, đã thành bậc trưởng thượng,
đã đến
tuổi lâm chung, đã đến 80 tuổi.
Này Ananđa,
như cỗ xe
đã già mòn, sở dĩ
còn chạy
được là nhờ
dây thắng chằng chịt, cũng vậy thân Như Lai
được duy trì sự
sống giống như chính nhờ chống đỡ dây chằng.
Này Ananda,
chỉ khi
Như Lai không tác ý đến tất cả tướng,
với sự diệt trừ một
số cảm thọ, chứng và
trú vô tướng tâm định, chính khi ấy
thân Như Lai được thoải mái‛.
(Kinh Trường
Bộ tập I trang 584, kinh Đại Bát Niết Bàn)
CHÚ GIẢI:
Kính thưa
các bạn! Đoạn
kinh trên
đây, chỗ
chúng ta chú ý là pháp môn ‚Tác Ý‛, nhờ có tác ý mà đức Phật diệt trừ được một số cảm thọ tức là bệnh đau,
nhờ có tác
ý mới chứng và an
trú trong vô tướng tâm định,
nên thân tâm Phật mới được thoải mái, an lạc, nhẹ nhàng.
Như vậy, đoạn
kinh này dạy rất cụ thể, rõ ràng, khi đức Phật
xác định thân tứ đại của mình
già yếu lúc 80
tuổi: ‚Này Ananda, Ta nay đã
già, đã thành
bậc trưởng thượng, đã đến tuổi
lâm chung, đã đến 80 tuổi”.
Đúng vậy
thời gian này đức Phật
đã già yếu, thân tứ đại đã cằn cỗi, suy mòn chỉ còn chờ bỏ xác thân này
nữa mà thôi.
Kính thưa
các bạn! Đối với đạo Phật có đôi
mắt nhìn các
pháp trên thế gian
như thật, bởi vì tất cả
pháp đều chịu
chung một qui luật vô thường.
Trên đời này không có một pháp gì (một vật gì) tồn tại mãi, dù cho đất,
đá, núi, sông; dù cho trăng,
sao, mặt trời, trái đất vẫn phải theo qui luật vô thường hoại diệt.
Người tu
theo Phật giáo
không bao giờ tham
sống, sợ chết;
không bao giờ ước mong
cho thân này sống
lâu, trường thọ
muôn tuổi,
mà chỉ sống,
sống có ích lợi cho loài người, cho thế
gian này, còn sống không
ích lợi thì họ sẽ ra đi chẳng hề
thương tiếc một vật gì cả. Danh lợi đối
với họ chẳng
có nghĩa lý gì,
như sương mai buổi sáng, như nước chảy
qua cầu.
Kính thưa
các bạn! Sự
vô thường ấy của
vạn vật, chính vì vạn vật do từ các
duyên nhân quả tạo thành,
nên phải theo định
luật duyên hợp mà
có thành, có hoại. Dù cho
Tiên đạo, Yoga có cố gắng
tu tập để
thân tứ đại
này bất tử. Nhưng
không thể làm
trái lại với
qui luật vô thường
của luật nhân
quả được. Ngoại trừ tất
cả các tôn
giáo chỉ có Phật giáo mới làm chủ được nhân quả. Các bạn hãy lắng nghe
đức Phật dạy: ‚Này Ananda, nay Như Lai
đã tu Bốn Thần Túc,
tu tập nhiều
lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững,
điêu luyện, thiện xảo. Này
Ananda, nếu Như Lai muốn
có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại‛. Đấy các bạn có nghe thấy
chăng? Phật pháp có thể duy trì mạng sống, nhưng sống để
làm gì? Sống phải
có ý nghĩa với
đời, có lợi
ích cho mọi
người, chứ sống không
ý nghĩa, không
ích lợi thì sống để làm gì? Khi
đã tự
tại trong sự sống chết
mà sống
không ý
nghĩa, không lợi ích cho đời, thì chết đi lại càng tốt hơn. Phải không các
bạn?
Nhưng thưa
các bạn! Một ảo vọng trường sinh bất tử,
Tiên đạo đã lừa đảo
vua Đường Minh Hoàng
bỏ bao công
sức đi tìm
thuốc trường sinh bất tử, nào
có được gì đâu?
Cuối cùng Đường Minh Hoàng vẫn phải theo luật vô thường sinh diệt, không thể nào làm khác được (điều đáng
thương cho Đường Minh Hoàng
đã bị lừa đảo
mà không biết).
Thật đáng thương thay!
Ở đây, đạo Phật đã xác định rõ ràng về thân tứ
đại vô thường: ‚Ta nay đã già, đã thành bậc trưởng thượng, đã đến tuổi lâm
chung, đã đến 80 tuổi. Này Ananda
như cỗ xe đã già mòn, sở dĩ còn chạy được là nhờ dây thắng chằng chịt, cũng vậy
thân Như Lai được duy trì sự sống giống
như chính nhờ chống đỡ dây chằng. Này Ananda, chỉ trong khi
Như Lai không tác ý đến tất cả
tướng, với sự
diệt trừ một số cảm thọ, chứng và an trú vô tướng tâm định, chính khi ấy thân Như
Lai được thoải mái‛.
Thân tứ đại vô thường khi già
yếu suy mòn thì biết
bao nhiêu cảm thọ (bệnh tật) đổ
dồn ra, dù
đức Phật đã
tu hành chứng
đạo, có đầy đủ Tứ Thần
Túc nhưng qui luật
nhân quả vô thường không tha thứ
cho một ai, khi còn mang thân tứ đại
nhân quả này
thì còn bị qui luật
nhân quả không
ai thoát khỏi.
Nếu đức Phật không
có pháp môn
như lý tác ý thì
làm sao diệt trừ được một số
các cảm thọ tức là bệnh
đau? Làm sao giữ
tâm bất động
được. Phải không các bạn?
Đọc đến
đoạn kinh này
chúng ta rất thương
xót tất cả
chúng sanh, khi thân tứ đại
của họ già yếu suy mòn, không một người nào tránh khỏi qui luật nhân quả này.
Vì thế, mọi người đều phải có ngày già yếu. Già yếu thì nay đau bệnh này, mai
đau bệnh khác, khi thời tiết thay đổi thì thân đau nhức khắp người, thật là khổ
sở vô cùng, vô tận. Phải không các bạn?
Tóm lại,
đoạn kinh trên, nếu
ai tu tập nhiếp tâm và an trú tâm được trên thân
hành nội hay thân hành ngoại là có thể đẩy lui
được bệnh khổ trên thân làm chủ được bệnh tật. Do những lời dạy này
mà Thầy đã thiện xảo biến
đề mục thứ năm của Định Niệm Hơi Thở trở thành một pháp môn thân hành đưa tay
ra đưa tay vô để nhiếp phục mọi
bệnh khổ
trên thân của các bạn bằng
câu tác ý:
‚An tịnh thân
hành
tôi biết
tôi đưa tay
vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra‛. Các bạn có tin pháp này
không? Nó là pháp môn Thân Hành Niệm đấy các bạn!
Nếu tin thì các bạn tu
tập sẽ đem lại lợi ích
lớn cho các bạn, các
bạn sẽ đẩy lui được bệnh khổ trên
thân, chứ Thầy đâu có lợi ích gì. Phải không các bạn?
Tất cả những
lời Phật dạy đều đem lại lợi ích
cho mọi người,
cho tất cả
chúng sanh, Những lời dạy
của đức Phật,
không có lời dạy
nào vô
ích. Các bạn cứ xét
xem lại trong bốn tập Những Lời Phật Dạy có lời nào dạy thừa
dư không lợi ích chưa? Lời dạy nào cũng đều mang đến sự an
vui và hạnh phúc cho mọi người; lời dạy nào cũng mang đến một
tình thương yêu chân thật và tha thứ cho nhau những lỗi lầm.
Â
LỜI DI CHÚC
CUỐI CÙNG
LỜI PHẬT DẠY
‚Này Ananda,
những ai sau khi Ta diệt dộ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương
tựa chính mình, không nương tựa một
gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn
đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa
vào một pháp
gì khác, những vị ấy, này
Ananda là những vị tối thượng trong hàng Tỳ kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi‛.
(Trường Bộ
Kinh tập I trang 585, kinh Đại Bát Niết Bàn)
CHÚ GIẢI:
Trước khi nhập
Đại Bát Niết Bàn đức Phật đã ân cần dạy bảo ông
Ananda những điều cần
thiết trên đây. Vậy chúng
ta cứ theo lời dạy
này mà tu tập, không
nương vào một
người nào cả.
Theo lời dạy trên
đây, chúng ta
tu hành theo Phật
giáo thì không nên
nương tựa vào bất
cứ một vị Phật nào, một vị Tổ Sư nào,
mà hãy nương tựa vào
chính mình, lấy
mình làm ngọn đèn
soi sáng cho chính
mình đi, không nương tựa vào một gì khác, dùng Chánh
pháp làm ngọn đèøn,
dùng Chánh pháp
làm chỗ nương tựa, không nương
vào một pháp gì khác. Vậy Chánh pháp ở
đây là pháp nào?
Đối với những
lời dạy trong kinh sách Nguyên Thủy thì Chánh
pháp của Phật
là Tứ Niệm Xứ.
Cho nên, chúng ta nhận xét những
lời dạy trong kinh sách phát triển sau này đều không phải là Chánh pháp, vì những
pháp của họ không phải
là pháp môn
Tứ Niệm Xứ. Không phải pháp môn Tứ Niệm Xứ là không
phải Phật thuyết
mà do các Tổ sau
này biên soạn viết ra. Đó
là một loại pháp
môn cầu tha lực của
ngoại đạo, được cải cách
theo thời đại cho thích
hợp với sự
mê tín của những
người dân còn lạc hậu, của những người dân trình độ kiến thức từ
các bộ lạc xa
xưa đến ngày nay. Khi biên soạn ra những
bộ kinh sách này,
các Tổ Sư khéo đặt cho giáo pháp của mình một cái tên thật là vĩ đại PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA,
còn Thiền Tông lại đặt cho giáo pháp của mình
một
cái tên thật
là kinh khủng PHẬT GIÁO TỐI THƯỢNG THỪA.
Tên pháp thì rất hay nhưng tu tập
pháp thì chẳng có gì
lợi ích thiết thực, cụ thể, chỉ toàn sống trong ảo tưởng, mơ mộng.
Đoạn kinh trên
có một cụm từ khiến
cho các bạn nên lưu ý. Đó là: ‚dùng
Chánh pháp làm ngọn đèn,
dùng Chánh pháp làm chỗ
nương tựa, không nương tựa vào một pháp nào khác?‛.
Khi nói đến Chánh
pháp thì Đại thừa
cũng gọi
pháp môn của
mình là Chánh
Pháp. Vậy chúng ta muốn biết Chánh pháp như thế nào đúng và như thế nào
sai đây?
Kính thưa các bạn! Chánh pháp ở đây là một pháp duy nhất để đưa dắt con người
đi đến cứu cánh hoàn toàn giải thoát, mà đức Phật khi còn sống
Ngài đã xác định
rõ ràng
để các bạn không còn lầm lạc với tà pháp mà các nhà
Đại Thừa khéo lồng
vào giáo pháp của đức Phật.
Giáo pháp của Đại Thừa gồm có: Nào là tụng niệm, cúng bái, cầu siêu, cầu an;
nào là niệm Phật Di Đà cầu vãng
sanh Cực Lạc;
nào là niệm chú, bắt ấn
hô phong hoán
vũ; nào là ngồi thiền kiến tánh thành Phật; nào lạy hồng
danh sám hối để tiêu trừ tai ách; nào Sổ Tức Quán; nào là Lục Diệu Pháp Môn;
nào là Tham
Công Án,
Tham Thoại Đầu; nào là tu Nhĩ Căn Viên Thông; nào là biết vọng liền buông; nào
là chẳng niệm thiện niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền v.v.. Những pháp môn của
Đại Thừa trên đây cũng làm chúng ta tối mắt, không biết chọn lựa pháp nào là
Chánh pháp. Đứng trong rừng pháp môn của Đại Thừa chúng ta mù mịt,
không biết đâu
là pháp môn
chân chánh, vì pháp môn nào Đại Thừa cũng gọi là đệ nhất
pháp.
Bây giờ,
các bạn hãy
nghe Chánh pháp của
đức Phật, Ngài
đã dạy cho chúng ta trước
giờ phút diệt độ tức là lời di chúc cuối
cùng của Ngài: ‚Này Ananda, ở
đời, vị Tỳ
kheo đối với thân quán thân, tinh tấn tỉnh
giác chánh niệm, nhiếp phục mọi
tham ái,
ưu bi trên đời; đối với các cảm thọ…;
đối với tâm…; đối với
các pháp, quán pháp
tinh tấn tỉnh giác, chánh niệm nhiếp phục mọi tham ái, ưu
bi trên đời. Này Ananda, như vậy vị Tỳ kheo tự mình là
ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương
tựa cho chính mình, không
nương tựa một gì khác, dùng Chánh
pháp làm
ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác‛.
Kính thưa
các bạn! Đọc đoạn
kinh này chắc các bạn
có biết đức Phật
đã dạy cho các bạn tu tập pháp môn gì không?.
Trên đây
là pháp môn Tứ Niệm Xứ đấây các
bạn ạ! Nhưng các bạn
nên lưu ý những
từ mà đức Phật nhấn mạnh như:
1. Quan sát
(thân, thọ, tâm, pháp).
2. Tinh tấn.
3. Tỉnh
giác.
4. Chánh niệm.
5. Nhiếp phục
mọi tham ái ưu bi trên đời. Trên đây có
năm nhóm từ, các bạn có hiểu
nghĩa và
cách thức thực
hành tu tập của năm
nhóm từ này
chưa? Các bạn hãy lắng nghe chúng
tôi sẽ giải
thích và chỉ dẫn cho các
bạn hiểu nghĩa để các bạn thực hành mà không sai lạc. Vậy quán sát thân,
thọ, tâm, pháp là gì?
QUÁN
SÁT có nghĩa là xem xét, tỉnh thức,
không bị
mờ mịt, mê mờ, thấy biết
rõ ràng từng sự kiện xảy ra không
bỏ sót một việc nhỏ nhặt nào trên thân, thọ, tâm và pháp.
THÂN là cơ
thể của
các bạn do đất, nước, gió, lửa hợp lại thành, gọi là thân tứ
đại. Bản chất của thân tứ đại
là vô thường,
là khổ, vô
ngã, thường
hoại diệt, mạng sống của thân chỉ có bảy,
tám mươi năm hoặc 100 năm là cao.
THỌ là các cảm
thọ về thân là đau nhức, mỏi; về tâm là buồn phiền, rầu lo thương ghét, giận hờn
v.v..
Thọ gồm có
ba:
1- Thọ lạc
2- Thọ khổ
3- Thọ bất lạc, bất khổ
TÂM là sự hiểu
biết, sự tư
duy, là niệm khởi, là vọng tưởng, là sự suy tầm, là tầm
tứ.
PHÁP là
âm thinh, sắc tướng,
là mọi sự việc
xảy ra, là thời
tiết nắng mưa gió
bão, là đất, đá,
núi, sông đều là
pháp, ngay cả
thân ngũ uẩn cũng gọi là
pháp, mỗi hành động tu tập
cũng gọi là
pháp, lời giảng
dạy của Phật trong các kinh sách cũng đều là pháp.
Như vậy các bạn đã hiểu nghĩa các cụm từ này Vậy quán thân, thọ, tâm, pháp
nghĩa là gì?
I- Quán
THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP có nghĩa là các bạn
nên xem xét rất kỹ lưỡng về toàn thân, về các cảm thọ, về toàn tâm và về các
pháp. Nói cho đúng nghĩa là các bạn theo dõi thân, thọ,
tâm, pháp của
các bạn đang
hoạt động theo nghiệp
lực nhân quả. Nếu sự hoạt
động ấy bị
tác động làm khổ các bạn và người khác
thì các bạn ngăn
và diệt, còn sự hoạt
động ấy
đem lại sự bình an cho
các bạn
và người khác thì các
bạn hãy để
nó hoạt động, chứ không phải ngăn diệt. Với việc làm
này đức Phật gọi là tu tập Tứ Niệm Xứ. Tu tập Tứ Niệm Xứ là tu tập làm chủ
sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Vậy
các bạn hãy học
và tu tập về các phần trên thân,
thọ, tâm và pháp.
Thứ nhất:
Quán thân có nghĩa là luôn luôn tỉnh
giác trên thân,
biết rõ thân
có xảy ra những
cảm thọ gì, ở đâu,
chỗ nào trên
thân, nhờ tỉnh giác như vậy các bạn sử dụng đúng pháp để nhiếp phục những
cảm thọ ấy không còn tác động vào thân các bạn được nữa.
Thứ hai:
quán các cảm thọ có
nghĩa là tỉnh giác trên thân biết
rõ thân đau bệnh gì, nhức mỏi chỗ
nào, nhờ đó
các bạn mới đối trị và
nhiếp phục đẩy
lui chúng ra khỏi
thân của các bạn bằng
phương pháp như lý
tác ý và an
trú tâm trong thân hành nội hay thân hành ngoại. Đây là phương pháp làm chủ bệnh
trong pháp môn Tứ Niệm Xứ chỉ có Phật giáo mới có mà thôi.
Thứ ba: quán
tâm có nghĩa
là xem rất kỹ về tâm, tâm đang động hay tâm đang tịnh,
tâm
đang tịnh là
tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Còn khi nào tâm mất thanh thản, an lạc và vô sự
là tâm
rơi vào hai trạng thái
một là bị hôn
trầm, thùy miên,
vô ký, ngoan
không; hai là tâm đang phóng dật, phóng niệm.
Khi tâm rơi vào
hôn trầm, thùy
miên vô ký, ngoan không
thì các bạn hãy nhớ giữ
gìn giới luật cho nghiêm chỉnh đừng
để vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào và tu tập pháp môn Thân Hành Niệm. Nếu
các bạn tu tập đúng như vậy thì hôn trầm,
thùy miên, ngoan không
sẽ không còn thăm các bạn nữa. Trong Định Niệm Hơi Thở
có hai đề mục phá
hôn trầm thùy miên vô ký tuyệt vời, đó là ‚Quán tâm định
tỉnh tôi biết tôi hít vô, quán tâm định
tỉnh tôi biết tôi thở ra‛. Đề mục thứ hai:
‚Hít vô dài tôi biết
tôi hít vô
dài, thở ra
dài tôi biết tôi thở ra dài‛. Khi
vận dụng hơi thở dài tức là hơi thở chậm
thì hôn trầm cũng
không bén mảng đến thân tâm các bạn được.
Thứ tư: quán
các pháp có nghĩa là xem xét rất kỹ về các pháp đang tác động vào thân tâm của các bạn,
những pháp ấy
làm cho thân tâm của
các bạn bất
an, thì các bạn
dùng pháp phòng hộ các căn. Khi
phòng hộ các căn thì các pháp sẽ không
xâm chiếm vào
thân tâm của
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!