Hiện nay các
bạn chỉ biết có những bộ giới luật Ba La
Mộc Xoa Đề của các Tổ biên soạn và gán
cho Phật chế.
Trong những bộ giới luật này, chỉ có những giới cấm, chứ trong đó
không có dạy đức giới,
hạnh giới và
hành giới, do không
có dạy đức hạnh và
hành giới thì làm sao các bạn giác ngộ được Thánh giới
uẩn được.
Giới uẩn là
nền tảng căn bản đạo đức tâm vô lậu, để tu tập theo con đường giải thoát của đạo Phật.
Thế mà những bộ giới luật của các Tổ thiếu
khuyết như vậy
làm sao nói lên đủ đức hạnh của một bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và
Thánh cư sĩ. Giới luật thiếu khuyết như vậy thì làm sao giúp
cho bốn giới đệ tử
Phật thông
suốt.
‚Giới luật
còn là Phật giáo còn, giới luật mất
là Phật
giáo mất‛, đó là bản tuyên ngôn của Phật giáo
đã xác định tinh thần đạo đức rất đúng, không còn ai dám thay đổi.
Cho nên, hiện giờ muốn chấn
chỉnh lại Phật
giáo, là nên chấn
chỉnh lại toàn bộ giới
luật, nên triển khai toàn bộ giới
luật đức hạnh, có nghĩa là phải dựng lại những
Phạm hạnh mà
ngày xưa chúng Tỳ kheo đã từng sống những Phạm hạnh như vậy dưới thời đức
Phật.
NHỮNG LỜI GỐC
PHẬT DẠY – TẬP IV
Khi đã giác
ngộ và chứng
đạt Thánh giới thì nhất
định không còn trôi
lăn trong biển sanh
tử nữa. Đó
là đức Phật
đã dạy như vậy,
các bạn
hãy lắng nghe:
‚Này các Tỳ
kheo, chính vì không giác
ngộ và chứng đạt Thánh giới mà
Ta và các
ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển khổ sanh tử‛.
Đúng vậy, nếu chúng
ta sống đúng
giới luật không làm khổ mình, khổ
người và khổ cả hai thì làm sao còn
trôi lăn trong
biển khổ sanh tử luân hồi được.
Phải không các bạn?
Vì ngay
trong cuộc sống
mà sống đúng giới
luật thì làm sao có
làm khổ mình,
khổ người, khổ cả
hai, nếu không
làm khổ mình, khổ
người và khổ cả hai
thì còn đâu là biển
sanh tử nữa. Biển sanh tử đã bị diệt mất khi chúng ta sống đúng Thánh giới. Cho nên, lời di chúc cuối cùng của
đức Phật là để xác định cho các bạn thấy
rằng chỉ có giới luật là pháp môn quan trọng
nhất của Phật
giáo mà thôi.
Tám lớp học (Bát Chánh Đạo) mà hết bảy lớp tu học về giới luật, chỉ có một
lớp tu định và ngay khi nhập định là
triển khai trí tuệ
Tam Minh trong lớp đó. Như vậy
xét thấy Thánh định, Thánh tuệ và Thánh giải thoát chỉ có một lớp học mà thôi.
Bởi vậy,
trên Tứ Niệm Xứ các bạn giữ gìn giới luật nghiêm
túc đừng để vi phạm một lỗi nhỏ
nhặt nào, thì ngay đó
là các bạn
đã được giải thoát tâm vô lậu, tuệ
vô lậu.
Kính thưa các bạn! Vì giới luật lợi ích cho đời sống
tu tập theo Phật giáo như vậy, nên chúng
tôi cố gắng
ngày đêm biên
soạn bộ Thánh giới uẩn Thánh
Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ, để các bạn
tu hành không còn sai lạc vào pháp
môn của ngoại đạo. Bộ giới uẩn này
ra đời chậm trễ
là do chúng tôi phải làm quá
nhiều việc, nên
xin các bạn
vui lòng chờ đợi. Chúng tôi sẽ cho ra mắt
các bạn bộ Giới
uẩn này sớm chừng nào tốt chừng nấy.
Tóm lại,
Thánh giới uẩn rất quan
trọng trong việc tu hành theo Phật giáo để tìm cầu sự giải thoát ra khỏi
mọi sự khổ đau của cuộc đời này duy chỉ có giới luật đức hạnh là
trên hết. Nếu ai tu hành theo Phật giáo mà còn vi phạm giới luật
thì xin các bạn
hãy trở về đời sống thế
tục đừng mặc
chiếc áo tu
sĩ mà làm hại
Phật giáo rất tội nghiệp, mong tất cả mọi người suy xét con người làm hư Phật
giáo, chứ Phật giáo là nền đạo đức nhân
bản của con người, nó không phải là một tôn
giáo của một
nhóm người nào mà của chung nhân loại.
KINH SÁCH ĐẠI
THỪA KHƠNG PHÂI PHẬT THUYẾT
LỜI PHẬT DẠY
‚Này các Tỳ
kheo! Có thể có Tỳ kheo nói: ‚Này Hiền giả,
tôi tự thân nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân lãnh
thọ như vậy là pháp, như vậy là
luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo
sư‛. Này các Tỳ
kheo, các Ngươi không nên
tán thán, không nên hủy báng lời
nói của Tỳ kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng,
mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải
được học hỏi kỹ lưỡng
và đem so
sánh với kinh, đối
chiếu với luật. Khi
đem so sánh với
kinh đối chiếu với luật,
nếu chúng không phù hợp với
kinh, không tương ưng với luật thời
các ngươi có thể kết luận: ‚Chắc chắn những
lời này không phải là lời của Thế
Tôn và Tỳ kheo ấy đã thọ giáo sai lầm‛.
Â
Và này các Tỳ
kheo, các ngươi hãy từ bỏ chúng;
khi đem so sánh với kinh, đem đối
chiếu với luật và nếu chúng phù
hợp với kinh, tương ưng với luật, thì các Ngươi có thể kết luận: ‚Chắc chắn
những lời dạy này phải là lời dạy của Thế Tôn và Tỳ kheo ấy đã thọ giáo chơn
chánh‛. Này các Tỳ kheo như vậy là đại giáo pháp thứ nhất, các
ngươi hãy thọ trì‛.
(Kinh Trường
Bộ tập 1 trang 618, kinh Đại Bát Niết Bàn)
CHÚ GIẢI:
Trước khi vào
Niết Bàn đức
Phật đã biết chắc người đời sau sẽ
kiến giải, tưởng giải làm sai lệch
giáo pháp của
mình, nên Ngài
đã di chúc lại những lời sau cùng này để
chúng ta
cẩn thận đối
chiếu với kinh sách Nguyên Thủy
và kinh sách
Đại Thừa, Khi đối chiếu chúng ta mới nhận xét
kinh sách Nguyên Thủy dạy
đạo đức làm Người làm Thánh, đó là ‚Chư
ác mạc tác, chúng thiện phụng hành‛ hoặc ‚Ngăn ác diệt
ác pháp, sinh
thiện tăng thiện
pháp‛, còn
kinh sách Đại Thừa dạy: ‚Cúng bái
cầu siêu, cầu
an, tụng kinh,
niệm Phật, niệm chú, ngồi thiền ức chế tâm, lạy hồng danh sám hối cho tiêu tội v.v..‛. Như vậy kinh
sách Đại Thừa dạy mê tín, sống trong thế
giới ảo tưởng
(Niết Bàn, Cực
Lạc Tây Phương).
Đem giới bổn Ba
La Mộc
Xoa Đề của các Tổ
ra đối chiếu
với giới kinh của
Phật, thì chúng ta thấy giới bổn
không phù hợp, không tương ưng với giới kinh một
bên thì ngăn cấm như
pháp luật, không
đúng với tinh thần
tự giác, tự nguyện
của đạo Phật.
Còn giới kinh dạy đạo đức làm Người làm Thánh để tâm
hoàn toàn vô lậu
và đúng theo
tinh thần tự giác tự
nguyện không có bắt buộc, không có khuyến dụ, không có mua chuộc. Cho nên, giới
bổn Ba La Mộc Xoa Đề và kinh sách
Đại Thừa chắc
chắn không phải Phật thuyết, do các Tổ chịu ảnh hưởng kinh Vệ Đà của Bà
La Môn biên soạn ra, nên không phù hợp và không tương ứng với những lời Phật dạy.
Đúng vậy khi đem ra so sánh chúng ta thấy rằng kinh sách Đại Thừa không phải Phật
thuyết 100%. Cho nên, những lời di chúc cuối cùng của đức Phật đã dạy chúng
ta phải
cân nhắc kỹ lưỡng để
không bị những
kiến giải,
tưởng giải của các Tổ lường gạt. Như vậy,
rõ ràng đức Phật đã biết trước, sau này các Tổ
sẽ làm sai lệch kinh sách
Phật, cho nên Ngài đã chuẩn bị cho
người đời sau còn
có chỗ dựa vững chắc để loại
trừ những tà
pháp của ngoại đạo đang pha trộn trong giáo pháp Nguyên Thủy của
Phật.
Đọc đoạn kinh này
các bạn còn
nghi ngờ chúng tôi
nói kinh sách Đại Thừa và Thiền
Tông sai nữa không?
Những Giáo
pháp phát triển sau thời
đức Phật đều mang tính trừu tượng, mơ hồ, mê tín, ảo tưởng, không thực tế,
nó được truyền thừa từ nước này sang nước khác, trong một thời gian khá dài
trên 2000 năm. Cho nên, những kinh sách này được kết tập bởi những người tu
hành chưa chứng đạo, thành một tạng kinh xô bồ không biết bài kinh nào tu trước,
bài kinh nào tu sau. Trong khi giáo
lý của Phật
giáo được chia ra làm 8 lớp học và
ba cấp rõ ràng,
nó là một chương trình giáo dục đào tạo con người có đầy đủ đạo đức nhân bản - nhân quả, xây dựng lại cuộc
sống của con
người mà mọi
người không còn làm khổ cho nhau nữa, biến thế gian này thành cảnh giới
Thiên Đàng, Cực Lạc.
Kinh Đại Bát
Niết Bàn thuộc Trường Bộ Kinh. Bốn lần đức Phật đã nhắc nhở
chúng ta phải căn cứ vào những ‚Lời
Phật Dạy‛ (trong kinh Nguyên Thủy),
phải đối chiếu
với luật và nếu
không phù hợp với kinh, không
tương ưng với luật của Phật
thì chắc chắn kinh sách
này không phải của Phật thuyết và những
Tỳ kheo ấy đã tu tập giáo pháp sai lầm.
Do sự so
sánh này
chúng ta có thể xác định đươc các tu
sĩ qua Giới đức,
Giới hạnh, Giới hành
nơi tứ sự
hàng ngày của họ: Ăn, mặc,
ở, đau bịnh và chùa
chiềng cúng tế…
thì biết chắc chắn là họ đã tu
đúng Phật pháp hay chưa!
Các Thầy
xa xưa người trước tu sai, người
sau sai và người
ngày nay cũng đều
tu tập sai hết.
Tu sai mà không
ai biết để chỉ chỗ
mình đã sai, nên kéo dài sai nhiều thế hệ. Thật đáng xót xa!
Vì ai đã
vào đường tu rồi lại chẳng
quyết xả thân để tìm sự giải thoát là
thân tâm được thanh thản, an lạc, vô sự! Nhưng
thật oái oăm thay: Sợ ở ngoài
đời bị vật chất ngũ dục
lôi kéo
đắm nhiễm – rối ren,
bon chen, danh lợi. Nên tìm đến cửa chùa tu thời gian lên chức Trụ trì, Thượng tọa, được thiên
hạ cung phụng cúng dường là liền
bị chùa to phật lớn, bổn đạo
đưa đón, thỉnh
mời, cầu siêu, cầu an, trai đàn, chẩn tế, suốt tháng quanh năm – rối rắm trăm bề...,
thân tâm không có một phút giây thanh thản thì làm sao quí Thầy giải thoát được
thân tâm có an lạc, vô sự!!!
Ngày nay,
chúng tôi may mắn hơn
đã tu tập từ con đường giới luật, xây dựng mình một nền
đạo đức sống không
làm khổ mình,
không làm khổ người
và không làm khổ cả
hai. Nhờ thế chúng tôi ly dục ly
ác pháp hoàn toàn và đã thành tựu con đường giải thoát của Phật giáo chân thật.
Sau khi
tu hành xong,
nhờ có kinh nghiêm trong tu hành. Chúng tôi căn cứ
vào những lời của Phật dạy trong kinh nguyên thủy đem chú giải rõ đường lối tu
hành đúng với Chánh pháp của đức Phật để đời
sau không còn lầm lẫn những
kinh sách tưởng giải của các nhà
học giả đã
biên soạn sau thời
đức Phật nhập diệt,
đưa vào tam tạng rồi mạo
danh là kinh Phật thuyết
để lừa đảo
tín đồ Phật giáo. Do đó,
các đời sau tu
hành sai pháp
và truyền thừa tu mãi cái sai,
nên chẳng có Thầy Tổ nào làm chủ sanh,
già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Vì thế, khi tu
hành chưa chứng đạo
các Ngài kết tập
kinh sách Phật không
đủ khả
năng soạn thảo
chương trình giáo dục theo tám lớp (Bát Chánh Đạo), ba cấp (Giới, Định, Tuệ)
nên kết tập kinh sách xô bồ không thứ lớp. Bài kinh trước,
bài kinh sau
không rõ ràng
và không triển khai nổi giới đức, giới hạnh, giới hành cùng
ba muơi bảy pháp
hành không cụ thể, thực tế và rõ ràng như trên đã nói.
Đến ngày
nay chúng tôi quyết
định chấn chỉnh lại bộ giới luật đức hạnh Thánh Tỳ kheo Tăng, Thánh
Tỳ kheo Ni và Thánh
Cư sĩ. Sau cùng, nếu có đủ thời
gian chúng tôi biên soạn giáo trình tu tập cho tám lớp (Bát Chánh Đạo) để thành lập chương trình giáo dục đào tạo bậc A
La Hán (vô lậu).
Nhờ những
bài kinh Nguyên Thủy này chúng tôi chỉ thẳng cho
các bạn biết
những kinh sách nào sai, từ
chỗ sai đó
chúng tôi mới dựng lại
những gì của Phật
giáo đã bị
các nhà học giả sau này (không
người tu chứng để triển khai nổi
pháp của Phật)
ném bỏ; nhờ những
bài kinh này chúng tôi quyết định vạch trần những kiến
chấp sai lầm của các học giả, để
may ra các bạn
giác ngộ được những
lời dạy chân thật của Phật
và xả bỏ những kiến chấp sai lầm của mình; nhờ những bài kinh này giúp các bạn sáng suốt
để thấy những tưởng giải của
các nhà học giả
không tu đã
làm hư hoại biết bao nhiêu thế hệ con người tu theo Phật
giáo hiện nay; nhờ những bài
kinh này chúng tôi chú
giải các bạn mới thấy
những lời chúng
tôi là chân thật không dối người, không phỉ báng các Tổ,
mà chỉ nói
lên một sự thật cách
đây trên 2000 năm chưa bao giờ
có một người
nào dám nói thẳng nói thật. Phải không các bạn?
Đây cũng
là một nhân
duyên, là một phước
báo lớn của
chúng sanh, cho các
thế hệ mai sau. Vì vậy, hôm nay mới
có một cuộc chấn chỉnh giáo pháp của Phật
giáo vĩ đại
như thế
này.
Vì Phật pháp
là một lợi ích rất lớn cho chúng
sanh, nên chúng
tôi không ngại
gian khổ, quyết tâm làm cho bằng được. Nhưng sự thành công ấy đều phải
nhờ sự đoàn kết của Tăng, Ni và Cư sĩ
bốn phương. ‚Một cây làm chẳng
nên non, ba
cây chụm lại
nên hòn núi cao‛, chắc chắn cái đúng sẽ thắng cái sai, và
cũng đến lúc cái sai phải được buông xuống. Phải không các bạn?
Tóm lại,
cái đúng không
ai diệt nó được,
nó sẽ được trường tồn với loài người mãi
mãi.
TẠI SAO ĐỨC
PHẬT BIẾT NẤM ĐỘC MÀ LẠI ĂN
LỜI PHẬT DẠY
‚Này Cunda
ăn mộc nhĩ còn lại Ngươi hãy đem chôn
vào một lỗ. Này Cunda, Ta không thấy một ai, ở cõi Trời
cõi Người, ở
Ma giới, ở
Phạm thiên giới không một người
nào trong chúng Sa Môn
và chúng
Bà La Môn giữa
những Thiên Nhân, món ăn mộc
nhĩ này
mà có thể
tiêu hóa được, trừ
Như Lai‛.
(Kinh Trường
Bộ tập 1 trang 624, kinh Đại Bát Niết Bàn)
CHÚ GIẢI:
Đọc đoạn
kinh này chúng ta xét thấy có hai điều vô lý:
1- Người thợ
rèn Cunda nấu món
ăn mộc nhĩ chưa bao giờ ăn mà lại
dám đem dâng cúng
Phật và
chúng Thánh Tăng.
Đó là vô
lý thứ nhất. Ai đã soạn câu này
và viết vào kinh sách Nguyên Thủy để hủy báng
Phật, Pháp, Tăng, để
làm kinh sách Phật mất hết
ý nghĩa chân thật
của nó. Một sự giả dối không
thể nào tha thứ
được. Một món ăn
chưa từng ăn mà dám
cho người khác ăn, chỉ đó là món thuốc độc
mà
thôi.
2- Đạo Phật
là đạo trí tuệ,
chuyển nhân quả khi biết
nấm độc mà
ăn là không
trí tuệ, nhất là đức Phật biết là nấm độc không cho chúng Tỳ kheo ăn mà
mình lại ăn là điều vô lý thứ hai.
Nhất là đức Phật là người đã
thông suốt luật nhân quả. Luật nhân quả là một đạo luật được chuyển
hóa bằng thiện
pháp. Cuộc đời tu hành của Phật
đã chứng đạo tức là Ngài đã sống toàn
thiện. Người sống
toàn thiện là người đã chuyển hoá được nhân quả. Cho
nên, đối với thân nhân quả của đức Phật Ngài làm chủ hoàn
toàn, muốn sống
chết đều theo
ý muốn của Ngài. Cho nên, Ngài dạy: ‚Này Ananda, những ai đã tu Bốn Thần
Túc, tu tập nhiều lần,
thật lão luyện,
thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo, thời nếu muốn, người
ấy có thể sống một kiếp hay phần
kiếp còn lại.
Này Ananda, nay Như
Lai đã tu Bốn Thần Túc,
tu tập
nhiều lần,
thật lão luyện, thật chắc
chắn, thật bền vững, điêu
luyện, thiện xảo, này Ananda, nếu muốn
Như Lai có thể sống
đến một kiếp hay phần
kiếp còn lại‛.
(Kinh Trường Bộ tập I trang 586 kinh
Đại Bát Niết Bàn). Đức Phật có đủ khả
năng làm chủ
nhân quả như vậy
mà lại ăn nấm độc để chịu bệnh kiết lỵ ra máu mà chết, thì thật
là một điều
vô lý hết sức.
Làm chủ nhân
quả mà để
cho nhân quả làm chủ mình thì thật
là vô lý. Đoạn kinh này là do người
sau không biết luật
nhân quả chuyển hóa; không thông
năng lực của Tứ Thần Túc của Phật
giáo, nên xen đoạn kinh này để che đậy sự tu hành không làm chủ sanh,
già, bệnh, chết của
mình đối với
tín đồ ‚Chẳng muội nhân quả‛ chứ
không làm chủ nhân quả được.
Theo chúng
tôi biết chắc chắn đoạn kinh này là do các
Tổ thêm vào để dựng lên
thuyết nhân quả định mệnh,
tức là nhân
quả cố định không thay đổi được, đó là
để chỉ rõ pháp môn Đại Thừa
và Thiền Tông không làm chủ sanh, già,
bệnh, chết, nó
là một loại
thiền ức chế tâm, chứ không phải là thiền xả tâm, vì
thế càng tu càng chạy theo danh lợi và dục lạc thế gian.
Nếu đúng
nhân quả là định mệnh thì đạo Phật không bao giờ tuyên bố
làm chủ sanh, già, bệnh, chết, và không dạy người tu tập ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng
thiện. Vì không chuyển hóa được nhân quả nên đạo Phật không ra đời, vì ra đời
có làm lợi ích gì cho ai.
Nếu đúng
nhân quả định mệnh thì đạo Phật
không bao giờ có
pháp môn Tứ Niệm Xứ và Tứ Thánh Định.
Đối với đạo Phật
do vô minh mà
có nhân quả, thiện
ác, khổ đau;
do vô minh
mà con người mới chạy theo dục
mới tạo
ra muôn vàn sự khổ
đau. Vì thế, đạo Phật
ra đời dạy người giới luật và trí
tuệ: “Giới luật ở đâu
thì trí tuệ ở đó,
trí tuệ ở đâu
thì giới luật ở đó. Giới
luật làm thanh tịnh
trí tuệ, trí tuệ làm thanh tịnh giới luật‛.
Đó là những
đức hạnh bằng giới
luật và tri kiến
của con người làm chủ nhân quả
theo đúng những pháp hành Tứ Niệm Xứ
và Tứ Thánh
Định. Các nhà học giả
đã phỉ báng
Phật trong đoạn kinh này
và còn phỉ báng đệ tử của Ngài là ngài Mục Kiền Liên, một vị đệ tử
đã tu chứng
quả A La Hán có
đầy đủ thần
thông mà đức Phật thường
ca ngợi ngài Mục Kiền Liên là đệ nhất thần thông thế mà bị ngoại
đạo đánh chết
thì không còn chỗ nào phỉ báng
Phật, Pháp, Tăng
hơn là
kinh
sách phát triển
do các Tổ
Bà La Môn khéo léo xen vào từng đoạn kinh Phật để
xuyên tạc phá hoại chánh pháp của đức Phật.
Ở đây
chúng tôi xin nhắc lại để thấy một
sự vô lý hết sức: Người thợ rèn Cunda chưa bao giờ ăn nấm này, nếu đã ăn thì ông
đã chết, vì là nấm độc như đức Phật đã nói: ‚Này Cunda, Ta không thấy một ai, ở
cõi Trời, cõi Người,
ở Ma giới,
ở Phạm thiên
giới, không một người nào trong
chúng Sa Môn và Bà La Môn
giữa những Thiên Nhân, món ăn mộc nhĩ này mà có thể tiêu
hóa được”.
Khi một món
ăn chưa bao giờ mọi
người ăn mà đức Phật dạy:
‚Này Cunda, loại mộc nhĩ
đã soạn sẵn,
hãy dọn cho Ta, còn các món ăn khác đã soạn sẵn loại cứng loại mềm,
hãy dọn cho chúng Tỳ kheo‛.
Nếu người thợ
rèn Cunda nghe lời dạy này thì phải nghi ngờ và tự hỏi: ‚Tại sao Phật không cho chúng Tỳ kheo ăn thứ mộc
nhĩ này?‛. Khi đã có
câu hỏi như vậy thì Cunda liền đem món đồ ăn này xem lại.
Khi nghe đức
Phật nói như vậy, Ông ta lại dồn
món ăn mộc
nhĩ này chỉ
có đức Phật
ăn mà thôi, thì thật
là vô lý.
Đây là sự
vô lý
không thể
tha thứ được. Có
đúng như vậy không các bạn?
Về phần
đức Phật là một người
tượng trưng cho trí tuệ, Ngài dựng lên nền
đạo đức nhân bản
- nhân quả, sống không
làm khổ mình, khổ người và khổ cả
hai mà lại ăn nấm độc để làm khổ mình và gây hoang mang dao động cho chúng Tỳ
kheo, nhất là làm cho người thợ rèn Cunda sẽ ăn năn hối hận suốt đời, nếu biết đức Phật vì thọ thực nấm của ông cúng dường
mà chết.
Trong khi đức
Phật có đủ khả năng tự tại trong sanh tử, muốn chết hồi nào
là chết được ngay liền, chết trong khi thân không có một chút bệnh khổ. Chính đức
Phật là người chết không vì bệnh đau mới đúng nghĩa của đạo giải thoát. Cho nên
ở đây, người
đời sau đã thêm vào
những đoạn kinh làm
mất ý nghĩa
giải thoát của Tứ Niệm Xứ.
Điều vô lý
nhất là đức Phật biết nấm độc mà lại ăn
vào chết trong
đau bệnh kiết lỵ ra máu. Bệnh
kiết lỵ ra máu trong
tuổi già như Phật thì khổ sở biết là dường bao.
Cho nên, thật
vô lý đạo Phật là đạo tự tại trong sanh tử, cớ sao đức Phật lại phải ăn nấm độc để bệnh rồi chết, chết một cách
đau khổ
như vậy? Mục
đích đạo Phật ra đời là giúp cho con người sống chết tự tại an vui, chết không
phải vì bệnh. Vậy ai là người đã viết đoạn kinh này, người ấy phải
chịu những tội lỗi rất lớn
đối với Phật giáo.
Đạo Phật vốn
không làm khổ mình, khổ người, sao Phật lại
làm khổ Phật,
làm khổ người như vậy? Thì nền đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người của
Phật giáo đâu còn có nghĩa gì đối với người đời sau nữa. Đây là một đoạn kinh
mà các Tổ dùng để diệt Phật giáo. Các bạn
có biết không?
Điều vô
lý thứ hai là đức Phật, một
người có đại trí tuệ, đại giác ngộ. Đại trí tuệ, đại giác ngộ sao lại
ăn nấm độc để bệnh
mà chết, thì trí tuệ đó đâu còn là trí tuệ nữa, nó là
vô minh. Phải không các bạn?
Các bạn bảo
rằng đó là nghiệp nhân quả đời trước của đức Phật, ngày nay đức Phật phải trả. Các bạn
đừng nói
vậy, nói như vậy là các
bạn không hiểu đạo Phật. Đạo Phật là đạo chuyển nhân quả như trên đã nói. Do
chuyển nhân quả mới
làm chủ được sanh,
già, bệnh,
chết,
Chuyển nhân
quả nên đức
Phật mới có đầy đủ
trí tuệ thấy biết loại mộc nhĩ ăn vào sẽ
chết, cho nên,
mới cản ngăn
không cho chúng
Tăng ăn.
Tại sao đức
Phật không bảo Cunda bỏ những thực phẩm có nấm độc này đừng cho mọi người ăn
trong đó có cả đức Phật. Chỉ cần bảo như
vậy thì đức Phật mới là người trí tuệ
và thể hiện đạo đức nhân bản –
nhân quả sống không làm khổ mình, khổ
người và khổ cả hai.
Tu như Phật
đã làm chủ được
nhân quả, làm chủ được
đau bệnh. Như đoạn kinh trên nói đức Phật đau gần như chết, thế
mà đức Phật đẩy lui được bệnh khổ ra khỏi thân trong sức tỉnh
giác chánh niệm của pháp
môn Tứ Niệm Xứ. Làm chủ bệnh được
như vậy, thế mà món thực phẩm
nấu với loại
nấm độc này không đổ bỏ đi được sao?
Người tu
hành chưa chứng
đạo đọc đến đoạn kinh này họ
có nhiều nghi vấn nhưng không
biết hỏi ai
mà thôi. Nếu hỏi các Thầy
Đại Thừa và các Thiền Sư Đông Độ thì họ bảo rằng: ‚Chẳng muộïi nhân quả‛ như Tổ
Bách Trượng đã dạy: ‚Trong câu chuyện
Bách Trượng dã hổ‛.
Tóm lại,
đoạn kinh này do các Tổ biên soạn
viết ra để thêm
vào trong kinh Đại
Bát Niết Bàn thuộc kinh sách
Nguyên Thủy để nói
lên thuyết
nhân quả định mệnh
là của Phật giáo Đại Thừa. Nhưng thuyết nhân quả định
mệnh này
là của Bà
La Môn Ấn Độ và của
Thiền Tông Trung Hoa. Người tu hành
dù có chứng đạo cũng không làm chủ nhân
quả chỉ chẳng muôïi nhân quả mà thôi.
Do không hiểu
luật nhân quả thiện pháp chuyển ác pháp nên tưởng ra thuyết định mệnh nhân quả,
khiến cho biết bao nhiêu người
hiểu sai lạc.
Vì hiểu như
vậy nên các Tổ mới biên soạn viết đoạn
kinh trên đây để
thêm vào làm
cho sáng tỏ thuyết định mệnh, nhưng không ngờ vô tình lại phỉ báng Phật.
Tóm lại, đoạn
kinh trên đây không phải Phật thuyết mà
do các Tổ
thuyết. Cho nên, đoạn kinh này hoàn
toàn mâu thuẫn
với tinh thần giáo pháp của Phật.
Xin các bạn lưu ý mà hãy cảnh giác những
đoạn kinh như vậy thường xen vào kinh sách Nguyên Thủy để dìm Phật giáo.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!