vật. Nếu ta làm một điều không vui là ta làm
cho cỏ cây, vạn vật cũng không vui. Thí dụ mọi vật đang
sống an lành mà ta nổi cơn sân hận, xô xát,
giết hại, thì môi trường chung quanh cũng bị ảnh
hưởng. Cho nên có câu: “Người buồn cảnh có vui
đâu bao giờ”.
“Trong
vạn vật đều có niềm
vui chan hòa, ta
hãy hòa mình cùng với niềm
vui ấy. Nếu ta làm điều
gì không vui tức
là ta đã làm buồn muôn loài, vạn vật, cỏ cây”.
Câu này ta phải thường xuyên trau dồi để đem
lại sự an vui cho mọi loài. Thí dụ: trên đường
đi vào thất, nếu ta vô tình đạp phải
con kiến làm cho nó gãy chân. Khi con vật lăn lộn, đau khổ thì cỏ
cây,
vạn vật cũng đau khổ theo. Tuy thấy cỏ cây có vẻ như vô tình, nhưng
thật ra có sự giao cảm
giữa vạn vật. Bằng chứng là có người trồng cây xum
xuê quanh vườn, vì chiến tranh phải tản cư,
bỏ đi
thì cây trái héo úa, không còn xanh tươi như
trước. Cho nên những cây trồng gần nhà bao giờ cũng
tươi tốt xum xuê hơn là những cây trồng xa
nhà,
vì hàng ngày nó được nghe ta nói, thấy ta chăm
sóc nên nó được an vui và phát triển hơn các cây
khác.
✿✿✿
|
|
. . .
IV- XẢ VÔ LƯỢNG
|
ả là xả bỏ, không dùng nữa, không chấp,
dẹp
qua luôn. Xả vô lượng là bỏ hết tất
cả những pháp
ở thế gian (như thầy tu thì chỉ có ba
y một bát), không còn một vật gì, hay một chướng
ngại nào ở trong tâm. Vậy các pháp ở thế gian là
pháp gì? Các pháp thế gian là pháp trói
buộc
như mạng lưới mà ta khó thoát ra. Các pháp ấy là: sắc
dục,
tài sản thế gian, vật chất lớn, vật chất nhỏ, nhà
cửa, ruộng vườn, danh thơm, tiếng tốt, tiếng
khen, tiếng chê, thức ăn ngon dở, ngủ nghỉ, anh
em, bè bạn gần xa, chùa to, tháp lớn, miễu đình, tế
tự, cúng bái, tụng niệm, ca ngâm, tủ giường, bàn ghế, ly chén, xoong nồi, Ti vi, Radio, tủ lạnh,
kinh sách, kiến thức học tập, thiên văn, địa lý, toán,
khoa học, kinh tế, chính trị học, dịch số, bói toán,
và các nghề thợ mộc, thợ may, thầy thông, thầy
ký, thầy bùa, thầy cúng... Nói chung toàn bộ các nghề trên thế gian, đụng vào đâu nó cũng dính với ta,
đổi nghề nó cũng dính với ta. Từ cái ly cái chén trong nhà cho đến kiến thức, học thuật, tâm ta cứ chấp cái này cho đến cái kia (kiến chấp), làm cho chúng ta không giải thoát. Nếu không xả hết thì
nó sẽ làm ta bận tâm (so sánh, chống đối).
Ta
phải xả hết mọi tri kiến trong đầu của chúng ta, kể cả
những kinh sách mà ta học được bấy lâu. Chỉ còn
một điều duy nhất trong đầu là xả tâm
cho
hoàn toàn trong sạch. Được như
vậy mới là giải thoát.
Nếu trong đầu còn nhớ Phật đã nói như
thế này, thầy đã nói như thế kia là chưa xả. Bởi vậy Phật đã
bảo: “Chánh pháp của ta còn phải bỏ huống
hồ là pháp thế gian”. Phải xả vô lượng tâm
vì tâm đụng đâu là dính đó.
Đạo Phật là đạo siêu xuất, và
mục đích của đạo Phật
là xả, xả vô lượng. Xả cũng là một chi phần của
Thất Giác Chi. Xả tối đa được phần nào là tốt
phần ấy. Nghĩa là trong giai đoạn I của người cư
sĩ ta phải xả thật sạch, trắng như vỏ ốc mới có
thể bước sang lộ trình thứ hai của đạo giải thoát: xuất gia. Nếu người cư sĩ không chuẩn bị xả sạch ở giai đoạn tứ vô lượng tâm thì khi xuất gia khó mà tu hạnh tỳ kheo, vì đến đây ta phải
tu tập các hạnh khác với người
cư sĩ. Ta không còn
nghĩ đến việc xả cái bàn, cái ly, hay giã từ vợ con,
mà phải tập luyện Tứ Niệm Xứ, Tứ Thiền, Bát Chánh
Đạo và Tứ Diệu Đế. Nếu xả kỹ thì khi
dụng công miên mật, ta chỉ cần một
tuần cho đến hai, hay ba tuần là có thể chứng
ngộ (đạt Sơ Thiền). Không xả được thì ta bị trói buộc hoài, bị trói buộc thì làm sao giải thoát? Có những người xuất gia 5 năm, 10 năm, 20 năm mà cũng không xả
sạch hoàn toàn (vẫn còn vướng mắc). Do đó,
thầy phải làm gương “ẩn bóng” để xả cho sạch và
để làm gương cho mọi người thấy là xả bỏ tất cả,
giã từ tu viện, xa rời đệ tử, không có một chút tài sản nào cả. Nếu muốn làm lợi
ích
cho chúng sanh
thì ở
đâu mà không làm lợi ích cho chúng sanh?
Cần gì phải ở chùa, làm trụ trì mới độ được chúng sanh? Ở đâu có người tu thì ta đến đó độ họ, xong
rồi thì mình đi đến chỗ khác. Cho nên đời sống du tăng,
khất sĩ là đời sống tuyệt vời, xả sạch. Đây là
nét đặc trưng của đạo Phật. Người nào không thực
hiện được như thế không phải là tu sĩ đệ tử Phật.
Cần phân biệt người tu chân (xả thật) và người tu
giả, không dám xả hết, chỉ xả nửa chừng,
hoặc không xả gì cả. Xả dục lạc thế gian thì thầy
tu có thể xả được,
nhưng chùa miễu thì nhiều người
không xả được. Tóm lại, muốn chấm dứt sanh tử luân
hồi thì dứt khoác phải buông xả tất cả. Phải nhớ, được thân người rất là khó, nếu không nỗ lực tu hành thì mãi mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi.
|
1) TU TẬP XẢ CÁI GÌ?
|
- XẢ BỎ NĂM THỨ DỤC LẠC: sắc
dục, tiền bạc,
danh tiếng, ăn, ngủ.
1- Tránh xa sắc dục: đừng gần gũi người
khác phái.
2- Không cất giữ tiền bạc, châu báu. Nó là con rắn độc, khiến
cho
ta phải nô lệ nó suốt
đời. Bởi vậy trong giới luật, Phật cấm các tỳ kheo cất
giữ tiền bạc, mà những người mới xuất gia, thọ
giới sa di cũng không được cất giữ tiền bạc.
3- Tránh xa danh lợi:
nếu ai khen mình tụng kinh
hay mà mình tụng, thâu băng đem phổ biến
thì đó là cầu danh. Nếu ai khen thuyết pháp giỏi
mà mình ra sức thuyết pháp hoài thì cũng là danh,
là dục lạc.
4- Ăn mỗi ngày
một bữa. Phải quán thức ăn là bất
tịnh, như thuốc trị ghẻ đói cho ta.
5- Ngủ phải luôn luôn tỉnh thức, không có sợ
thiếu ngủ, thèm ngủ. Nằm suốt đêm không ngủ là
xả ngủ.
Năm thứ dục lạc này mà ta không xả được
thì không bao giờ ta xả được những thứ khác. Nếu ai
khen mà ta mừng, gặp gái đẹp mà nhìn, v.v... thì
đến khi xả sáu thứ dục lạc thế gian (sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp) làm sao xả nổi? Nó còn khó
hơn ngũ dục lạc rất nhiều. Đây là đối tượng của tâm, nó luôn luôn cám dỗ ta để trở lại phục vụ năm thứ dục lạc ở trên.
|
✿✿✿
- XẢ BỎ SÁU THỨ DỤC LẠC:
Đó là đối
tượng của sáu giác quan: sắc thanh, hương,
vị, xúc, pháp.
1- Sắc: sắc là đối tượng của mắt. Sắc trong ngũ
dục lạc là sắc dục, còn sắc trong sáu trần
là hình ảnh, sắc tướng của các pháp, như cassette, Ti vi,
tủ lạnh, bàn,
ghế, ly, tách,
nhà, xe,
người,
vật.
Những hình ảnh có sức cám dỗ ta, tâm ta thích
thú, khả ái, khả lạc, khả hỷ.
2- Thinh: âm
thanh của người, vật, nhạc cụ
làm cho
tâm ta thấy khả ái,
khả lạc, khả hỷ.
Thí
dụ thích thú khi nhảy đầm theo điệu Rumba,
Twist, Lambada, v.v...
3- Hương: mùi thơm của các pháp có sức hấp
dẫn khiến cho ta thấy khả ái, khả lạc, khả hỷ.
4- Vị: mùi vị ngon ngọt, cay, đắng, có sức cám dỗ
làm cho ta dễ chịu, ưa thích, khả ái, khả lạc,
khả hỷ. Đứa con ăn cái bánh ngon cả tháng mà
vẫn còn nhớ, còn thèm, và cứ nhắc hoài: “Chừng
nào ba đi chợ, nhớ mua cho
con cái bánh hiệu...”.
5- Xúc: Sự va chạm của các pháp sinh ra cảm
giác mát, êm, nóng, lạnh, đau nhức, nhẹ nhàng,
lâng lâng, say say, cảm giác khoái lạc, cảm giác
khó chịu, cảm giác sung sướng, mừng vui, buồn khổ... Người tu thiền mà có trạng thái thích thú
say mê là đi vào hang quỉ. Nên nhớ
là tu
thiền để làm chủ sanh tử, tức là làm cho các hành ngưng
hoạt động; sau đó thì ta cho phục hồi sinh hoạt, trở về hơi thở bình thường.
Tu thiền không phải là đi vào đó để thọ dụng cái lạc thú của thiền định mà là để lấy lại sức cho ngày hôm sau tiếp tục làm việc.
6- Pháp: pháp ở đây không có nghĩa
là bàn ghế, nhà, cửa mà là sự hiểu biết của cổ kim, nhân loại.
Nó bao gồm cả khoa học, toán học, văn học,
sử học, thiên văn học, các kinh sách của các tôn giáo
lớn trên thế giới và giáo lý của đức Phật. Đó
là kiến chấp của người thế gian. Nó lôi cuốn và
làm cho tâm ta ưa thích, xem đó là chánh pháp, là
đúng pháp, ôm chặt khư khư, cho đó là khuôn vàng thước ngọc. Tu hành như thế khiến cho ta
thấy khả ái, khả lạc, khả hỷ, rồi dính
mắc không buông bỏ được. Vì thế cho nên mới có tranh luận hơn thua, chia ra pháp này, pháp nọ, không có gì
giải thoát. Thí dụ cúng kiếng vào các ngày giỗ, kỵ
(ở nhà), hoặc là giỗ tổ (ở
chùa), nếu ta không làm
thì bị mọi người than phiền, chỉ trích. Mà làm tức là bị
các
pháp trói buộc, ta làm
nô lệ cho phong tục,
tập quán. Cho nên phải cương
quyết bứt bỏ, mặc cho ai công kích, phản đối, ta phải nói: “Tôi
là thầy tu, tôi không thể làm chuyện mê tín như thế”.
Tóm lại, các pháp thế gian là pháp cám dỗ, lôi
cuốn con người đi đến chỗ làm ác, tạo bao cảnh
khổ cho nhau. Người ta sát phạt nhau bằng lưỡi
gươm, miệng kiếm. Có người chấp vào pháp tu của
mình và nói xấu các thầy khác.
✿✿✿
2) CÁCH THỨC TU
TẬP XẢ TÂM
Muốn trau dồi
tâm xả các pháp thì ta phải làm
sao? Hãy tìm một nơi
thanh vắng, tịch mịch như
trong rừng, gốc cây, hang đá, khe núi, bãi tha ma, lùm cây ngoài trời, bóng mát, trong chòi lá để tập xả các pháp. Ở ngay trung tâm thành
phố thì khó mà xả được, nhất là đối với người sơ cơ.
Sau khi ăn cơm
độ hai tiếng đồng hồ, khi thức ăn đã tiêu hóa, lúc không thấy no, ta mới bắt đầu
tu tập: ngồi kiết già, lưng thẳng, an trú, đặt niệm
trước mặt, quán
sát:
|
✿✿✿
- SẮC
DỤC:
Con người ta sinh ra từ sắc dục. Nó là con đường sanh tử, luân hồi, cho
nên ta phải lấy nó làm đối tượng
quán chiếu. Nó là
con đường đưa đến đau khổ cho ta và cho người.
Thương yêu, cưới nhau, rồi sinh con đẻ cái, lo
nuôi nấng
cho
con
lớn khôn,
rồi
dựng vợ, gả
chồng cho nó. Cả một đời đau khổ! Vậy mà người ta
cứ chạy theo sắc dục. Quả là vô minh! Quả là
ngu si! Ta phải như lý tác ý:
“Sắc dục là con đường sanh tử của muôn loài, con đường đau khổ từ kiếp này sang kiếp
khác. Ta phải xả bỏ, từ khước, thoát ly, ra khỏi,
từ giã, không nên để tâm vướng mắc nó nữa”.
Ngồi yên lặng
một lúc thì ta lại tác ý xả
nữa,
xả hoài cho đến khi nào ta thấy tâm ta hoàn toàn sạch
hết thì sự tu tập mới viên mãn.
Đức Phật dạy như thế mà thôi, riêng Thầy, rút
ra từ kinh nghiệm bản thân, Thầy dạy cho các con để tu tập rốt ráo, để thấy con đường giác ngộ thênh thang. Nếu không đặt
niệm
trước mặt,
không dùng pháp hướng, như lý tác ý thì khó mà
xả được tâm này. Nó chờ cơ hội để bùng lên như
lửa. Ta phải tu tập hoài để cho nó thấm nhuần tận
xương tủy mới thôi. Chớ có tưởng ngồi im lặng một
lúc thấy khinh an, hỷ lạc mà hài lòng. Hàng
ngày các con phải siêng năng trau dồi, tu tập câu
này để đoạn tuyệt,
dứt tận tâm ái dục. Bản thân
chúng ta sinh ra từ
cha mẹ ta cũng là do tâm này, cho
nên ta cũng không dễ gì mà dứt được tâm này.
Nếu câu này mà chưa đạt được kết quả (hãy còn
dục) thì ta hướng
tâm như lý tác ý:
“Sắc dục là bất tịnh, là uế trược, nhớt nhao,
hôi thúi, khó chịu vô cùng, tạo muôn
ngàn tật bệnh, tai ương, và truyền nối nhau nhân quả luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác, không
bao giờ dứt, một người để lại muôn người khổ, nối
tiếp nhau vô cùng vô tận. Ta phải xả bỏ, xa lìa,
viễn ly vĩnh viễn, xem nó như rắn độc, ung
nhọt, cho nó là hiểm nguy nhất, là tai họa, là ác độc,
là bệnh truyền nhiễm, nan y, khó chữa.
Dứt khoát từ bỏ!”
Câu sau mạnh hơn, như truyền lệnh thì may ra
ta mới có thể xa lìa. Cuộc
đời tu hành là cả một sự
rèn luyện, trau dồi chứ không thể nói suông được. Nhắc xong là ta ngồi đó để lặng tâm, giữ tâm thanh
thản. Một lúc sau ta lại nhắc nữa, nhắc hoài
như đập những nhát búa để cho tâm dần dần thấm
nhuần, trau dồi tâm,
xả sạch sắc dục, thấy sắc dục là ta hoảng sợ, không dám nghĩ
tới. Nếu không thì nó sẽ ngủ ngầm, tạm thời nằm yên, nhưng có dịp
là nó len lén ngắm nhìn (người nữ). Tu tập được thì thấy nó như rắn độc, là bệnh tật, là khổ đau, không
còn cảm giác thích thú nữa.
Trong kinh Tứ Niệm Xứ có dạy trên thân quán thân, nhưng đây là dạy chung chung, người tu tập chưa
nắm vững. Thí dụ Phật dạy trên thân quán thân để khắc phục tham ưu của mình, mà mình không biết lúc nào khắc phục tham ưu,
lúc nào khắc phục bất tịnh. Ở đây ta xả cái tâm sắc dục,
tâm ái bằng cách đặt niệm trước
mặt,
tức là trên thân của ta quán thân, quán thân
mình và quán các pháp
bất tịnh. Sau này có dịp Thầy sẽ giảng rõ hơn,
dùng câu pháp hướng nào để phá vỡ cái nào
mà ta đang bị vướng mắc. Người đọc kinh sách
Phật, không hiểu mà tu tập, nay pháp này, mai
pháp khác, không có kết quả cụ thể, càng tu càng
chán nản, lầm đường, lạc vào pháp tu của ngoại đạo
mà cứ tưởng là pháp
Phật.
Tóm lại, muốn xả tâm vô lượng ly sắc dục thế gian
thì ta phải siêng năng trau dồi tâm xả của
ta. Hàng ngày không được biếng trễ thì mới xả ly
được. Hãy tinh tấn, chớ có phóng dật theo nó,
nghĩa là luôn luôn tinh tấn, ngăn chận, nhất
là đối
với nữ sắc. Đó là
điều
tiên
quyết
quan trọng.
Đừng có nhìn gương mặt người
nữ,
đừng có nhìn tướng tá, làn da người nữ, mắt, môi của người nữ. Phật
dạy: “Ta không thấy có một pháp nào lôi
cuốn người nam bằng nụ cười, ánh mắt, làn da,
hương
thơm của người nữ”. Vậy muốn tập xả
tâm này thì ta không
được phóng tâm theo nó, đừng chạy theo nó. Ráng tập luyện xa lìa nó như
vậy độ ba tháng sau quý vị sẽ thấy kết quả rất
tuyệt diệu. Nếu quý Thầy tu tập mà hôm sau gặp
các
bà, các cô mà
nói chuyện huyên thuyên thì thà
rằng trở về nhà cưới vợ cho xong, ngồi tu cho có
hình thức làm gì, vô ích.
|
✿✿✿
- XẢ
TÂM VÔ LƯỢNG CỦA BÁU, VÀNG BẠC,
CỦA CẢI THẾ
GIAN: Xả tâm vô
lượng là xả tất cả (vô lượng) các pháp, mà tiền
bạc, châu báu là thứ khó xả nhất. Bởi vậy phải tu
tập nhắc đi, nhắc lại nhiều lần. Ta nghe chuyện ông Bàng Long Uẩn đem hết
của
cải, vàng bạc đổ hết xuống sông, nhưng có mấy ai làm được? Có
người cho rằng ông ta ngu quá, tại sao không cho người
khác? Đó là suy nghĩ không đúng. Ta đã biết nó là tai họa, ta cố chừa bỏ mà ta lại mang
cái khổ, cái họa cho người khác hay sao?
Ông Bàng Long Uẩn thấu rõ điều ấy nên ông vứt
bỏ, không nuối tiếc.
Ta phải ngồi kiết già, lưng
thẳng, đặt niệm trước mặt, dùng pháp như lý tác ý câu này: “Tiền
bạc, của cải, châu báu là những thứ vật chất lôi
cuốn ta rất mạnh, làm cho tâm ta ưa thích, say mê mà chạy theo, tạo ra biết bao
điều tội ác.
Người nông dân khó
nhọc mới có hạt gạo cho ta
ăn, lưỡi cày
đã
cắt
đứt
biết
bao
nhiêu
côn trùng,
rồi thuốc trừ sâu, diệt cỏ... Đó là cái nghề
lương thiện mà còn mang nghiệp sát,
huống
hồ là những nghề không lương thiện, lường gạt, hãm hại nhau vì từng đồng bạc mà
xâu xé, giết hại nhau”.
Nên lấy câu trạch pháp này
mà trau dồi nhiều
lần để tâm ta thấm nhuần.
“Tiền bạc, của cải, châu báu thế gian là tên
chủ độc tài, sai bảo ta làm bất cứ cái gì ta cũng
mờ ám vâng theo, tạo ra rất nhiều tội lỗi. Vậy
ta phải từ giã, xa lìa ông chủ này để thoát kiếp
nô lệ”. Chính nó bắt ta hút thuốc, uống rượu, cờ bạc, tạo nhiều
điều tội lỗi.
Những kẻ xa lìa tiền bạc, của cải, danh lợi
mới là bậc chân tu. Khi họ cất chùa to là họ bị đồng
tiền sai sử. Ta phải ghi nhớ điều này: người tu
sĩ không nô lệ cho ông chủ tiền bạc. Nếu các tu sĩ mà còn cất giữ tiền bạc, tiếp nhận của cải vật chất thế gian càng nhiều thì càng ăn ngủ không yên (sợ
vua tịch thu, chính phủ nghi ngờ, kẻ gian vào,
trộm cướp hãm hại), mạng
sống như chỉ mành
treo chuông. Vì vậy ta phải xa lìa, dứt
bỏ chúng. Phải ghi
nhớ mãi câu pháp hướng, như lý tác ý để ta
vô lượng.
Đó là xa lìa của cải, tài sản lớn. Người tu
thì không ham tài sản, của cải lớn, nhưng có người lại
kẹt vào tài sản, của cải nhỏ như
cái
y, cái bát, cố
cất giữ cho riêng mình.
Tùy theo đặc
tướng của mỗi người mà
lựa chọn một trong hai pháp hướng kể trên. Hoặc có thể dùng câu pháp hướng
sau đây:
“Tài sản, của cải, vật
chất chế gian là rắn độc,
ung nhọt, truyền nhiễm. Có ngày ta sẽ bị
rắn độc cắn, hoặc bị bệnh truyền
nhiễm. Ta hãy xa lánh nó như
bị bệnh cùi; đừng cất giữ, đừng tích trữ”.
Tóm lại, cần trau dồi, tu tập tâm này cho đến
khi thấm nhuần mới mong viễn ly được
tâm
đắm nhiễm tiền bạc, châu báu thế gian.
|
✿✿✿
- XẢ
VÔ LƯỢNG TÂM DANH:
Danh là tiếng
khen, tiếng ca ngợi, tán thán, tốt đẹp,
chứng ngộ, chứng
đạo, được trao
truyền quan chức, trao truyền tâm ấn, cấp bằng này, cấp bằng nọ,
Đại Đức, Sư Bà, Sư Trưởng, Hòa Thượng, Thượng Tọa, Giám Đốc, Phó Giám Đốc, Viện Trưởng, Phó Viện Trưởng, Viện Chủ, Pháp Chủ, thiền đức, cao tăng, giới đức, thánh hiền, thần,
thánh, tiên, Phật. Ai mà không muốn làm trụ trì? Ai mà không mong
làm Pháp Chủ, Viện Trưởng? Khi được danh thì người ta thích thú, nên bị thu hút
chạy theo danh. Có người quá cuồng loạn, rồi
thất vọng, tự tử. Có người công danh không thành, tình yêu bị phụ rẫy nên vào chùa đi
tu. Có kẻ mơ được cái danh nhỏ như làm thầy thông, thầy ký,
thầy giáo, cô giáo (còn hơn là làm đầy tớ bị người
ta xem thường). Có người làm phó đội trưởng mơ làm
lên đội
trưởng; khi làm đại tá
thì mặt cứ ngẩng
lên trời, nghênh ngang chẳng coi ai ra gì.
Thật ra, những người có quyền có chức cũng là con người như ta. Họ cũng có niềm vui, nỗi buồn, bệnh hoạn, khổ sở như bao nhiêu người khác. Vậy
thì tại sao lại phải khúm núm trước kẻ quyền uy? Việc gì mà ta phải sợ hãi?
Có người đi làm từ thiện, kêu gọi người ta đóng
góp, rồi cầm tờ giấy khen để khoe thiên hạ là mình
đã cúng chùa bao nhiêu tiền, giúp cho bao nhiêu
viện mồ côi, đã bao nhiêu lần tạc tượng,
đúc chuông, v.v... Nhưng
thử hỏi tâm họ có thật từ thiện
không? Hay là mở miệng
ra thì mắng chửi người
như tát nước? Vậy thì ta thương người ở chỗ
nào? Chạm tự ái họ là họ muốn giết ta. Có người thì
đến đâu cũng có
tiền hô hậu ủng, có
năm,
mười chiếc xe chạy theo hộ tống...
người. Bản ngã lớn lên theo cái danh vọng, địa vị
của người ta. Hôm qua còn làm đầy tớ, ngày nay làm quan thì cái mặt cứ vênh váo. Như người đánh
xe ngựa cho Thừa Tướng
Yến Anh, anh ta cứ
tưởng mình là Thừa Tướng, nên đi đâu cũng quát
tháo, đánh đuổi người ta. May mà anh có bà vợ
biết điều, đã sửa đổi tâm
tánh anh. Bởi vậy ta phải
thường xuyên như lý tác ý. Tâm con người ai mà không
háo danh. Phải đánh
cho nó gục xuống, đừng bao giờ để cho nó có cơ hội vùng lên. Đến
phần thực hành, chúng ta cần phải lưu
ý, tâm chuyên nhất cảnh. Ta phải chọn một nơi
thanh vắng như bãi tha ma, sơn lâm, đống rơm, chòi lá,
gò mả, đồng trống, gốc cây, gộp đá. Sau khi
ăn cơm xong, nghỉ ngơi độ hai giờ, ta ngồi thẳng
lưng, như lý tác ý. Thí dụ:
“Danh là một dục lạc ảo giác, nuôi lớn ngã mạn,
khiến tâm ta thường đau khổ, hay tranh cãi,
lý luận, phiền não. Ta
hãy xả bỏ, từ bỏ, chỉ biết có tu hành thanh tịnh tâm để ra khỏi sanh tử, luân hồi
mà thôi”.
“Danh là tên giặc hão huyền không có thật. Nó thường lôi cuốn tâm ta tỏ ra những hạnh xấu, hiu
hiu, tự đắc, tự cao, tự đại, cống cao, ngã mạn. Ta hãy xem như không
có thật. Ta chỉ là một con
người như bao nhiêu người khác, một con người
rất
tầm thường mà thôi”.
“Danh là một thứ dục lạc vô hình, thu hút, cám
dỗ ta rất mạnh, khiến
cho ta thêm ngã mạn, cống
cao, do đó sanh ra ngũ triền cái (tham, sân,
si, mạn, nghi). Danh khiến cho triền miên đau
khổ,
vậy ta phải cương quyết từ bỏ, viễn ly, xa lánh
cái danh”.
“Danh là một dục lạc có một ma lực vô hình, cám dỗ, lôi cuốn con người vào trong sanh tử luân
hồi. Vậy ta từ phải bỏ, viễn ly, xa lánh cái
danh dù bất cứ trường
hợp nào”.
Người tu sĩ lãnh đạo tăng đoàn mà lãnh cái danh
vào chùa là lãnh rắn độc, rắn sẽ cắn chết
chúng tăng. Vậy người tu sĩ phải xa lánh cái danh,
cái lợi để cứu lấy chúng tăng, và cứu lấy Phật
giáo.
Hàng ngày ta phải đặt niệm trước
mặt,
hướng tâm như thế, không khéo thì bản ngã ta nó đồ sộ
thêm lên theo cái danh ấy. Người tu sĩ phải ghi
nhớ là trong năm pháp dục lạc thì danh là hơn cả,
khó trị vô cùng. Phải đập bẹp nó, trừ khử nó. Đừng
để cho nó vùng lên,
và điều khiển ta.
|
✿✿✿
- XẢ TÂM VÔ LƯỢNG TÂM
ĂN:
Làm người ai mà không thích ăn ngon. Xả cái ăn
không có nghĩa là ta ăn muối, mà chính là xả cái tâm
tham ăn. Nó là một dục lạc lớn trong đời ta.
Nên nhớ: “Ăn để mà sống, chớ không phải sống để mà ăn”. Hãy quán cái ăn như
uống thuốc, như trị bệnh ghẻ lở.
Ăn mà thấy ớn, thấy ngán, là bị dục lạc cám dỗ. Ăn mà thấy ưa
thích cũng bị dục lạc cám dỗ. Chừng nào không ưa thích ăn ngon, không chê thức
ăn dở, không ngán, không ớn là không bị dục
lạc ăn cám dỗ.
Tóm lại, ăn là thứ dục lạc ghê gớm (do thức ăn
tiếp xúc với vị giác), tạo nên sự
ưa thích, cám dỗ khó cưỡng lại. Phàm phu không học thánh pháp và tùy
pháp nên thường bị ngã gục trong mặt trận cám
dỗ ăn uống này. Chỉ có bậc tu hành, giữ đúng
giới hạnh mới thoát ra được. Thí dụ lâu ngày
không ăn đường thèm quá, thấy ai mời một ly sữa là
phóng tới lấy ngay. Thèm chua, nghe người ta tả trái me chua cũng đủ chảy nước
miếng, huống hồ là nghe người ta ăn, nhai nhóp nhép.
Muốn không thèm ăn thì phải thường như lý tác
ý để cho thành tựu.
Bị cám dỗ bởi cái kẹo, ly nước
chanh, hay một viên sinh tố (vitamin)
C, hoặc viên thuốc có dạng kẹo (kẹo ho) còn mang tội
ăn phi thời, huống hồ là ăn các thức ăn khác. Người tu hành phải diệt trừ cái tâm tham ăn, làm
chủ cái ăn, không ăn phi thời. Tu thiền mà ăn một ngày
ba bữa thì chừng nào mới làm chủ được sống chết? Người nào còn chạy theo dục lạc ăn, ăn phi
thời là phi phạm hạnh, là ngạ quỉ, quỉ sa tăng.
Phần đông các tu sĩ ngày nay, từ Đông sang Tây, từ Nam
lên Bắc đều bị quỷ dục lạc ăn cám dỗ và
lôi cuốn xuống địa ngục. Không khắc phục được ma dục ăn thì làm gì tu được chánh thiền, chánh
định? Tu sai một hào ly là cách
xa đạo giải thoát một
ngàn dặm. Đi tìm đạo giải thoát mà tự trói mình trong
ăn uống thì giải
thoát
ở chỗ nào?
Người ở thế gian bị lôi cuốn vào cái ăn đã đành,
người tu sĩ không giải thoát được cái ăn không
thấy xấu hổ sao? Như vậy thì làm sao giải thoát
sinh
tử? Có người nhập thiền định không ăn uống
từ bảy ngày cho đến một tháng mà không chết
(sau
đó phục hồi dần cơ thể, sinh hoạt lại bình
thường). Nhập thiền định một ngày là làm chủ
sống
chết một ngày, nhập được
một tháng là làm chủ sống chết được một tháng.
Người tu làm chủ sanh, già, bệnh, chết, ưu bi,
sầu khổ là chỗ nào? Đó là chỗ lìa được ba cái dục danh, sắc, lợi nói trên. Ở đây, lìa cái ăn tức là lìa sống chết. Người tu
sĩ phải từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn,
bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn, từ bỏ danh lợi thế gian, quyền tước lớn, nhỏ,
để sống thiểu dục, tri túc (ba y một bát). Đó là sống như lời Phật dạy: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành”, thì mới giải
thoát được sanh, già,
bệnh, chết, ưu bi,
sầu
khổ, chấm dứt luân hồi.
|
- XẢ
VÔ LƯỢNG TÂM NGỦ:
ngủ là một
trong năm thứ ngũ
dục lạc, khiến cho
ta
thích thú, ham ngủ. Ngủ cũng là trạng thái ngu
si, mê muội, bần thần, giã rượi, lười biếng. Cho nên
người lười biếng là người ham ngủ. Ăn chơi, trác
táng, cờ bạc, rượu chè, thức khuya, làm việc quá
nhiều cũng sanh ra buồn ngủ.
Trong việc tu tập thiền định
thì ngủ có nhiều cấp độ:
1- Hôn trầm:
ngồi một lúc là gục xuống, rồi lại
ngẩng lên.
2- Thùy miên: cúi đầu xuống, quẹo cổ qua
một bên và ngủ thiếp đi.
3- Hôn tịch: lúc mê, lúc tỉnh, mơ mơ, màng
màng. Thí dụ: Ý tu tập đếm hơi thở mà lúc nhớ,
lúc quên.
4- Vô ký: chợt quên. Khi quên thì tâm không
còn tĩnh giác, vọng niệm liền khởi.
5- Ngoan không: vô
ký kéo dài là ngoan
không; còn gọi là không ngơ.
Ngoan không là nguyên nhân phát sinh ra trí
tuệ tưởng giải.
Phật dạy người mới tu phải tu Chánh Niệm
Tỉnh Thức, kinh hành nhiều (làm cho sức tỉnh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!