No lòng như chúng con,
Ðể rồi quyết chí tu, Giải
trừ tâm ác độc,
Tăng
trưởng hạnh từ bi, Thương xót
khắp quần sanh, Thể hiện pháp thiền định,
Ra khỏi nhà sanh
tử, Làm chủ đường luân hồi, Báo đáp bốn trọng ân, Gìn giữ ngôi Tam Bảo Cửu trụ mãi muôn đời.
NAM MÔ PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI.
Sau khi
thầm đọc lời ước nguyện kính dâng lên lòng
thành kính biết ơn của mình, người
tu sĩ ăn:
1. Miếng cơm thứ nhất, ước
nguyện: “LY
DỤC, NGĂN ÁC, DIỆT ÁC PHÁP”.
2. Miếng cơm thứ hai, ước nguyện:
“SANH
THIỆN, TĂNG TRƯỞNG THIỆN PHÁP”.
3. Miếng cơm
thứ
ba, ước nguyện: “TẤT CẢ CHÚNG SANH ÐỀU LY DỤC, LY ÁC PHÁP, KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ NGƯỜI”.
Sau khi đọc xong lời ước nguyện, người
tu sĩ
bắt đầu giữ gìn ăn uống trong sự im lặng.
|
. . .
Ước nguyện sau khi thọ thực
|
au khi thọ thực và uống nước xong, người tu sĩ chắp tay lên, thầm đọc lời ước nguyện
biết
ơn những đàn na thí chủ đã cúng dường tứ sự nuôi thân
cho mình:
Nguyện thọ bữa cơm này,
Chúng con mãi nhớ ơn Người nông phu khó
khổ, Kẻ dệt cửi nhọc
nhằn, Giọt mồ hôi nước mắt Làm ra của cúng dường.
Người đàn na thí chủ Vì Phật pháp trường tồn Chẳng nề công khó khổ
Kính ngưỡng
cúng dâng lên.
Chúng con
nguyện giữ gìn, Chẳng
dám phung phí phạm, Ngày một bữa nuôi thân,
Chẳng dám ăn phi thời,
Vì phi thời phí phạm
Như ăn thịt con mình.
Chúng con nguyện
hết sức
62
Năng
nổ siêng tu hành,
Giải thoát thân tâm mình Ra khỏi nhà sanh
tử,
Đền đáp ơn chư Phật, Ơn sanh thành dưỡng dục, Ơn đàn na thí chủ.
Chúng con cũng nguyện
cho
Kẻ còn người
đã mất Đều được hưởng Phật pháp, Tâm ly dục, ly ác,
Không làm khổ mình, người.
NAM MÔ PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI.
Xin quí vị tìm đọc Ðường Về Xứ Phật, từ tập 1 đến tập 10, quí vị sẽ rõ những
thâm ý độc ác của
Bà La Môn quyết tâm diệt sạch Phật giáo trên
hành tinh này và những
kiến giải sai lệch của các
nhà học giả xưa và nay, vì danh lợi đã biến Phật giáo
thành một giáo lý bị thế tục hóa.
HẾT
|
|
. . .
|
Trau
Dồi
TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
|
|
. . .
|
|
L ỜI NÓI ĐẦU
|
rước
đây, chúng tôi
đã giảng về Tứ
Vô Lượng
Tâm, nhưng chưa có nêu
pháp hành rõ rệt. Bây giờ chúng tôi sẽ trình bày những pháp hành cụ thể, cũng giống
như sau khi có được địa danh, bây giờ
ta lấy địa chỉ rõ ràng để đi đến nơi đến chốn.
Tâm ta vốn dĩ đầy ắp tham, sân, si, không phải hàng ngày cứ nói diệt tham, sân, si mà nó hết đâu. Phật nói dùng tâm từ để diệt tâm sân, nhưng tâm chưa có từ thì làm sao diệt được sân? Vậy làm thế nào để trau dồi tâm từ? Phải trau
dồi, tập sống với tâm như tâm Phật (rộng lớn vô bờ bến), phải tập dứt ác và thể hiện tình thương rộng lớn. Thí dụ khi người chửi ta, liệu ta có thương họ mà tha thứ cho họ được không? Hầu hết chúng ta đều nhớ lời Phật dạy “lấy tâm từ để diệt lòng sân hận”, nhưng có mấy ai làm được? Và làm thế nào để thể hiện tâm từ vô biên?
Tu là phải thực tập, rèn luyện từng chút mới có được từ, bi, hỷ, xả. Nếu Thầy nói mà các con nghe chơi, và chẳng thực tập
gì
cả thì thật là uổng công, mệt sức, mất thì giờ vô ích. Khi vào đạo Phật trước tiên chúng ta nhớ là phải thông hiểu. Sau khi thông hiểu thì
ta phải trau dồi (nhìn vào địa chỉ để mà đi).
Thế
nào là
Tứ
Vô
Lượng
Tâm?
Tứ là bốn, Vô lượng Tâm là tâm rộng lớn mênh mông, phủ trùm tất
cả chúng sanh, không thể nào suy lường, tính
toán được. Tâm này thoát ra khỏi sự ràng buộc dây mơ rễ má của mọi tình cảm, thương ghét, giận hờn, tỵ hiềm, kiêu căng, nghi ngờ, ngã mạn của phàm phu,
phá vỡ mọi tà kiến, thân kiến, chấp kiến. Càng trau dồi
Trưởng Lão THÍCH THÔNG LẠC
tâm thì nó càng rộng lớn và sự hiểu biết của ta càng phát triển. Từ đó ta mới thực hiện tâm vô
ngã. Nếu không có bốn tâm từ, bi, hỉ, xả thì ta khó thực hiện được tâm vô ngã. Vô lượng tâm còn có nghĩa là đẳng tâm, là tâm bình đẳng (xem người và vật như nhau). Tâm này tự nhiên, không so đo, cao thấp,
hơn kém, mà phổ biến, ban rải khắp mọi nơi, mọi chỗ, không giới hạn. Do trau dồi tâm bình đẳng này mà làm lợi ích
cho vô lượng chúng sanh thoát khổ. Tâm này có công năng mang lại cho chúng sanh vô lượng phước báo,
nghĩa
là không bao giờ làm phiền lòng ai. Biết rằng ở đời ai cũng có cái khổ, cái khó khăn, nên ta cần phải thường xuyên áp dụng tâm bi. Thí dụ khi có một người tức giận ta, ta hiểu là người ấy đang khổ (bởi vì tâm bình thường đâu có đau khổ). Khi thực hiện tâm bi là thực hiện ở chỗ đau khổ, tai nạn của người. Nếu thực hiện
được tâm từ thì ta có thể đem lại lợi ích cho chúng sanh trong nước và các nước khác, ta sẽ sống an vui, không có chiến tranh, đau khổ.
Vô lượng phải hiểu qua năm trường hợp sau đây:
1 - V ô l ư ợ n g n h â n l à n h : đem lại nhân lành cho mọi người. Thí dụ khi người ta chửi mình thì mình không giận mà còn năn nỉ
để họ mát dạ, không chửi nữa.
Đó là ta thông cảm và
giúp
đỡ họ.
2 - V ô l ư ợ n g q u ả đ ẹ p : luôn luôn đem đến sự tốt đẹp, không
phiền toái, khiến cho chúng sanh nào cũng được an lành.
3 - V ô l ư ợ n g c h ú n g s a n h : mang lại lơị ích cho rất nhiều chúng sanh. Thí dụ trong y áo của chúng ta có đầy kiến. Học tập tâm từ thì ta không nên đập giủ mạnh khiến cho chúng có thể
bị thương tích
và chết mất. Vì mưa gió cho nên
chúng mới chạy vào nhà tìm nơi trú ẩn. Nếu ta không muốn cho chúng vào thì phải ngăn chặn từ đầu. Bây giờ nó vô đầy trong nhà mà ta quét đổ hết ra ngoài mưa, hoặc đem đốt đi thì tội vô cùng.
4 - V ô l ư ợ n g t h ế g i ớ i : cả thế giới trùng trùng, điệp điệp (không gian).
5 - V ô l ư ợ n g đ ờ i k i ế p : đời đời kiếp kiếp được an lành (thời gian).
|
THÀNH PHẦN VÀ HÀNH TƯỚNG
CỦA TỨ VÔ
LƯỢNG TÂM
|
Thành
phần của
tứ vô lượng
tâm là
Từ vô
lượng, Bi vô lượng,
Hỷ vô lượng và Xả vô lượng.
I- TỪ VÔ LƯỢNG
|
ừ Vô lượng
là lòng mến thương
vô cùng, vô tận của chúng ta đối với tất cả chúng sanh,
từ con người đến con vật, cây cỏ. Lòng từ ban rải khắp
tất cả thì ta sẽ tránh (vô tình) gây đau khổ cho
chúng sanh, và đem lại cho chúng sanh cái vui chân thật. Cái vui do chính lòng từ mang đến
sẽ
làm cho vạn vật vui mừng, cỏ cây tươi tốt,
trong đó có ta. Đức
Phật khi đi còn không giẫm, đạp lên cây cỏ sợ
nó héo úa, thậm chí còn không
bỏ thức ăn lên cỏ vì sợ thức
ăn mặn làm chết cỏ,
còn ta thì cứ đạp bừa
lên,
nhổ tận gốc rễ. Bởi vậy
chúng ta cần phải thực hiện Tứ Vô Lượng Tâm.
Nói về lòng từ thì trong đời sống của chúng ta
có hai cái vui:
1- Cái vui bền bỉ chân thật.
Đây là lòng từ, bi, hỷ, xả của ta ban rải khắp
mọi loài chúng sanh trong mọi
hoàn
cảnh, khiến cho tất cả đều được an vui.
2- Cái vui ngắn
ngủi giả tạm. Đây là
cái vui còn bị phiền não chi phối
vì có tham, sân, si đòi hỏi.
Cái vui này là vui theo dục lạc, được thì vui,
mất thì buồn; và dục lạc không bao giờ
có thể thỏa mãn hoàn toàn được. Phật dạy: “Kẻ
ngu si, vô minh mới chạy theo dục lạc. Nó là thứ dục lạc
ảo giác, không có thật, chỉ có người trí mới hiểu
biết mà thôi”. Bởi vậy, theo lộ trình mà thầy hướng
dẫn thì phật tử phải đi theo đúng đường để
thoát khỏi phiền não tham, sân, si và không bị dục
chi phối. Nó không ồn ào sôi nổi, mà yên lặng,
nhẹ nhàng. Một bóng, một mình mà vui trong
cảnh giới siêu phàm, khi hòa mình cùng cái vui
của vũ trụ, vạn hữu. Trong niềm vui bất diệt của
vạn pháp, thấy ta có vẻ cô đơn mà thực sự không cô
đơn. Ta phải so sánh để chọn lấy một nguồn
vui chân thật. Muốn tìm được nguồn vui chân thật
thì hàng ngày quý vị phải trau dồi thân tâm của mình
trong ba hành động của nó. Nghĩa là hằng ngày trau dồi ba hành động của thân bằng pháp
môn cụ thể.
Trong người của ta có ba
cái hành khác nhau là thân hành, khẩu
hành và ý hành. Ta phải lấy tứ vô lượng
tâm để trau dồi ba cái hành này:
a) Thân hành có hai: chân
hành và tay hành. b) Khẩu hành gồm có hai: ăn và nói.
c) Ý hành gồm có ba: ý thiện, ý ác và ý không thiện không ác.
✿✿✿
A) Trau dồi từ tâm nơi Thân hành
1- CHÂN HÀNH: Khi đi thì ta phải
theo sát
hành động đi và có pháp hướng tâm (Như Lý Tác
Ý) để
gợi lên lòng
thương yêu của ta đối với
chúng sanh. Đây không phải là tu Chánh Niệm
Tĩnh Giác Định, mà là mượn cái hành động chân
đi để
thực hiện tâm từ ở dưới bàn chân, trong mỗi
bước đi của chúng ta. (Mỗi người có thể tùy theo
đặc tướng riêng của mình, soạn thêm những câu
pháp hướng tương tự cho phù hợp với mình).
a- ĐI: Cần phải phân biệt thế nào là tâm
và thế
nào là ý?
Ý là nhân, tâm là quả, cho nên ý làm
mà tâm chịu (Ý làm ác tâm chịu khổ, ý làm thiện tâm hưởng
phước).
Kinh Pháp Cú có câu:
“Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo. Nếu với ý
ô nhiễm,
Nói lên hay hành động, Khổ não bước theo sau Như xe, theo vật kéo”.
Ý thì có ý căn (óc não), còn
tâm thì không có tâm căn, vì tâm
là quả của ý, ý là nhân của tâm.
Nếu gọi tâm mà bảo là ý thì cũng như đánh trâu
kéo cày vừa la “thá”, vừa la “ví” thì con trâu biết
đường đâu mà đi? Bởi vậy nên có người mới thắc
mắc mà hỏi tại sao dùng pháp hướng nhắc
tâm mà nó vẫn trơ trơ không có kết quả. Tại vì ta đặt
không đúng chỗ, không đúng tên, không đúng trường hợp của nó thì làm sao có kết quả được?
Bây giờ các bạn đã phân biệt được
ý và tâm, nhờ đó chúng ta dùng ý dẫn tâm để thực hiện tâm từ
nơi bước đi:
“Dưới bước chân ta đi, có rất nhiều sinh vật nhỏ
bé và thảo mộc đang sống. Ta phải đi cẩn
thận để tránh thương tổn, hoặc giết hại các sinh
vật”.
Nhờ nhắc như vậy mà tâm
ta
tỉnh thức và lưu ý
ở bàn chân. Đi một lúc, sợ nó quên thì ta lại nhắc nữa. Nhờ nhắc nhở hoài nó gây cho ta tâm thương yêu
thắm thía. Nếu hàng ngày trau dồi tu tập như thế
thì lòng từ của ta huân tập thành thói quen thương
xót và ban rải khắp
chúng sanh. Khi tâm từ
ta ban rải thì ngọn cỏ ta cũng không nỡ đạp lên, sợ nó mềm yếu, héo úa. Khi ta trau dồi lòng từ
như vậy thì nếu người ta có chửi mắng ta, ta cũng không
giận. Bấy lâu nay nếu ta không trau
dồi thì dù có nghe, có lập lại “phải quán từ bi để diệt tâm
sân” nhưng ta không
tập, hoặc tập không rốt ráo
thì khó mà thành công. Quán thì ngồi im lìm, đó là tịnh; còn ĐI là động, ta phải trau dồi
trong hành động.
Trên đây là cách tập luyện thực
tiễn của người cư sĩ.
Đợi đến khi thành Bồ tát rồi mới trau dồi
Tứ
Vô Lượng Tâm là một điều sai lầm. Người cư
sĩ
phải học tập và trau dồi ngay tâm từ,
bi,
hỷ, xả để cuộc sống an vui, xã hội tốt đẹp hơn, và đất
nước thanh bình, không có tranh chấp, chống đối
nhau. Còn các tỳ kheo thì học tập để giữ gìn giới
luật và tu tập thiền định.
b- ĐỨNG: Khi đứng ta cũng nhắc: “Chúng sanh chung quanh ta có rất nhiều, nếu ta đứng
trên chúng thì chúng có thể bị tổn thương, héo úa,
hoặc bị đè bẹp mà chết”. Từ nay mỗi ngày ta
phải ráng thực tập
ít ra vài ba lần. Có tu tập như
vậy thì lòng ta mới
thấm
nhuần vạn vật muôn
phương.
c- NẰM: Khi nằm ta cũng nhắc như vậy. Do đó, trong ngày nếu có bao nhiêu lần ta đi, đứng,
nằm, ngồi thì ta được bấy nhiêu lần trau dồi. Cũng như
người thợ vót tên, mỗi ngày cứ chăm chỉ vót mũi tên cho nhọn và đều thì cuối cùng cũng sẽ đạt như
ý muốn. Thân ta cũng phải trau dồi như vậy thì
tâm ta mới được an vui.
Đây là câu pháp hướng
khi nằm:
“Tất
cả chúng
sanh sẽ ở dưới lưng ta. Ta hãy xem xét kỹ chỗ nằm có chúng sanh ở dưới đó không rồi
mới nằm”. Nhiều lúc ta quá mệt mỏi và ta không để
ý có các sinh
vật
ở dưới, nếu ta vô tình
nằm lăn qua lăn lại là ta đã giết chết chúng
sanh (kiến, nhện, dán, bò cạp, v.v...), nó rên la đau đớn
mà ta
nào có hay. Bởi vậy khi lăn qua, lăn lại ta phải
nhắc tâm, lưu ý và thực hiện cho được từ,
bi, hỷ, xả. Muốn trau dồi lòng từ thì hàng ngày ta phải
siêng năng, nỗ lực tu tập thì mới có kết quả. Tâm
ta dần
dần sẽ thấm nhuần,
rộng lớn bao la.
d- NGỒI: Khi ngồi ta cũng nhắc như vậy: “Khi
ngồi ta có thể đè bẹp chúng sanh ở
phía dưới. Vậy ta phải cẩn thận, quan sát xem có chúng
sanh ở chỗ ngồi không. Nếu không để ý, khi
ngồi lắc qua lắc lại ta có thể làm đau khổ và
chết chóc chúng sanh”.
Trau dồi tứ vô lượng tâm là thể hiện tâm từ vô
lượng mà còn phòng hộ sáu căn. Người tu sĩ mà ngồi
lắc lư thì mất trang nghiêm,
mắt
láo liên, ngó qua, ngó lại là không đoan trang. Người tu
sĩ thì không nên nhìn người
khác
phái mà phải nhìn xuống dưới đất, tránh gây đau khổ, chết chóc cho chúng
sanh.
Trên đây là trau dồi hành động của thân khi đi, đứng, nằm, ngồi, tức
là ta
tỉnh thức để tránh gây
đau khổ, chết chóc cho chúng sanh. Trau dồi hành động
của thân khiến ta càng ngày càng tăng thêm tình
thương đối với chúng sanh để có (1) sức tỉnh
thức lớn, (2) lòng thương yêu
nhiều. Nhờ đó mới diệt
trừ được tham, sân,
si
và dứt trừ ngũ triền cái.
Khi tứ vô lượng tâm ngự trị ở tâm ta thì ngũ triền cái sẽ không còn đeo đẳng theo ta nữa. Sự thật
không phải đơn giản; mà chính ta phải ra sức tu tập bền chí siêng năng mới thắng được.
Mình nói mình thương chúng sanh mà thực tế là mình
thương mình, chứ chưa có thương ai
hết. Xưa, có câu
chuyện của Hoàng
Hậu Vi Đề Hy hỏi vua
Bình Sa Vương (Bimbisara) rằng: “Bệ hạ có
thương thần thiếp không?” Vua rất đỗi ngạc nhiên,
đáp rằng:
“Trẫm không thương ái khanh thì còn thương ai nhất trên đời này?”
Hoàng Hậu đáp: “Hoàng Thượng
nói vậy chứ thật ra Hoàng Thượng thương
Hoàng Thượng nhất!”
“Sao lạ vậy?”
“Thí dụ bây giờ
thần thiếp yêu một ông quan
nào trong triều thì Hoàng Thượng
có còn thương thần thiếp nữa không, hay là bắt giam thiếp vào
trong ngục hoặc đem xử tử? Đó là Hoàng
Thượng thương Hoàng Thượng chứ đâu có thương
thần thiếp!”
Quả thật, nếu hay tin vợ mình lấy một người khác thì người chồng sẽ nổi cơn thịnh
nộ ngay. Vậy thì yêu ở chỗ
nào?
Nếu là yêu thật sự thì phải
để cho người mình yêu được hạnh phúc chứ? Là đệ tử Phật khi bị một con vật cắn đau (dù là con bò cạp) ta cũng không nỡ giết
hại nó. Chính vì
lòng ích kỷ nhỏ nhen đó mà xã hội mới có tranh chấp, bất an, chứ nếu lòng thương
yêu của chúng ta rộng lớn chắc chắn không có sự bất an đó.
Cho nên bài học đầu tiên trong Phật pháp là
Tứ Vô Lượng Tâm. Tại sao thế? Vì muốn con người biết thương yêu nhau, và xây dựng một xã hội tốt đẹp, có trật tự, an ninh. Hình thức bên
ngoài thì ta thấy các quốc gia,
xã hội có trật tự, mà
bên trong thì chưa có. Đời sống ngày càng khó
khăn thì lòng người càng ly tán. Đức Phật dạy ta
phương pháp để trau dồi tâm từ. Khi ta đang đi thiền
hành và biết dùng pháp hướng nhắc tâm tức là ta đang trau dồi tâm từ. Còn nếu trong bước đi
mà ta thấy trong ta có tình thương
yêu rộng lớn, và luôn
luôn tránh né để không giẫm đạp lên kiến hay
bất cứ một loại côn trùng nào, tức
là ta
viên mãn lòng từ vô lượng. Với tâm từ như vậy thì ta
không nỡ đạp lên cỏ, ngắt một ngọn lá, bẻ một
cành cây, hay hái một cành hoa. Tâm
ta phủ trùm,
thương yêu khắp vạn vật. Chỉ cần một pháp này cũng đủ để giải thoát. Khi có lòng
thương rộng lớn thì không tham,
không giận, và ngã chấp cũng không
còn. Thương yêu cá nhân thì ngã mới có. Không
phải chờ đến khi nhập Tứ Thiền, đắc Tam
Minh
mới diệt hết lậu hoặc, chẳng phải chờ đến
khi nhập Niết Bàn mà lòng ta đã là Niết Bàn sau
một năm tu tập tinh chuyên!
Giờ đây chúng ta mới hiểu vì sao Phật cấm các
tỳ kheo trồng cây cối, hoa kiểng, không làm một nghề nào cả. Còn làm là còn động
đến chúng sanh, là làm cho chúng sanh đau khổ. Không phải ta ích
kỷ, mà vì ta
muốn
thực hiện
lòng
yêu thương phủ trùm vạn vật. Tóm lại, hàng ngày chúng ta phải trau dồi tâm từ trong bốn oai nghi đi,
đứng, nằm, ngồi bằng pháp
hướng tâm.
2- TAY HÀNH: Trau dồi tâm từ trong hành động
tay là khi đang cầm, nắm, bắt tất cả những vật dụng, hoặc khi mặc áo, ăn cơm, ta phải luôn luôn
như lý tác ý. Thí dụ như câu: “Tất cả những
vật dụng, cơm ăn, áo mặc, thuốc thang đều do
mồ hôi, nước mắt của người. Vậy ta phải biết ơn,
thương yêu họ và thương yêu mọi người, dù
người đó có hay không có cúng dường cho ta”. Thậm chí nếu có người đánh, mắng, chửi rủa ta, ta cũng không bao giờ đánh, mắng, chửi rủa, hay to
tiếng với họ, làm cho họ khổ sở. Ta phải nói lời
nhẹ nhàng cho người vui và không buồn khổ nữa.
Khi cầm,
nắm, bắt, tay ta cũng phải nhẹ nhàng,
từ tốn, vì trên đồ vật ấy có thể có chúng sanh, nếu
ta mạnh tay là ta có thể giết
chết sinh vật ấy. Tập
luyện như vậy là tập luyện tỉnh thức trong hành
động để trau dồi tâm từ, bi, hỷ, xả, chứ không phải là
Chánh niệm tĩnh giác định.
Muốn trau dồi tâm từ trong các hành động nơi
tay thì ta phải tác ý thường
xuyên để không vô ý làm đau khổ chúng sanh. Khi tinh tấn, siêng năng tu tập tức là ta thực
tập tĩnh giác, dần dần ta mới thật
sự thương yêu chúng
sanh. Khi chúng sanh
đang mạnh giỏi mà ta thương
yêu là ta ban lòng từ rộng
lớn; còn khi chúng sanh bị nạn, đau khổ mà
ta săn sóc, giúp đỡ là ta thực tập lòng bi. Hàng ngày
ta phải tránh né để cho chúng sanh sống an
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!