các bạn được.
Trong định Niệm Hơi Thở có hai đề mục
phòng hộ thân
tâm của các bạn rất tuyệt vời, đó là: ‚An tịnh
thân hành tôi biết tôi hít
vô, an tịnh thân hành tôi biết
tôi thở ra‛ và ‚An tịnh tâm
hành tôi biết tôi hít
vô, an tịnh
tâm hành tôi biết
tôi thở ra‛. Hai đề mục
trên đây muốn
có kết quả tốt và
hiệu nghiệm thì các
bạn hãy siêng năng
tu tập cho chứng đạt được sự an trú vào hơi thở.
Trên đây là
cách thức tu tập quan sát bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp trong pháp môn Tứ Niệm
Xứ.
Pháp môn Tứ
Niệm Xứ khi tu tập các bạn nên nhớ: Quán Thân thì các bạn đừng nghĩ lầm là chỉ
có quán thân mà thôi. Do đó, có một số trường thiền dạy tu Tứ Niệm Xứ lại cắt
pháp môn Tứ Niệm Xứ ra bốn phần: Có trường thiền chuyên tu tập QUÁN THÂN; có trường thiền lại chuyên tu tập QUÁN THỌ;
có trường thiền chuyên tu tập
QUÁN TÂM, nhưng
chưa có trường thiền
chuyên tu tập
QUÁN PHÁP. Đó là một sự sai lầm
quá lớn. Trong kinh sách Nguyên Thủy chưa từng
thấy Phật dạy tu
tập Tứ Niệm Xứ phân chia thân, thọ, tâm, pháp kỳ lạ như vậy. Vì thế, các bạn nên hiểu: nói quán thân
chứ kỳ thực
là quán bốn chỗ thân,
thọ,
tâm, pháp;
cho nên, nói quán
thọ chứ kỳ thực
là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán tâm chứ kỳ thực
là quán bốn chỗ thân,
thọ, tâm, pháp; nói quán pháp chứ kỳ thực là quán bốn chỗ
thân, thọ, tâm,
pháp. Có tu tập như vậy
mới gọi là
tu tập pháp
môn Tứ Niệm Xứ.
Còn tu tập từng phần là tu tập sai pháp.
Các xứ Phật
giáo Nguyên Thủy Nam Tông do các
nhà học giả
tu tập pháp
môn Tứ Niệm Xứ
một cách kỳ lạ, mà
chưa từng thấy có một
bài kinh nào Phật dạy như vậy. Xin các bạn
lưu ý đừng vội
tin họ. Muốn tin thì phải
tin đúng lời Phật dạy, vì các bạn là những người đệ tử Phật, chứ không
phải đệ tử của ngoại đạo. Nếu các bạn
tu sai lời Phật dạy,
tu theo kiến
giải của các sư thầy học giả là các bạn đã rơi vào ngoại đạo.
2549 năm
cách Phật thời gian quá xa, không người tu chứng, nên theo tưởng giải kiến thức của những nhà học giả rồi vẽ ra
nhiều pháp tu tập mới mẻ,
khiến cho mọi người theo Phật giáo
không biết đường
nào tu tập
cho đúng.
Muốn tu tập đúng pháp
không bị sai lầm,
như đức
Phật đã dạy:
‚Này các Tỳ
kheo, ở đây, có kẻ
phàm phu ít nghe,
không được
thấy
các bậc Thánh,
không thuần thục pháp các bậc Thánh,
không tu tập pháp các
bậc Thánh, không được
thấy các bậc Chơn nhân,
không thuần thục pháp
các bậc Chơn nhân, không tu tập pháp các bậc Chơn nhân‛.
Do không gặp những bậc
này nên tu hành sai pháp, như những kẻ vô văn phàm phu ít
nghe, ít thấy những
bậc Thánh, những bậc Chơn nhân
nên cứ dựa theo miệng lưỡi của những
ông thầy tu
hành chưa chứng đạo. Vì vậy mà
phí cả một đời người.
II- Tinh tấn
có nghĩa là
siêng năng, cần cù
tu tập. Cụm từ tinh tấn
này các bạn phải
hiểu là, hằng giờ, hằng phút, hằng giây luôn luôn phải siêng năng quan sát 4 chỗ
thân, thọ, tâm và pháp để xem xét sự động tịnh, sự thanh thản, an lạc và
vô sự hay sự bất
an, sự mất thanh thản, an lạc và vô sự. Nếu khi thân
tâm mất thanh thản, an lạc và vô sự thì
phải dùng pháp đẩy lui những chướng ngại
pháp đang tác động vào thân
tâm, tức là
phải khắc phục những tham ái, ưu bi, sầu khổ nơi tâm
hoặc những cảm thọ đau nhức bệnh tật nơi thân. Nhưng khi tất
cả những cảm thọ và
các ác pháp do tâm
không có khởi
ra, thì nên cảnh
giác những
trạng thái si
mê hôn trầm,
thùy miên sẽ tấn công.
III- Tỉnh
giác có nghĩa
là tỉnh táo,
biết rõ ràng, không
bị lờ mờ,
không ở trong
trạng thái nửa tỉnh nửa mê, hay trạng thái hôn trầm, thùy miên, vô
ký, ngoan không v.v.. Tỉnh
giác có nghĩa là thân và tâm phải tỉnh thức hoàn toàn, thân không uể oải, lười biếng, tâm không mê mờ và không ở trạng thái lúc tỉnh lúc mê. Tỉnh giác
là không có một chút
xíu nào hôn trầm
thùy miên trong
thân tâm thì mới
được gọi là tỉnh giác. Có tỉnh giác mới quan sát kỹ lưỡng, do quan sát kỹ
lưỡng mới thấy được từ tâm niệm của
mình vừa khởi
lên là thấy
liền và ngay đó biết cả niệm đó
là ác pháp
hay niệm thiện pháp,
nó muốn gì? Làm
gì? Mỗi niệm khởi
lên đều không
lọt qua sự quan sát của các bạn và như vậy mới có thể gọi
là tỉnh giác, nhờ có tỉnh giác như vậy
mới nhiếp phục được mọi tham ái, mọi ưu bi, mọi khổ đau
trên đời này.
IV- Chánh niệm
là niệm vô lậu. Niệm vô lậu tức là niệm thiện,
niệm không làm khổ
mình, khổ người
và khổ cả hai.
Cho nên, Chánh niệm gồm có:
1- Thân hành
niệm nội. Thân hành niệm nội là hơi thở.
2- Thân
hành niệm ngoại.
Thân hành niệm ngoại là sự họat
động của thân như: đi, đứng, nằm, ngồi,
nói, nín, đưa tay,
duỗi chân, cúi đầu, liếc mắt, ngó
nhìn làm tất cả mọi công việc v.v..
3- Thân tâm ở trạng thái bất động tâm có nghĩa là tất cả
các ác pháp không tác động vào thân được
tức là
tâm ở trong
trạng thái vô tướng
tâm định hay
nói cách khác
là tâm thanh thản, an lạc và vô
sự. Tâm lúc bấy giờ hoàn toàn không
có dục lậu, hữu lậu
và vô minh lậu. Tâm không có dục lậu, hữu lậu và vô
minh lậu mới được
gọi là
tâm bất động;
mới được gọi là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Tất cả những
niệm kể trên là niệm vô lậu. Niệm vô lậu chính
là Chánh niệm. Trong kinh sách
Nguyên thủy còn bảo Chánh Niệm là Tứ Niệm Xứ.
V- Nhiếp
phục mọi tham
ái, ưu bi trên đời, cụm từ này có
nghĩa là làm
cho mọi sự ham muốn,
sầu khổ và bệnh tật khổ đau trên cuộc đời này không còn nữa.
Như vậy
các bạn biết rằng năm cụm từ này là để chỉ cho một phương pháp làm chủ
những sự đau khổ của kiếp người tức là làm chủ sanh, già, bệnh, chết
và chấm dứt
tái sanh luân hồi.
Năm cụm từ này
chính là phương
pháp đức Phật dạy
tu tập pháp
môn Tứ Niệm Xứ
trên Tứ
Niệm Xứ của
các bạn đấy. Bởi vậy, pháp
môn Tứ Niệm Xứ là
một pháp môn
tuyệt vời đệ nhất pháp làm chủ
sanh, già, bệnh, chết một cách rõ ràng
và cụ
thể không còn có pháp môn nào
hơn nữa. Cho nên,
đức Phật đã xác
định thời gian tu tập Tứ Niệm Xứ, cuối cùng là
7 năm.
Một người có
quyết tâm tu tập để làm chủ sự sống
chết thì phải siêng
năng tinh cần tu tập, không thể lười
biếng mà tu tập pháp
môn Tứ Niệm Xứ của Phật được.
Vì lợi ích lớn như vậy,
cho nên, đức Phật nhắc đi nhắc lại pháp môn này nhiều lần
cho đến khi sắp chết Ngài cũng không quên nhắc chúng ta lần cuối
cùng: ‚Này Ananda, ở
đời vị Tỳ Kheo,
đối với thân quán
thân, tinh tấn tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái,
ưu bi trên đời, đối với
các cảm thọ... đối với
tâm... đối với
các pháp, tinh
tấn, tỉnh
giác, chánh niệm nhiếp phục mọi tham
ái, ưu bi trên đời. Này
Ananda, như vậy vị Tỳ
Kheo tự mình là
ngọn đèn cho chính mình,
tự mình nương
tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn
đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác‛. Nhớ lời
dạy này chúng ta phải siêng năng, tinh cần tu tập Tứ Niệm Xứ không biết
mỏi mệt, cho nên phải thường xuyên quan sát thân, thọ, tâm và các pháp. Phải nhớ
luôn luôn lúc nào
chúng ta cũng
phải tỉnh giác Chánh
niệm khi đi, khi đứng,
khi nằm, khi ngồi đều luôn hộ trì
và bảo vệ thân, tâm không cho một chướng ngại
pháp nào tác động vào được thân tâm của mình.
Và hành động tu tập như vậy
chính là chúng ta dùng Chánh pháp là ngọn
đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa vững chắc cho mình. Tuy bài pháp ngắn ngủi nhưng rất đầy đủ ý
nghĩa giải thoát của Phật giáo.
Pháp hành rất cụ thể
và rõ ràng.
Hành tới đâu được lợi ích
tới đó. Siêng năng
hành nhiều giải thoát
nhiều; hành ít giải
thoát ít. Nếu thực hành trọn đủ 12 tiếng đồng hồ NHẤT DẠ HIỀN,
thì ngay đó là chứng đạo,
là thành
tựu viên
mãn con đường tu tập làm lợi
ích cho mình, cho người.
Kính thưa các bạn! Pháp môn Tứ Niệm Xứ này tu tập
có kết quả thiết thực cụ thể như vậy, nên đức Phật mới dám tuyên bố thời gian bảy
ngày, bảy tháng, bảy năm, nếu mọi người ai cũng
tu hành đúng
phương cách như Phật đã chỉ dạy ở
trên thì chắc chắn trăm người sẽ chứng
đạt cả trăm
người. Nhưng tiếc
thay! Pháp thì thật là tuyệt vời mà con người không dám buông bỏ dục lạc thế gian; không
dám buông bỏ những ác pháp. Vì thế, mà
con người đành phải trôi lăn trong lục đạo, thọ biết bao nhiêu là đau khổ. Cho
nên, nước mắt của chúng sanh nhiều hơn nước biển là vậy, nhưng vì mải mê dục lạc
không thấy các
pháp là vô thường,
là khổ
đau, là vô ngã.
Trên đời này
không có một vật gì thường hằng
vĩnh viễn. Thế mà mọi người không chịu buông bỏ, cứ mãi ôm ấp cho đến ngày ra
đi trở về với lòng đất lạnh. Còn có những
gì đâu? Còn
mang theo được
những gì
đâu?
đi!
‚Buông xuống
đi! Hãy buông
xuống
Chớ giữ làm
chi có ích gì?
Thở ra chẳng
lại còn chi nữa,
Vạn sự vô
thường buông xuống đi!
Xin các bạn
nghe lời dạy của đức Phật:
‚Các pháp vô
thường Là pháp sinh diệt Sinh diệt diệt
rồi Tịch diệt là vui‛
Bài kệ này có nghĩa là các bạn hãy buông
xuống hết,
buông xuống hết
thì các bạn sẽ an
vui tức là hết khổ đau. Hết khổ đau hạnh phúc lắm các bạn ạ!
BỐN THẦN TÚC
LỜI PHẬT DẠY
‚Này Ananda, những
ai đã tu Bốn Thần Túc,
tu tập nhiều
lần, thật lão luyện, thật chắc
chắn, thật bền vững, điêu luyện,
thiện xảo, thời nếu muốn,
người ấy có
thể sống một
kiếp hay phần kiếp
còn lại. Này
Ananda, nay Như Lai đã
tu bốn thần túc,
tu tập nhiều lần, thật lão luyện,
thật chắc chắn, thật bền vững, điêu
luyện thiện xảo, này Ananda, nếu
muốn Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp
còn lại‛.
(Kinh Trường
Bộ tập I trang 586, kinh Đại Bát Niết Bàn)
CHÚ GIẢI:
Nói đến Bốn
Thần Túc tức
là nói đến Tứ
Như Ý Túc.
Nói đến Tứ
Như Ý Túc
là nói đến năng lực
siêu việt, phi phàm.
Lấy Tứ Như
Ý Túc đức Phật
đã xác định sự
kéo dài mạng căn
của mình từ một kiếp
hay một phần
kiếp còn lại.
Thưa các bạn!
Theo chúng tôi thiết nghĩ khả năng ấy phải lưu xuất từ tâm ly dục ly ác pháp; từ
một tâm thanh tịnh hoàn toàn; từ một tâm
bất động trước
ác pháp và
các cảm thọ. Ngay từ
khi tâm bất động,
thanh thản, an lạc và vô sự là đã kéo dài tuổi thọ, chứ không phải đợi tới lúc gần
chết mới kéo dài mạng căn. Người biết sống thanh thản, an lạc và vô sự là người đã
kéo dài tuổi thọ, chỉ khi nào họ muốn chết là họ đã sử dụng Tứ Thần Túc
để tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thánh Định và xuất ra khỏi trạng thái Tứ
Thánh Định vào Niết Bàn thì họ mới bỏ thân tứ đại này.
Sự sống chết của
một người tu tập
có Bốn Thần Túc
thì đối với họ
không còn khó
khăn, khi muốn sống chết không có mệt nhọc, không có phí sức. Sự sống chết của một
người tu tập có Bốn Thần Túc thì đối với họ như lấy đồ vật trong túi áo, như lật trở một bàn tay.
Người ta cho
rằng: Bốn Thần
Túc là thần thông
của Phật giáo,
lời nói này
không sai, nhưng không
đúng với tinh thần Phật
giáo. Vì Phật giáo
không có dạy tu
tập thần thông
mà
chỉ dạy cho
mọi người tu tập ly dục ly ác pháp, diệt ngã xả tâm, làm chủ sanh, già, bệnh,
chết và chấm dứt tái sanh luân hồi. Cho nên, Phật giáo không
dạy chúng ta
tu tập để
có thần thông như ngoại đạo (Mật
Tông, Lão giáo, Tiên đạo, Thiền tông,
Yoga, Khí công,
Nhân điện v.v..).
Khi mới bắt đầu tu tập thì đạo
Phật chỉ dạy chúng
ta sống giới
luật đức hạnh
làm Người, làm Thánh tức là ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện
tăng trưởng thiện
pháp, đó cũng chính
là sống đạo đức nhân bản -
nhân quả không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Cho nên, mục
đích của đạo Phật
là muốn đem lại
sự sống bình
an và an vui trên
hành tinh này. Vì thế, đạo Phật
là đạo đức của mọi người, nó không riêng cho giai cấp
nào, tôn giáo nào, có tôn giáo
hay không có tôn giáo không quan trọng,
nếu là con người
đều phải sống
có đạo đức. Vì sống
có đạo đức
là sống cho mình,
cho người. Còn Bốn Thần Túc chỉ là vấn đề phụ, vì tâm bất động trước các ác pháp và các
cảm thọ tức là tâm thanh tịnh hoàn toàn không còn có tham, sân,
si thì Bốn Thần
Túc xuất hiện một
cách tự nhiên. Nói như vậy không có nghĩa là Phật giáo không có pháp môn tu tập
có thần thông.
Kính thưa các bạn! Đạo Phật có một pháp môn tu tập
có Tứ Thần Túc nhưng không cần niệm thần chú như Mật tông, không cần khổ công tập
luyện như Yoga, đó là pháp môn Thân Hành Niệm.
Đạo Phật
không tham sống,
sợ chết, không mong cầu có thần
thông pháp thuật và cũng không mong cầu
sống trường sinh bất tử, vì đạo Phật có đôi mắt nhìn thấu suốt các pháp đều do duyên hợp, không có một pháp nào thường
còn, bất di bất dịch, vĩnh viễn, chỉ là vô thường, thường mang lại sự khổ đau
cho loài người. Vì thế, đoạn kinh trên đây nói đến năng lực kéo dài
mạng căn, sống để
làm lợi ích cho mọi người, nhưng
khi đã làm xong đối
với loài người thì tự tại ra đi
chứ không luyến tiếc một vật gì
trên thế
gian này. Chúng
ta hãy nghe đức Phật dạy: ‚Này ác
Ma, Ta sẽ không
diệt độ khi nào bốn giới đệ tử của
Ta Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo
Ni, cư sĩ nam
và cư sĩ nữ, chưa
trở thành những đệ tử chân chánh, sáng suốt,
có kỷ luật,
sẵn sàng, đa
văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp
và tùy pháp,
sống chân chánh, sống theo Chánh pháp,
sau khi học hỏi giáo
lý chưa có thể
tuyên bố, diễn giảng, trình bày,
xác định, khai
minh, phân tích và
giải thích rõ
ràng Chánh pháp, khi có tà
đạo khởi lên, chưa
có thể chất vấn
và hàng phục một cách khéo léo,
chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu‛.
Các bạn
có nghe những
lời dạy trên đây không?
Đó là lời
tuyên bố của đức Phật:
khi nào các đệ tử của
Ngài tu tập chứng đạo
thì Ngài mới nhập
Niết Bàn (diệt
độ) còn nếu các đệ
tử của Ngài
tu tập chưa xong thì Ngài phải kéo dài tuổi thọ một phần kiếp còn lại
hay một kiếp, chứ Ngài không bỏ các đệ tử
của mình bơ vơ. Đó là tâm nguyện của một
bậc vĩ nhân, lấy con người làm cuộc sống
của mình, lấy sự sống của mình làm sự sống của mọi người thật là cao quí
thay! Một vĩ nhân của loài người.
Tóm lại, một
người tu theo
Phật giáo có đầy đủ đức
hạnh và thần lực mà không có một
tôn giáo nào hơn được. Đạo đức của đạo Phật “Không làm khổ mình, khổ
người và khổ cả
hai‛ thì trên đời này không có đạo đức nào hơn
được. Phải không các bạn? Còn về thần thông “TỨ THẦN TÚC‛ thì không có một tôn
giáo sánh kịp. Có đúng như vậy không các bạn?
Các bạn nên
biết thần thông của đạo Phật như vậy, nhưng
đạo Phật xem
thường, vị Tỳ kheo nào thị hiện thần thông không đúng
cách
sẽ bị Phật
quở trách và bắt buộc phải ẩn bóng. Chỉ
có một điều
mà đức Phật
chú trọng nhất, đó
là giới luật
mà những đệ tử Phật
phải nghiêm chỉnh, không
hề vi phạm một lỗi nhỏ
nhặt nào, nếu vi phạm giới luật thì Ngài không chấp nhận.
Đệ tử của
ông Xá Lợi Phất
và ông Mục Kiền Liên không giữ giới
hạnh độc cư, làm ồn náo, Ngài ra lệnh đuổi
500 vị Tỳ kheo. Như vậy, các bạn đủ biết
lấy đức hạnh
làm cuộc sống của tu sĩ. Ai vi phạm
thì bị đuổi.
Cho nên, thần
thông đối với đạo Phật không quan trọng
mà đạo Phật
quan trọng ở chỗ tâm bất động trước
các pháp ác và các cảm thọ, tức là quan trọng ở
chỗ tâm các bạn ly dục ly ác pháp; ở chỗ tâm hết tham, sân, si.
Muốn hết
tham, sân, si thì
pháp môn
Tứ
Niệm Xứ các
bạn nên chuyên cần tu tập chỉ có
7 ngày, 7
tháng, 7 năm là các bạn viên mãn sự tu tập của
mình. Hãy cố gắng lên
các bạn ạ! Đức Phật đang chờ đợi các bạn đấy!
BỐN PHÁP CHỨNG
ĐẠT LÀM CHỦ SANH TỬ LUÂN HỒI
LỜI PHẬT DẠY
‚Này các Tỳ kheo! Chính vì không giác ngộ,
không chứng đạt bốn pháp mà
Ta và các
Ngươi, lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh
tử. Thế nào là bốn pháp?
1- Này các Tỳ
kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh giới mà
Ta và các
Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử.
2- Này các Tỳ
kheo chính vì không giác ngộ... Thánh định mà...
3- Này các Tỳ
kheo chính vì không giác ngộ... Thánh tuệ mà...
4- Này các Tỳ
kheo, chính vì không giác ngộ... Thánh giải thoát mà...
Này các Tỳ kheo
Thánh giới được giác ngộ được chứng
đạt... thời tham ái một đời sống
tương lai được diệt trừ,
Â
những gì
đưa đến một đời sống mới
được dứt sạch, nay không còn một đời sống nào nữa.
(Kinh Trường
Bộ tập I trang 616, kinh Đại Bát Niết Bàn)
CHÚ GIẢI:
Trong đoạn
kinh này chúng ta xét thấy có bốn
pháp môn, do chúng ta không giác ngộ, không
chứng đạt bốn
pháp môn này
nên lâu đời phải chịu trôi lăn
trong biển sanh tử.
Trong bốn
pháp môn này chỉ cần chúng ta giác ngộ và chứng đạt một pháp cũng đủ cho chúng
ta không còn trôi lăn trong biển sanh tử
nữa.
Ví dụ: Chúng
ta chỉ giác ngộ và chứng đạt Thánh giới luật, có nghĩa là hiểu biết và thông suốt giới
luật là đức hạnh của
người tu sĩ, là
đạo đức nhân bản -
nhân quả, thường
đem lại lợi ích cho mình, cho người.
Do hiểu biết rõ như vậy, nên chúng
ta cố gắng
giữ gìn nghiêm chỉnh
giới luật không
hề vi phạm một lỗi lầm
nhỏ nhặt nào, tức là sống không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Tâm luôn
luôn bất động
trước các
ác pháp và
các cảm thọ,
đó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Khi sống được như vậy thì đó là chứng đạt Thánh giới luật.
Thánh giới
luật mà không được nghiêm trì thì
Thánh định, Thánh
tuệ, và Thánh
giải thoát không làm sao có được.
Trong bốn
pháp này chỉ
có Thánh giới luật là pháp môn cơ bản nhất và quan trọng
nhất, nếu Thánh giới luật nghiêm chỉnh thì Thánh định, Thánh tuệ, Thánh giải
thoát sẽ hiện tiền rõ ràng,thì sự tu tập không còn khó khăn, không còn mệt nhọc.
Trong đoạïn
kinh này đức Phật dạy
rất rõ ràng phải giác ngộ,
phải chứng đạt. Vậy nghĩa
giác ngộ
và chứng đạt
như thế nào?
Giác ngộ và chứng đạt gồm có hai
phần:
1- Giác ngộ
có nghĩa là
thông hiểu và thấu
suốt nghĩa lý của pháp
môn đó rõ
ràng như thật, không có chuyện còn hiểu mù mờ, mơ màng, ảo tưởng v.v..
Như các bạn đã biết Phật dạy: ‚Những gì cần
thông suốt phải thông suốt‛. Thông suốt tức là giác ngộ. Giác
ngộ là thấy biết pháp đó như thật. Thấy
biết pháp đó như thật mới hướng tâm đến pháp đó
mà trong kinh sách gọi là hướng lưu, nhưng khi tu tập có những kết quả
nho nhỏ gọi là dự lưu.
Trưởng lão
THÍCH THÔNG LẠC
2- Chứng đạt
có nghĩa là nhập vào
pháp đó, sống như pháp
đó, nhưng trước
khi chứng đạt chúng ta cần phải giác ngộ. Ở đây đức Phật nêu ra bốn
pháp giải thoát.
Đó là Thánh
giới, Thánh định, Thánh tuệ, Thánh giải thoát. Bốn pháp nhưng
tu tập pháp
này thành tựu
thì thành tựu luôn ba pháp kia,
thành tựu ba pháp kia là thành tựu một pháp này. Cho nên, chứng đạt là
nhập vào giáo pháp đó. Nhập vào giáo pháp
đó gọi là nhập
lưu, nhập lưu tức là nhập
vào dòng Thánh, Nhập vào dòng Thánh tức là tâm phải ly dục ly ác pháp, còn tâm
chưa ly dục ly ác pháp thì không làm sao nhập vào dòng Thánh được. Vậy bây giờ chúng
tôi xin hỏi các bạn: ‚Trong
các bạn,
ai là người giác
ngộ Thánh giới luật?‛.
Thánh giới luật của
người cư sĩ gồm có:
Năm giới cấm cư sĩ,
tám giới Bát
Quan Trai và Thập
Thiện. Những giới
luật này mà đức Phật gọi là Thánh giới uẩn. Nếu các bạn
là người giác ngộ Thánh Giới uẩn này thì các bạn phải thông suốt những đức hạnh
của bậc Thánh trong những giới luật này rất rõ ràng và những sự lợi ích của
những giới này đối với đời sống của
các bạn như thế nào
các bạn đều phải rõ như
thật, không còn
có một giới
nào mà các
bạn không
biết, có biết
như vậy mới gọi các bạn giác ngộ Thánh giới uẩn.
Tỳ kheo Tăng
và Tỳ kheo Ni không những thông suốt những
Thánh giới uẩn của người
cư sĩ mà còn phải thông
suốt 10 giới Sa Di,
250 giới Tỳ kheo
Tăng và 348 giới Tỳ
kheo Ni, nhưng giới
luật như vậy
chưa đủ nói lên đức
hạnh của
Tăng, Ni, các bạn còn phải thông suốt
toàn bộ đức hạnh của giới kinh như
kinh Sa Môn Quả, kinh Sa Môn
Hạnh, kinh Phạm Võng. Những giới này các bạn có giác ngộ đức giới, hạnh
giới và giới hành của nó chưa? Nếu chưa thì không thể gọi
là giác
ngộ Thánh giới uẩn.
Cho nên, toàn bộ giới
kinh các bạn đều phải thông suốt đức, hạnh và pháp hành của
nó thì mới gọi là giác ngộ Thánh giới uẩn, còn nếu chưa thì các bạn
không được gọi là
giác ngộ Thánh giới uẩn được.
Như trên đã
nói giới uẩn là đức hạnh, là thiện pháp, vì thế giới uẩn là đức hạnh của con
Người, của những bậc Thánh. Nếu không thông hiểu giới
luật thì làm sao các
bạn thông hiểu nền tảng đạo đức giải thoát của đạo Phật. Mà không giác ngộ
Thánh giới uẩn thì làm sao chứng đạt được. Phải không các bạn?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!