vui, ca hát là ta trau dồi lòng từ.
Từ thuộc về nhân, khi chúng sanh không bị đau khổ; bi thuộc về quả, khi chúng
sanh đang bị đau khổ. Người ta đang sợ hãi mà ta đến trấn an là bi. Nhường
chỗ
ngồi cho một bà già đang đi trên
xe đò là từ. Lòng từ biến mãn khắp mười phương,
khiến cho cỏ cây, vạn vật sống an vui, không có sự sát hại, gây khổ đau dù là vô tình giẫm,
đạp lên
côn trùng. Có lòng từ thì không có tâm chấp chặt,
chỉ có sự bình đẳng, thương yêu nhau xuất phát từ trong đáy lòng của ta.
Nếu ta
không trau dồi lòng từ thì nó chỉ là hình
thức suông, là những danh từ hoa mỹ “từ
bi, bác
ái”. Bấy lâu
nay
ta
nghe thấy các
danh
từ ấy nhưng
ta chưa thực hiện đúng mức giữa người và người,
cũng như giữa người và vật. Nói cho cùng, chúng ta lầm chấp thân tâm này là ngã (của ta).
Bao giờ ta còn lầm chấp như thế là ta không
có lòng từ bi thật sự. Muốn được thật sự có lòng từ bi
thì hàng ngày ta phải trau dồi nó thì ta mới có được. Nhờ đó mà bản ngã ta mới tiêu mòn và ta thấy trong vạn vật có mình, mà như
không có mình. Ta cần phải có câu pháp hướng để thực tập.
Đây là điều rất quan trọng, nó là ngọn đuốc soi
đường ta đi.
Khi nắm, bắt lấy một
vật gì, ta phải hành
động nhẹ nhàng, từ tốn. Đây là oai nghi, tế hạnh của
thầy tu. Mỗi hành động của
tay,
chân đều hướng tâm,
nhắc tâm ta thương yêu mọi loài. Từ đó tâm ta mới thấm nhuần sâu tận xương tủy, và biến
mãn ra thân mình đầy lòng
thương yêu chân thật.
Cần ghi nhớ
ở đây không phải ta tu tập Chánh niệm tĩnh giác định, mà là tu tập hạnh nhẫn nhục,
tùy thuận, bằng lòng, tu tập tỉnh thức để thể hiện
lòng từ bi. Người có lòng từ bi không bao giờ biết sợ hãi trước ác thú, hiểm nguy. Loài vật chung quanh ta cũng biết sợ
hãi (cọp, beo, voi, gấu). Do
sợ hãi mà nó nhìn ta chăm chăm (vì mắt ta có vẻ hung dữ?). Con vật thấy người tu, mắt nhìn xuống
thì nó an tâm và không sợ hãi.
Người không tu khi thấy con vật lớn thì lo cao chạy xa bay, khi thấy con
vật nhỏ thì đánh, bắt, giết. Bởi vậy họ có thể
bị ác thú giết hại (vì trong người họ toát ra từ trường ác). Người có tâm
từ thì không hãm hại thú dữ mà còn thương yêu nó nữa. Tu sĩ sống trong
rừng hài hòa với thú là do lòng từ chứ không phải
là do công phu thiền định. Những con vật nhỏ hơn như rắn,
rết, bò cạp có chất độc là để bảo vệ thân
nó khi nó bị tấn công, mạng sống bị đe dọa. Khi
có lòng từ thì đi trên xe đò ta cũng không sợ (bị móc
túi), vì đã ban rải lòng từ cho họ. Người
thường, nếu có cái gì quý giá thì họ nơm nớp lo
sợ, còn
ông thầy tu thì có cái gì mà sợ mất trộm?
không
phải là chuyện đơn giản. Đạt được phân nửa
là ta đã sống an vui, thanh thản. Nếu muốn đạt
lòng từ trọn vẹn
một trăm phần trăm thì ta phải vứt bỏ hết tất cả tài sản, của cải thế gian. Khi ta thật sự có tâm từ
thì trong lòng không còn sợ hãi nữa.
✿✿✿
B) Trau dồi tâm từ nơi miệng (Khẩu hành)
1- KHI ĂN, UỐNG, NHAI, NUỐT: Phải cẩn thận trong khi ăn uống, kẻo nhai nuốt
lầm chúng sanh. Thí dụ khi ta vội vã ăn một cái
bánh có mấy con kiến là ta nuốt chúng luôn. Ta phải từ từ, lấy que
nhỏ đưa con vật (kiến, sâu) ra khỏi thức ăn của ta (rau cải, trái cây, bánh, v.v...). Người
tu sĩ
cũng như cư sĩ đều phải thực tập như thế. Luôn luôn
phải như lý tác ý: “Khi
ăn,
uống, nhai, nuốt ta phải cẩn
thận để không nhai nuốt chúng
sanh. Làm cho chúng sanh
đau khổ, chết chóc trong khi ta ăn uống là một điều tội lỗi”.
2- KHI NÓI: “Muốn nói một điều gì phải cân
nhắc, suy tư chín chắn rồi mới nói”. Lấy đó làm
câu pháp hướng để không nói lời làm khổ mình,
khổ người. Lời nói ác độc, nói đùa, mỉa mai cũng
làm cho người ta đau khổ. Hầu hết
chúng ta không biết trau dồi lời nói, khi muốn nói là cứ nói tùy
thích, không hề nghĩ đến hậu quả của nó. Không
nên đặt
điều nói lời oan
ức
cho
người khác
(chuyện có nói không, chuyện
không
nói
có). Nếu mình không muốn người ta nói lời
oan ức cho mình thì mình cũng đừng
nói lời oan
ức
cho
người.
“Phải gìn giữ lời nói đúng đắn, không làm
khổ mình, khổ người”, để trau dồi tứ vô lượng tâm.
“Ta là người hay nhiều chuyện, lắm mồm,
vậy hàng ngày ta phải trau dồi miệng”. Tùy
theo nhược điểm của mình mà đặt thêm cho mình những
câu pháp hướng tương
tự cho phù hợp với đặc
tướng của mình.
“Ách giữa đàng, mang vào cổ, chuyện người
người biết, chuyện mình mình hay; đừng
có
tài khôn mà chuốc lấy họa vào thân”. Thật là vô ích
khi mình đến can thiệp vào chuyện của người để
rồi tranh chấp, đôi co.
Nếu thường xuyên hướng tâm thì ta rất tỉnh táo, khi nói sẽ cẩn ngôn (suy tư rồi mới nói) và
giảm tốc độ (có thì giờ suy nghĩ trước khi nói).
Nếu gặp chuyện xảy ra mà nói lia lịa, lỡ nói rồi
phóng theo tư tưởng ngã chấp thì có ngày sẽ chuốc họa vào thân.
“Từ nay ta phải yên lặng, sống thầm lặng
(độc cư), không được lắm mồm trước mọi hoàn cảnh,
mọi đối tượng”.
Do miệng lưỡi nói ra mà kẻ sân, người khổ, kẻ quyên
sinh. Do miệng lưỡi mà gia đình ly tán, bè bạn tránh xa. Do miệng lưỡi nói ra mà vạn vật, sinh linh phải chết (đến nhà người bạn chơi, khen con
gà tốt quá, nếu làm thịt
ăn thì ngon tuyệt). Do miệng lưỡi nói ra mà có người bị tù đày, biệt xứ. Miệng lưỡi nói ra mà gia đình người
ta xào xáo, anh em chia lìa, tăng đoàn tan rã, v.v... Nói chung, sự đau khổ của con người ta ở thế gian này phần đông là do miệng lưỡi. Vậy hàng ngày chúng ta phải
trau dồi miệng lưỡi để nói lời lành, lời thiện.
Phải thường xuyên như lý tác ý câu này:
“Ta không nói thì thôi, mà nói ra thì phải làm vui lòng người”.
“Nói ra mà làm vui lòng người là ta thương người”.
“Làm người ta phải thương người, thấy sự đau
khổ của người như chính sự đau khổ của
ta”.
✿✿✿
|
. . .
C) Trau dồi tâm từ nơi Ý hành
Muốn trau dồi ý, ta phải tư
duy: “Thân tất cả chúng sanh cũng như thân ta, thường đau khổ đói
khát. Ta hãy thương yêu và chăm sóc chúng như chăm sóc con ta vậy”.
Sự tư duy được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần khi
nhìn hoạt động các loài vật (một
đàn kiến đi qua), nó có buồn, vui, đau khổ (nó ra sức bảo
vệ khi bị con vật khác tấn công). Từ đó ta tư
duy đến đời sống của các sinh vật. Khi có con vật bị gặp tai
nạn ta phải ra tay cứu nó (con kiến té xuống nước
mà ta vớt lên là hành động của từ tâm). Khi nghe
con nhái bị con rắn cắn thì ta phải mau mau chạy ra can thiệp để cứu nó. Khi một bầy chó hùa nhau tấn
công một con chó khác trong xóm thì ta phải can
ngăn, một con chim nhỏ bị con chim lớn
mổ, cắn thì ta phải ra tay cứu giúp nó.
Khi để ý, quan sát đời
sống
của loài vật thì ta
mới thương yêu, cảm thông chúng. Lúc ngồi nghỉ
ngơi mà có thể giúp đỡ được cho chúng thì lòng ta thấy
vui mừng, tâm ta tỉnh táo và ta cũng tu tập thiền định
nhanh hơn là cứ ngồi yên một chỗ
luyện tập hơi thở.
rộng lớn hơn. Từ đó ta tư duy mới thấy hạnh phúc ở trần gian chỉ là giả tạo. Ngồi thiền nhập định để làm chủ sanh tử mà không trau dồi tâm ý là một
điều thiếu sót lớn. Thế nên, mỗi ngày chúng ta
cần phải bỏ ra vài ba phút, hoặc hai ba chục phút để quan sát mọi loài, lắng nghe tiếng kêu khổ, cầu cứu của chúng sanh. Hành động như vậy sẽ giúp cho
sự tu tập của ta rất nhiều. Từ trước
đến nay,
chúng ta tu tập mà không có người hướng dẫn cặn
kẽ,
không biết phải tu TỨ VÔ LƯỢNG TÂM như thế nào, trau dồi
ra sao, lấy cái
sau tu phía
trước, lấy cái trước đem tu phía sau.
Trau dồi lòng từ là “tu” cái tham, sân, si chứ
không phải diệt tham, sân, si rồi mới tu tập lòng từ.
Cứ mãi lo nén tâm, tập hơi thở, ngồi thiền làm
cho dứt sanh tử luân hồi, trong khi tham, sân, si
chưa dứt thì làm sao có lòng từ? Đức Phật dạy các tu sĩ và cư sĩ tu tập để sống một đời an vui, xã hội có trật tự an ổn. Nếu ta tu một hai năm và trau dồi
tứ vô lượng tâm qua thân, khẩu, ý thì chắc chắn ta sẽ có hạnh phúc rất lớn, hạnh phúc chân thật cho
ta và gia đình ta. Hãy tự hỏi bấy lâu nay ta tu tập,
5 năm, 10 năm, 20 năm mà gia đình ta có an vui, giải
thoát không, hay là như ngục tù, đau khổ? Nơi
nào đạo Phật đến
thì phải có giải thoát thật sự. Nếu không thấy giải thoát thật sự thì đó không
phải là đạo Phật
chân chánh.
Có bao giờ quý vị nhìn cỏ cây, ngắm hạt
sương đọng trên cỏ vào buổi sáng tinh mơ? Có bao giờ
quý vị để ý đến ngọn cỏ non mấy bữa trước, hôm
nay đã bung ra thành
lá cỏ không? Hãy theo dõi cuộc sống đang diễn biến trước
mắt chúng ta, rồi ta
mới thấy thương yêu cỏ cây, loài vật. Cỏ cây và loài vật mà ta thương được thì làm sao mà ta
không thương được con người?
Dù cho người có oán ghét ta, ta cũng không để dạ, mà phải
sống buông xả và thanh thản.
Do đó đời ta không có người
thù mà chỉ có người đã hiểu và người chưa hiểu
ta mà thôi.
Khi ta trau dồi được ý
thì thân và khẩu sẽ
không còn khó khăn nhiều.
✿✿✿
|
II- BI VÔ LƯỢNG
|
|
i vô lượng
là lòng thương vô bờ bến trước
nỗi khổ của chúng sanh. Người có lòng bi
không đành lòng ngồi yên nhìn sự thống
khổ của chúng sanh. Đành rằng sự đau khổ của thế nhân là cái
duyên nhân quả, nhưng lòng bi không cho phép chúng ta làm ngơ.
Phải dùng lời khuyên bảo,
thăm hỏi, có hành động cứu giúp (khi thấy
con vật
bị gãy chân, ta ôm
nó vào lòng, xoa nhẹ trên vết
thương). Đừng sợ mất thì giờ trong cuộc đời ta, khi phải lo giúp đỡ cho người và cho vật. Hành
động đó, thời gian đó quý báu hơn là vàng bạc, ngai
vàng của nhà vua. Làm được việc ấy, thì lòng ta
cũng cảm thấy hân hoan. Vàng bạc, của báu không
thể đem lại nguồn vui lâu dài bằng niềm
vui giúp người, vật bị lâm nạn, đau khổ.
Nên nhớ, khi giúp cho chúng sanh được an vui,
hạnh phúc, ta cũng tìm cách giúp cho chúng sanh
xa lìa nhân ác, để sống vui, chứ không phải chỉ
giúp họ khi họ bị khổ. Và khi họ cứ rơi vào đường
khổ thì phải dạy cho họ hành động thiện, tập nhân tốt
để tránh quả khổ. Lúc còn ở Hòn Sơn, thầy đã lấy cái que can hai con kiến ra mà nó vẫn cứ xáp
vô đánh nhau hoài. Cuối cùng, thầy phải can
ra và cách ly hai con vật xa thì chúng nó mới
hết cơn giận. Con vật mà như vậy, huống hồ là cơn sân
hận của con người!
Khi chúng ta trau dồi tâm từ,
là
ngăn ngừa những điều kiện có thể làm cho chúng sanh đau khổ,
còn trau dồi tâm bi là nhắm ngay vào sự đau
khổ của chúng sanh để mà xoa dịu, an ủi. Muốn được như vậy, thì lúc nào ta cũng trau dồi, nhắc nhở tâm ta: “Hãy thương người đang sân”. Khi nào rảnh rỗi, thì phải tự nhắc tâm như
thế, chớ không phải đợi đến lúc sân hận nổi lên mới áp dụng.
Nếu thường xuyên thực tập, nhắc nhở như thế,
thì khi thấy một người đang sân với ta, ta mới
có thể thương được.
“Hãy thương
người đang bị bệnh khổ”. Nhiều lúc ta cứ tưởng là ta thương người, nhưng thật ra ta không thương
người bằng ta thương ta. Đó là một trạch pháp mà ta phải thường áp
dụng để nhắc nhở tâm mình.
“Hãy thương người đang buồn khổ”. Nhắc
tâm như thế để ta tìm cách giúp đỡ người, đồng
Trưởng Lão THÍCH THÔNG LẠC
thời cũng gợi được nơi ta lòng thương người đang buồn
khổ.
“Hãy thương người có
tai nạn”. “Hãy thương người
trộm cắp”. Đó là những câu trạch pháp
mà ta thường áp dụng để nhắc nhở, và tìm
mọi cách để chỉ cho họ thấy cái nhân đau khổ để
họ không còn tham lam, trộm cắp nữa.
Vì thương người nên khi thấy người đến trộm cắp của ta thì ta
không giận mà còn
thương hại họ. Nếu ta không thường trau dồi lòng bi thì ta có thể bắt họ bỏ tù.
“Hãy thương người đang si mê”. Người đang
uống rượu, hút thuốc, cờ bạc, v.v... là người đang si mê. Giả sử có người đến
chửi mắng ta, hỉ mũi quẹt cột, khạc nhổ, và còn gọi là “thầy chùa này,
thầy chùa nọ”, liệu ta có chịu đựng nổi không? Lúc ấy ta phải nhắc tâm, ta hiểu là họ đang mê
muội thì ta thương hại họ. Nếu tha thứ được cho
người thì ta sẽ không khổ.
“Hãy thương người đang tị hiềm”. Khi biết
có người tị hiềm, tìm
cách nói xấu ta, mà ta không
giận họ; trái lại còn thương hại họ.
“Hãy thương
người đang cống cao, ngã mạn”. Kẻ nào cho rằng mình hiểu biết
tất cả, và đã chứng ngộ là người đang si mê, cầu danh, chấp
ngã rất nặng. Do đó ta tránh tranh luận với họ, để
đem lại sự an ổn cho
ta
và cho người.
“Hãy thương người tàn tật”. Trong khi có sáu
căn đầy đủ, hãy thương yêu những người khốn
khổ, sáu căn khiếm khuyết. Hãy tặng cho họ một món quà nho nhỏ, như
cục
xà bông, kem đánh
răng, hay cái bàn chải cũng
đủ an ủi họ.
Phải thường xuyên trau dồi, nhắc nhở
tâm, nếu không nó sẽ quên đi vì nó
bận đeo
đuổi theo những sinh hoạt của người
đời.
“Hãy thương người già yếu”. Vì một ngày kia
ta cũng sẽ như vậy, kính cho họ
lối đi, nhường cho họ
chỗ ngồi, đưa họ băng
qua đường.
“Hãy thương tất cả chúng sanh”, vì tất cả chúng
sanh đều đau khổ.
Ta hãy đặt một tình thương rộng lớn (từ vô lượng,
bi vô lượng), từ đó tâm ta lúc nào cũng an
vui với vạn hữu. Tình thương đầy khắp tất cả,
chan hòa nơi nơi, và ta sống thảnh thơi, an lạc trước vạn hữu, và thường xuyên trau dồi tâm
bi vô lượng của ta.
✿✿✿
|
III- HỶ VÔ LƯỢNG
|
|
ó từ, bi, nên mới có hỷ.
Hỷ là vui, vui vẻ với mọi người (người thương,
kẻ oán). Nói
cho đủ là tùy hỷ. Vô lượng là tràn đầy, phủ trùm.
Hỷ tâm có hai loại:
A) Hỷ vô lượng dục lạc
(vui theo ngũ dục lạc)
Đây là cái vui ngắn ngủi, mê muội của người
phàm phu, chạy theo trần cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Nó có sức cám dỗ con người đi đến chỗ đau khổ bất tận. Cái
vui này, ở xa như hạt
kim cương, khi đến gần chỉ là hạt nước mắt. Cho nên
đức Phật mới dạy rằng: “Nước mắt chúng sanh
nhiều hơn bốn bể”. Đó là hỷ vô lượng
dục lạc.
Tâm con người là một cái túi không đáy, chạy theo
dục lạc để tận hưởng, và không bao giờ biết
ngừng, như con thiêu thân lao vào ánh đèn. Thế nên
con người cứ phải quanh đi lộn lại sanh tử
muôn đời, muôn kiếp, không
bao giờ dứt khổ. Khi
có nhà lá thì mong có căn nhà ngói. Lúc có nhà
ngói thì mơ được căn nhà lầu. Hoặc là kẻ đang
đi xe
đạp thì ước ao được
đi xe
Honda (xe máy). Khi có xe Honda thì lại muốn có xe hơi như người
ta. Đây
là hỷ
vô minh, còn gọi là hỷ ảo giác
(chạy theo ăn ngon, mặc đẹp, v.v...).
Vui theo dục lạc là vui theo với ác nghiệp. Khi thấy
người sát sanh, trộm cắp, tà dâm, hút xách, đã không
ngăn cản mà còn vui theo, tán thành sự vui chơi
theo con đường ác là hỷ vô lượng tâm theo ác pháp (ác pháp cũng
nhiều vô lượng).
Bấy lâu nay chúng ta chỉ nghe Hỷ
Vô Lượng Tâm, tức là thiện pháp. Nếu tốt thì mới là nẻo của đạo Phật, nẻo của thiện pháp, của sự giải thoát, an lạc. Hỷ dục lạc thế gian là hỷ ác, tạo cảnh địa ngục
trần gian. Chẳng
cần phải đợi mai sau,
cái hỷ này tạo cho ta địa ngục ngay tại trần thế. Từ
nay biết được như thế thì ta phải xa lìa, viễn ly, dứt bỏ đi, chắc chắn chúng ta sẽ không có địa ngục
ở trần gian. Cái hỷ đau khổ của biển đời trầm luân này
chỉ có người trí mới thoát được, còn người vô
minh, mê muội khó mà thoát khỏi. Chúng ta tu tập
Trưởng Lão THÍCH THÔNG LẠC
pháp Phật: Giới, Định, Tuệ, thì phải có trí tuệ siêu
việt mới mong tu tập được pháp này; nếu không thì
ta vẫn còn nằm trong vòng tay của các loại hỷ này.
Quý vị hãy tự xét xem mình đã thoát khỏi vòng
tay ấy chưa? Nếu còn trong vòng tay của các loại
hỷ này thì đời đời kiếp kiếp ta sẽ chuốc
lấy tai ương. Muốn trau dồi tâm hỷ vô lượng thì ta phải nhắc tâm ta bằng
như lý tác ý:
“Hỷ của dục lạc là tai nạn, là bệnh tật, là khổ đau; vậy ta phải lánh xa cái hỷ này”. Phải thường xuyên quán xét, trau dồi tâm ta như thế để
cảnh giác, xa lìa nó, vì nó có sức cám dỗ ta rất
mạnh, như đá nam châm. Thỉnh thoảng ta lại nhắc
tâm như thế: “Hỷ của dục lạc là tai nạn, là bệnh tật, là khổ đau”, để xa lìa, yểm ly ngũ dục lạc.
“Hỷ của ngũ dục lạc là ảo giác,
là thuốc độc, là rắn độc giết hại con người. Ta hãy lánh xa các
loại hỷ này”. Do thường xuyên nhắc tâm như thế,
cho nên trước sự săn sóc, thương yêu nồng
nàn,
trước sắc đẹp lộng lẫy ta mới đem lòng sợ hãi. Nhìn thấy
thật là khả lạc, khả ái, ham thích,
nhưng đụng vào nó là đâm vào gai chông, không phải là hạnh phúc gì đâu. Biết được như vậy, thấy
suốt
như vậy là không vô minh. Nếu không biết như
vậy, không thấu suốt như vậy là vô minh.
Câu này ta cũng phải thường xuyên nhắc đi, nhắc
lại để đoạn dứt lòng ưa thích thế gian. Tùy theo đặc
tánh của mỗi người
mà ta tùy nghi thêm vào
câu pháp hướng để có đủ sức mạnh và giúp ta
thoát khỏi những cám dỗ của vật chất.
“Vui theo ác pháp là hỷ tâm vô lượng ác,
làm đau
khổ
chúng sanh,
là
giết hại chúng sanh. Ta hãy tránh xa hỷ này, yểm ly hỷ này, từ
bỏ hỷ
này”. Đó là các câu trạch pháp
mà ta
phải thường ghi nhớ, trau
dồi tâm mình để tu thập thiện, và chống lại thập ác. Là người tu sĩ Phật
giáo, khi thấy ai làm
ác là phải tránh xa, làm gì có
sự
vui theo? Một ông thầy tu không thể đứng trước
hàng thịt, hoặc ngắm tô phở có mấy lát thịt nằm
trên đó. Thấy
các ác pháp, thấy sự đau khổ, chết
chóc của chúng sanh, nếu ta không
thể can thiệp, giúp đỡ được thì ta hãy lánh xa, để không
nhìn
thấy cảnh tang thương, khốn khổ, máu đổ, thịt rơi, đau lòng, nát dạ. Khi
thấy hai người đang đánh nhau chí tử, nếu không can ngăn họ mà còn cổ vũ (vui theo) thì ta không phải là người đệ
tử Phật.
✿✿✿
|
B) Hỷ tâm vô lượng giải thoát
Là vui với việc làm từ thiện của người khác.
Khi có người bố thí, cúng dường,
hoặc xây nhà thương, trường học thì ta liền tán thán, vui theo, và
tận tâm giúp đỡ với lòng hân hoan, sung
sướng. Sự vui theo này là một bước tiến trên đường thiện nghiệp. Nếu ta có tiền của thì ta nên đóng góp,
giúp đỡ người. Nếu không có tiền của thì ta hãy bỏ
công sức ra phụ giúp công tác từ thiện ấy. Vì tâm bi vô lượng, thấy quá nhiều khổ đau trong xã hội nên ta không thể ngồi yên mà tư duy suông. Ta phải làm một cái gì đó để góp phần ban vui, cứu
khổ cho mọi người, làm sao cho mọi người
được no ấm, thoát khỏi
bệnh tật, khổ đau. Bệnh viện,
thuốc thang chỉ xoa dịu sắc thân của họ. An ủi, cảm thông, khuyên nhủ là xoa dịu thương đau của tinh
thần.
Hành bi tâm như vậy cũng chưa đủ. Ta phải làm cái gì hơn thế nữa để diệt tận gốc khổ đau của muôn loài.
Chỉ có Trung
Tâm An Dưỡng
Từ Thiện ra đời mới là nơi giúp đỡ người ta được an vui, học tập đạo đức nhân quả, diệt tận mầm mống
đau khổ. Những việc làm này khiến ta vui theo vì nó mang lại lợi ích thiết thực cho con người, chấm
sướng cho bằng con người thấy rõ đường đi lối về của nhân quả! Biết được nhân quả thì loài người không làm điều ác. Loài người không làm điều ác
thì trần gian này là cõi Niết Bàn, là Thiên Đàng và
không còn có người bất hạnh trong xã hội.
Ý của thầy bấy lâu nay là xin
phép thành lập Trung Tâm An Dưỡng để người ta có thể về đó an dưỡng
một vài tháng cho đến hai, ba năm,
và được sự hướng dẫn
đường đi nước bước của nhân quả và
đạo đức nhân bản - nhân quả để sống an vui và diệt
tận gốc khổ đau của con người. Từ đó họ
không làm điều ác, tự
họ đem lại hạnh phúc cho
bản thân mình và cho người khác. Tâm nguyện
của thầy là như thế, nhưng duyên chúng sanh chưa đủ, khó mà thực hiện được.
Nếu trung tâm an dưỡng này thành hình thì biết bao nhiêu người
trong xã hội này sẽ được lợi lạc, khi những người
được tu tập nơi đây thể hiện sự an lạc bằng chính cuộc
sống và hành động của họ.
Thầy còn có nhiều ước mơ mà
chưa tiện nói ra. Ước gì tất cả trường học trên đất nước này sẽ giảng dạy môn giáo dục đạo đức
nhân bản - nhân quả
cho các học sinh! Còn gì sung sướng cho bằng
khi thấy các học sinh - mầm non của đất nước, là
công dân tương lai - mà biết sống trong đạo đức,
thấm nhuần lý nhân quả! Hạnh phúc thay cho
những ai có được duyên may học tập đạo đức nhân
Trưởng Lão THÍCH THÔNG LẠC
quả! Chính bản thân họ là người
tốt, gia đình họ sẽ được hạnh phúc, và xã hội cũng được
an
vui, tốt đẹp. Không phải được người ta đem cho vàng bạc,
của báu mà ta vui mừng, mà niềm vui khi thấy con người
làm thiện. Thiết nghĩ đức Thế Tôn nhập diệt đã lâu chắc cũng sẽ hoan hỷ khi thấy
chúng ta biết tu tập và sống trong đạo đức nhân quả. Từ đó lòng
từ, bi, hỷ, xả sẽ lan rộng ra các nước khác. Khi con
người biết sống trong đạo đức nhân quả thì họ sẽ không
gây chiến tranh, giết hại người ở nước khác.
Muốn trau dồi tâm hỷ vô lượng ta phải dùng như
lý tác ý mà nhắc: “Ta hãy vui mừng
theo ý kiến của người
khác, để mình và người đều vui”. Nếu người ta chấp vào ý kiến của người ta
thì mình cũng không nên chống đối làm gì.
Ngày
xưa,
có ba vị đệ tử Phật là A Na Luật tôn giả, Kim
tôn giả, và A Nan Đà tôn giả cùng sống hài hòa tại một trụ xứ. Đức Phật hỏi: “Các ông sống chung
thì có an vui tu tập không?” Tôn giả A Na
Luật đáp: “Con sống theo ý các bạn đồng tu, chớ không sống theo ý của con”. Hai vị kia cũng đáp tương tự như
thế. Đức Phật khen:
“Như vậy là tốt lắm! Đây
mới thật là độc cư”. Độc cư ở đây không có nghĩa
là ngậm miệng, mà là không có ý kiến chống đối
nhau. Đây cũng là hỷ vô lượng tâm
(ý của người thì vô lượng và ta cũng vui
theo ý kiến của người).
hướng kể trên
để
tâm không chống lại ý của
người, mà còn vui theo ý của người. Đó là sống
tùy thuận. Hãy thực tập như vậy suốt một năm,
chứ không phải chỉ có một, hai ngày mà thành
công được. Nếu không trau dồi như vậy thì ta khó
mà theo ý của người
khác được. Bản chất của người
ta là hay khoe cái giỏi, cái hay của mình (bản ngã). Nơi nào có bản ngã thì nơi đó không có
hỷ tâm vô lượng (cái gì của ta cũng là đúng mà
của người thì sai). Trau dồi hỷ tâm vô lượng là ta diệt
ngã (vô ngã là Niết Bàn). Hầu hết chúng ta
đều sống với cái ngã nên cứ
khổ hoài. Thật diễm
phúc cho những ai biết sống
diệt
ngã!
“Tánh hay khoe khoang
cái hay, cái giỏi
của mình là chướng tâm, là ngại đạo. Ta hãy từ bỏ,
xa lìa cái thói xấu này”. Phải tự nhủ là ta có giỏi
gì đâu? Đó là tâm hỷ diệt trừ bản ngã. Lại nữa, ta hãy
nhắc tâm:
“Phải biết nhu hòa trong mọi
công việc làm.
Lấy việc người làm việc mình”. Đây là tập cho tâm vui mừng trước mọi việc làm của người khác. Công việc làm của người vô lượng thì ta cũng vui theo
vô lượng công việc làm của người. Đó là hỷ
tâm vô lượng trong việc làm của người khác. Nếu câu pháp hướng chính xác thì tâm sẽ thấm nhuần
và hiệu quả rất lớn mà ta không mất nhiều thì giờ.
Ta cũng như lý tác ý vui cùng cái vui của vạn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!