Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

pháp tu của phật - tứ vô lượng tâm 6


vật. Nếu ta làm một điều không vui là ta làm cho cỏ y, vạn vật cũng không vui. T dụ mọi vật đang sống an lành ta nổi cơn sân hận, t, giết hại, thì môi trường chung quanh cũng bị nh hưởng. Cho nên có câu: Người buồn cảnh vui đâu bao gi”.

“Trong vạn vật đều có niềm vui chan hòa, ta hãy hòa nh cùng với niềm vui y. Nếu ta làm điều không vui tức là ta đã làm bun muôn loài, vạn vật, cỏ cây”.

Câu này ta phải thường xuyên trau dồi đ đem lại s an vui cho mọi loài. T dụ: trên đường đi vào thất, nếu ta tình đạp phải con kiến làm cho nó gãy chân. Khi con vật lăn lộn, đau khổ thì cỏ cây, vạn vật cũng đau khổ theo. Tuy thấy c cây có vẻ như vô tình, nhưng thật ra s giao cảm giữa vạn vật. Bằng chứng là có người trồng cây xum xuê quanh vườn, chiến tranh phải tản cư, bỏ đi thì cây trái héo úa, không còn xanh tươi như trước. Cho nên những cây trồng gần nhà bao giờ cũng tươi tốt xum xuê hơn những cây trồng xa nhà, hàng ngày được nghe ta nói, thấy ta chăm sóc nên đưc an vui phát triển hơn các cây khác.

✿✿✿



PHÁP TU... THI KA..  TỨ VÔ NG..  TỨ BẤT HOI ..
 

 
.                            .                         .









IV- XẢ VÔ NG









X
 
xả bỏ, không dùng nữa, không chấp, dẹp qua luôn. X lượng bỏ hết tất
cả những pháp ở thế gian (như thầy tu thì chỉ ba y một bát), không còn một vật gì, hay một chướng ngại nào ở trong m. Vậy các pháp ở thế gian là pháp gì?   Các pháp thế gian là pháp trói buc như mạng lưới ta khó thoát ra. Các pháp y là: sc dục, tài sn thế gian, vật chất lớn, vật chất nhỏ, nhà cửa, ruộng vườn, danh thơm, tiếng tốt, tiếng khen, tiếng chê, thc ăn ngon d, ngủ nghỉ, anh em, bạn gần xa, chùa to, tháp lớn, miễu đình, tế tự, cúng bái, tụng niệm, ca ngâm, tủ giường, bàn ghế, ly cn, xoong nồi, Ti vi, Radio, tủ lạnh, kinh sách, kiến thức hc tập, thiên n, đa lý, toán, khoa học, kinh tế, chính tr hc, dịch số, bói toán, và các nghề thợ mc, thợ may, thầy thông, thầy



ký, thầy bùa, thầy cúng... Nói chung toàn bộ các nghề trên thế gian, đụng vào đâu cũng dính với ta, đổi nghề nó cũng dính với ta. T cái ly cái chén trong nhà cho đến kiến thức, hc thuật, tâm ta cứ chấp cái này cho đến cái kia (kiến chấp), làm cho chúng ta không giải thoát. Nếu không xả hết thì nó s làm ta bận tâm (so sánh, chống đối). Ta phải xả hết mọi tri kiến trong đầu của chúng ta, kể cả những kinh sách ta hc được bấy lâu. Chỉ còn một điều duy nhất trong đầu xả tâm cho hoàn toàn trong sch. Được như vậy mới là giải thoát. Nếu trong đầu còn nhớ Phật đã nói như thế y, thầy đã nói như thế kia chưa x. Bởi vậy Phật đã bảo: “Chánh pháp của ta còn phải bỏ huống hồ pháp thế gian. Phải xả lượng tâm vì tâm đng đâu nh đó.

Đạo Phật đạo siêu xuất, và mục đích ca đạo Phật x, xả lượng. Xả cũng là một chi phần của Thất Giác Chi. Xả tối đa được phần nào là tốt phần ấy. Nghĩa trong giai đoạn I của người sĩ ta phải xả thật sạch, trắng như vỏ c mới có thể bước sang lộ trình th hai của đạo giải thoát: xuất gia. Nếu người sĩ không chuẩn bị xả sạch giai đoạn tứ lượng tâm thì khi xuất gia khó mà tu hạnh tỳ kheo, đến đây ta phải tu tập các hạnh khác với người cư sĩ. Ta không còn nghĩ đến vic xả cái bàn, cái ly, hay giã từ vợ con,



phải tập luyện T Niệm Xứ, T Thiền, Bát Chánh Đạo T Diệu Đế. Nếu xả kỹ thì khi dụng công miên mật, ta chỉ cần một tuần cho đến hai, hay ba tuần là thể chứng ngộ (đạt Thiền). Không xả được thì ta bị trói buc hoài, bị trói buộc thì làm sao giải thoát? những người xuất gia 5 năm, 10 năm, 20 năm cũng không xả sch hoàn toàn (vẫn còn vướng mắc). Do đó, thầy phải làm gương ẩn bóng” đ xả cho sch và để làm gương cho mọi người thấy xả bỏ tất c, giã từ tu viện, xa rời đệ tử, không có một chút tài sn nào c. Nếu muốn làm lợi ích cho chúng sanh thì đâu không làm lợi ích cho chúng sanh? Cần phải ca, làm tr trì mới độ được chúng sanh? đâu người tu thì ta đến đó độ h, xong rồi thì mình đi đến chỗ khác. Cho nên đời sống du tăng, khất sĩ đời sống tuyệt vời, x sch. Đây là nét đặc trưng của đạo Phật. Người nào không thực hiện đưc như thế không phải tu sĩ đệ tử Phật.

Cần phân biệt người tu chân (xả thật) và người tu gi, không dám xả hết, chỉ x na chừng, hoặc không xả c. X dục lc thế gian thì thầy tu có thể x đưc, nhưng chùa miễu thì nhiều người không x được. Tóm lại, muốn chấm dứt sanh tử luân hồi thì dứt khoác phải buông xả tất cả. Phải nhớ, được thân người rất khó, nếu không nỗ lực tu hành thì mãi mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi.



Trưởng Lão TCH THÔNG LC
 

1) TU TẬP XẢ CÁI GÌ?




A
 
- X BỎ NĂM TH DC LC: sc dục, tiền bc, danh tiếng, ăn, ng.

1- Tránh xa sắc dục: đừng gần gũi người khác phái.

2- Không cất giữ tiền bạc, châu báu. là con rắn độc, khiến cho ta phải nô lệ suốt đời. Bởi vậy trong giới luật, Phật cấm các tỳ kheo cất giữ tiền bạc, mà những người mới xuất gia, thọ giới sa di cũng không được ct giữ tiền bc.

3- Tránh xa danh lợi: nếu ai khen mình tụng kinh hay mình tụng, thâu băng đem phổ biến thì đó cầu danh. Nếu ai khen thuyết pháp giỏi mà mình ra sức thuyết pháp hoài thì cũng danh, là dc lạc.

4- Ăn mỗi ngày một bữa. Phải quán thức ăn là bất tịnh, như thuốc tr ghẻ đói cho ta.

5- Ngủ phải luôn luôn tỉnh thc, không có sợ thiếu ngủ, thèm ngủ. Nằm suốt đêm không ngủ là xả ngủ.

Năm thứ dục lạc này mà ta không xả được thì không bao giờ ta x được những thứ khác. Nếu ai



khen ta mừng, gặp gái đẹp mà nhìn, v.v... thì đến khi xả sáu thứ dục lạc thế gian (sắc, thinh, hương, v, xúc, pháp) làm sao xả nổi? còn khó hơn ngũ dục lạc rất nhiều. Đây là đối tượng ca tâm, luôn luôn cám dỗ ta để tr lại phc vụ năm thứ dục lạc trên.
B
 
✿✿✿

- X BỎ SÁU TH DC LC: Đó đối tượng ca sáu giác quan: sắc thanh, hương,
vị, xúc, pháp.

1- Sắc: sắc là đối tượng của mắt. Sắc trong ngũ dục lạc sắc dục, còn sắc trong sáu trần là hình ảnh, sc tướng của các pháp, như cassette, Ti vi, tủ lạnh,  n,  ghế,  ly,  tách,  nhà,  xe,  người,  vật. Những hình ảnh sức cám dỗ ta, tâm ta thích thú, khả ái, khả lạc, khả hỷ.

2- Thinh: âm thanh của người, vật, nhạc cụ làm cho tâm ta thấy khả ái, khlạc, khả hỷ. T dụ thích thú khi nhảy đầm theo điệu Rumba, Twist, Lambada, v.v...

3- Hương: mùi thơm ca các pháp sức hấp dẫn khiến cho ta thấy khả ái, khả lạc, khả hỷ.

4- Vị: mùi vị ngon ngọt, cay, đắng, có sức cám dỗ làm cho ta d chịu, ưa thích, khả ái, khả lc, khả h. Đứa con ăn cái bánh ngon cả tháng



vẫn còn nh, còn thèm, c nhắc hoài: “Chừng nào ba đi ch, nhớ mua cho con cái bánh hiệu....

5- Xúc: Sự va chạm của các pháp sinh ra cảm giác mát, êm, nóng, lạnh, đau nhc, nhẹ nhàng, lâng lâng, say say, cảm giác khoái lạc, cảm giác khó chịu, cảm giác sung sướng, mừng vui, buồn khổ... Người tu thiền mà trạng thái thích thú say đi vào hang quỉ. Nên nhớ là tu thiền để làm chủ sanh tử, tc làm cho các hành ngưng hoạt động; sau đó thì ta cho phục hồi sinh hoạt, trở về hơi thở bình thường. Tu thiền không phải đi vào đó để thọ dụng cái lạc thú của thiền định mà là để lấy lại sc cho ngày hôm sau tiếp tục làm việc.

6- Pháp: pháp đây không nghĩa là bàn ghế, nhà, cửa là s hiểu biết của cổ kim, nhân loại. Nó bao gồm cả khoa học, toán học, văn học, sử học, thiên văn học, các kinh sách của các tôn giáo lớn trên thế giới và giáo của đức Phật. Đó là kiến chấp ca người thế gian. Nó lôi cuốn và làm cho tâm ta ưa thích, xem đó chánh pháp, là đúng pháp, ôm chặt khư khư, cho đó khuôn vàng thước ngc. Tu hành như thế khiến cho ta thấy khả ái, khả lạc, kh hỷ, rồi dính mắc không buông bỏ được. thế cho nên mới có tranh luận hơn thua, chia ra pháp này, pháp nọ, không gì giải thoát. T dụ cúng kiếng vào các ngày giỗ, kỵ



(ở nhà), hoc giỗ tổ (ở chùa), nếu ta không làm thì bị mọi người than phiền, chỉ trích. Mà làm tức là bị các pháp trói buc, ta làm nô lệ cho phong tục, tập quán. Cho nên phải cương quyết bứt b, mặc cho ai công kích, phản đối, ta phải nói: “Tôi là thầy tu, tôi không th làm chuyện tín như thế”.

Tóm lại, các pháp thế gian là pháp cám d, lôi cuốn con người đi đến chỗ làm ác, tạo bao cảnh khổ cho nhau. Người ta sát phạt nhau bằng lưỡi gươm, miệng kiếm. người chấp vào pháp tu của mình và nói xấu các thầy khác.

✿✿✿

2) CÁCH THC TU TẬP XẢ TÂM

Muốn trau dồi tâm x các pháp thì ta phải làm sao? Hãy tìm một nơi thanh vắng, tịch mịch như trong rừng, gốc cây, hang đá, khe i, bãi tha ma, lùm cây ngoài tri, bóng mát, trong chòi đ tập xả các pháp. ngay trung tâm thành phố thì khó mà xả đưc, nhất là đối với người sơ cơ.

Sau khi ăn cơm độ hai tiếng đồng hồ, khi thức ăn đã tiêu hóa, lúc không thấy no, ta mới bắt đầu tu tập: ngồi kiết già, lưng thẳng, an trú, đặt niệm



trước mặt, quán sát:

A
 
✿✿✿

- SC DC: Con người ta sinh ra từ sc dục. con đường sanh t, luân hồi, cho
nên ta phải lấy làm đối tượng quán chiếu. là con đường đưa đến đau khổ cho ta cho người. Thương u, cưới nhau, rồi sinh con đẻ cái, lo nuôi  nấng  cho  con  lớn khôn,  rồi  dựng vợ, gả chồng cho nó. C một đời đau khổ! Vậy mà người ta cchạy theo sắc dục. Qu minh! Quả là ngu si! Ta phải như tác ý:

“Sắc dục con đưng sanh tử của muôn loài, con đường đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác. Ta phải xả bỏ, từ khước, thoát ly, ra khi, từ giã, không nên để tâm vướng mắc nó nữa”.

Ngồi yên lặng một lúc thì ta lại tác ý xả nữa, xả hoài cho đến khi nào ta thấy tâm ta hoàn toàn sch hết thì s tu tập mới viên n.

Đức Phật dạy như thế thôi, riêng Thầy, rút ra từ kinh nghiệm bản thân, Thầy dạy cho các con để tu tập rốt ráo, đ thấy con đường giác ngộ thênh  thang.  Nếu  không  đặt  niệm  trước  mặt, không dùng pháp hướng, như tác ý thì khó mà xả được tâm này. Nó chờ hội để bùng lên như lửa. Ta phải tu tập hoài để cho thấm nhuần tận



xương tủy mới thôi. Chớ tưởng ngồi im lặng một lúc thấy khinh an, hỷ lạc hài lòng. Hàng ngày các con phải siêng năng trau dồi, tu tập câu này để đoạn tuyệt, dứt tận tâm ái dục. Bản thân chúng ta sinh ra từ cha m ta cũng do tâm này, cho nên ta cũng không dễ gì dứt được tâm này.

Nếu câu này chưa đạt đưc kết quả (hãy còn dục) thì ta hướng tâm như tác ý:

“Sắc dục bất tịnh, uế trược, nhớt nhao, hôi thúi, khó chịu cùng, tạo muôn ngàn tật bệnh, tai ương, truyền nối nhau nhân quả luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác, không bao giờ dứt, một người để lại muôn người khổ, nối tiếp nhau vô cùng tận. Ta phải xả bỏ, xa a, viễn ly nh viễn, xem như rắn độc, ung nht, cho nó hiểm nguy nhất, tai họa, ác độc, bệnh truyền nhiễm, nan y, khó chữa. Dứt khoát từ bỏ!”

Câu sau mạnh n, như truyền lệnh thì may ra ta mới thể xa a. Cuộc đời tu hành cả một sự rèn luyện, trau dồi chứ không thể nói suông được. Nhc xong ta ngồi đó để lặng tâm, giữ tâm thanh thản. Một lúc sau ta lại nhc na, nhắc hoài như đập những nhát búa để cho tâm dần dần thấm nhuần, trau dồi tâm, xả sch sc dục, thấy sc dục là ta hoảng sợ, không dám nghĩ tới. Nếu không thì nó s ngủ ngầm, tạm thời nằm n, nhưng dịp



len lén ngắm nhìn (người nữ). Tu tập đưc thì thấy như rắn đc, bệnh tật, là khổ đau, không còn cảm giác thích thú na.

Trong kinh T Niệm Xứ dạy trên thân quán thân, nhưng đây dạy chung chung, người tu tập chưa nắm vững. T dụ Phật dạy trên thân quán thân để khắc phục tham ưu của mình, mà mình không biết lúc nào khắc phục tham ưu, lúc nào khắc phục bất tịnh. đây ta xả cái tâm sắc dục, tâm ái bằng cách đặt niệm trước mặt, tức trên thân của ta quán thân, quán thân mình và quán các pháp bất tịnh. Sau này dịp Thầy s giảng rõ hơn, dùng câu pháp hướng nào để phá vỡ cái nào mà ta đang bị vướng mc. Người đọc kinh sách Phật, không hiểu tu tập, nay pháp y, mai pháp khác, không kết qu cụ th, càng tu càng chán nản, lầm đường, lạc vào pháp tu ca ngoại đạo c tưởng pháp Phật.

Tóm lại, muốn x tâm lượng ly sắc dục thế gian thì ta phải siêng năng trau dồi tâm xả của ta. Hàng ngày không được biếng tr thì mới xả ly được. Hãy tinh tấn, chớ phóng dật theo nó, nghĩa là luôn luôn tinh tấn, ngăn chận, nhất là đối với nữ sc.  Đó  là  điều  tiên  quyết  quan  trọng. Đừng có nhìn gương mặt người n, đừng nhìn tướng tá, làn da người n, mắt, môi ca người n. Phật dạy: “Ta không thấy một pháp nào lôi



cuốn người nam bằng nụ cười, ánh mắt, làn da, hương thơm của người nữ”. Vậy muốn tập xả tâm này thì ta không được phóng tâm theo nó, đừng chạy theo nó. Ráng tập luyện xa lìa như vậy độ ba tháng sau quý vị s thấy kết quả rất tuyệt diệu. Nếu quý Thầy tu tập hôm sau gặp các bà, các mà nói chuyện huyên thuyên thì thà rằng tr v nhà cưới vợ cho xong, ngồi tu cho có hình thức làm gì, ích.
B
 
✿✿✿

- X TÂM VÔ NG CA BÁU, VÀNG BC, CA  CI  TH GIAN:  X tâm  
lượng xả tất c (vô lượng) các pháp, mà tiền
bạc, châu báu thứ khó xả nhất.  Bởi vậy phải tu tập nhc đi, nhc lại nhiều lần. Ta nghe chuyện ông Bàng Long Uẩn đem hết ca cải, vàng bạc đổ hết xuống sông, nhưng mấy ai làm được? Có người cho rằng ông ta ngu quá, tại sao không cho người khác? Đó suy nghĩ không đúng. Ta đã biết nó tai ha, ta c chừa bỏ mà ta lại mang cái khổ, cái họa cho người khác hay sao?  Ông Bàng Long Uẩn thấu điều ấy nên ông vứt bỏ, không nuối tiếc.

Ta phải ngồi kiết già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt, dùng pháp như tác ý câu này: “Tiền bạc, của cải, châu báu những thứ vật chất lôi



cuốn ta rất mạnh, làm cho tâm ta ưa thích, say mê chạy theo, tạo ra biết bao điều tội ác. Người nông dân khó nhọc mới có hạt gạo cho ta ăn,  lưỡi cày  đã  cắt  đứt  biết  bao  nhiêu  côn trùng, rồi thuốc trừ sâu, diệt c... Đó cái nghề lương thiện còn mang nghiệp sát, hung hồ những nghề không lương thiện, lường gạt, hãm hại nhau tng đồng bc mà xâu xé, giết hại nhau”. Nên lấy câu trạch pháp này trau dồi nhiều lần để tâm ta thấm nhuần.

“Tiền bạc, của cải, châu báu thế gian tên chủ độc tài, sai bảo ta làm bất cứ cái ta cũng mờ ám vâng theo, tạo ra rất nhiều tội lỗi. Vậy ta phải từ giã, xa lìa ông chủ này đ thoát kiếp nô lệ. Chính bắt ta hút thuc, uống rượu, cờ bạc, tạo nhiều điều tội lỗi.

Những kẻ xa lìa tiền bc, ca cải, danh lợi mới là bc chân tu. Khi họ cất chùa to họ bị đồng tiền sai s. Ta phải ghi nhớ điều này: người tu sĩ không lệ cho ông chủ tiền bạc. Nếu các tu sĩ mà còn cất giữ tiền bc, tiếp nhận của cải vật chất thế gian càng nhiều thì càng ăn ngủ không yên (sợ vua tịch thu, chính phủ nghi ngờ, kẻ gian vào, trộm cướp hãm hại), mạng sống như chỉ mành treo chuông. vậy ta phải xa lìa, dứt bỏ chúng. Phải ghi nhớ mãi câu pháp hướng, như tác ý để ta



lượng.

Đó xa lìa của cải, tài sản lớn. Người tu thì không ham tài sn, của cải lớn, nhưng người lại kẹt vào tài sn, của cải nhỏ như cái y, cái bát, cố cất giữ cho riêng mình.

Tùy theo đặc tướng ca mỗi người mà lựa chọn một trong hai pháp hướng k trên. Hoặc có thể dùng câu pháp hướng sau đây:

“Tài sản, của cải, vật chất chế gian rắn độc, ung nhọt, truyền nhiễm. Có ngày ta s bị rắn độc cắn, hoặc bị bệnh truyền nhiễm. Ta hãy xa nh như bị bệnh cùi; đừng cất gi, đng tích trữ”.

Tóm lại, cn trau dồi, tu tập tâm này cho đến khi thấm nhuần mới mong viễn ly được tâm đắm nhiễm tiền bc, châu báu thế gian.
C
 
✿✿✿

- X VÔ LƯNG TÂM DANH: Danh là tiếng khen, tiếng ca ngợi, tán thán, tốt đẹp,
chứng ng,  chứng đạo,  được trao  truyền  quan chức, trao truyền tâm n, cp bằng y, cấp bằng nọ, Đại Đức, Bà, Trưởng, Hòa Thượng, Thượng Tọa, Giám Đốc, Phó Giám Đc, Viện Trưởng, Phó Viện Trưởng, Viện Chủ, Pháp Chủ, thiền đức, cao tăng, giới đức, thánh hiền, thần,



thánh, tiên, Phật. Ai không muốn làm tr trì? Ai không mong làm Pháp Ch, Viện Trưởng? Khi đưc danh thì người ta thích thú, nên bị thu hút chạy theo danh. Có người quá cuồng loạn, rồi thất vọng, tự t. người công danh không thành, tình yêu bị phụ rẫy nên vào chùa đi tu. Có k mơ được cái danh nhỏ như làm thầy thông, thầy ký, thầy giáo, giáo (còn hơn là làm đầy tớ bị người ta xem thường). Có người làm phó đội trưởng mơ làm lên  đội trưởng; khi làm đại  thì  mặt cứ ngẩng lên trời, nghênh ngang chẳng coi ai ra gì. Thật ra, những người quyền chc cũng là con người như ta. Họ cũng niềm vui, nỗi buồn, bệnh hoạn, khổ s như bao nhiêu người khác. Vậy thì tại sao lại phải khúm núm trước kẻ quyền uy? Việc mà ta phải s hãi?

người đi làm từ thiện, kêu gọi người ta đóng góp, rồi cầm tờ giấy khen để khoe thiên h là mình đã cúng chùa bao nhiêu tiền, giúp cho bao nhiêu viện mồ côi, đã bao nhiêu lần tc tượng, đúc chuông, v.v... Nhưng thử hỏi tâm họ thật từ thiện không? Hay mở miệng ra thì mắng chửi người như tát c? Vậy thì ta thương người chỗ nào? Chạm tự ái họ họ muốn giết ta. người thì đến đâu cũng có tiền hậu ủng, có năm, mười chiếc xe chạy theo hộ tống...



người. Bản ngã lớn lên theo cái danh vọng, đa vị của người ta. Hôm qua còn làm đầy t, ngày nay làm quan thì cái mặt c vênh o. Như người đánh xe ngựa cho Thừa Tướng Yến Anh, anh ta cứ tưởng mình là Thừa Tướng, nên đi đâu cũng quát tháo, đánh đuổi người ta. May anh vợ biết điều, đã sửa đổi tâm tánh anh. Bởi vậy ta phải thường xuyên như tác ý. Tâm con người ai mà không háo danh. Phải đánh cho gục xuống, đừng bao giờ đ cho cơ hội vùng n. Đến phần thực hành, chúng ta cần phải lưu ý, tâm chuyên nhất cảnh. Ta phải chọn một nơi thanh vắng như bãi tha ma, sơn lâm, đống m, chòi lá, gò mả, đồng trống, gốc cây, gộp đá. Sau khi ăn cơm xong, nghỉ ngơi độ hai giờ, ta ngồi thẳng lưng, như tác ý. T dụ:

“Danh một dục lạc ảo giác, nuôi lớn ngã mạn, khiến tâm ta thường đau kh, hay tranh cãi, lý luận, phiền não. Ta hãy xả bỏ, từ bỏ, chỉ biết có tu hành thanh tịnh tâm để ra khỏi sanh tử, luân hồi thôi.

“Danh tên gic hão huyền không thật. Nó thường lôi cuốn tâm ta tỏ ra những hạnh xấu, hiu hiu, tự đc, tự cao, tự đại, cống cao, ngã mạn. Ta hãy xem như không có thật. Ta chỉ một con người như bao nhiêu người khác, một con người rất tầm thường thôi.



“Danh một thứ dục lạc hình, thu hút, cám dỗ ta rất mạnh, khiến cho ta thêm ngã mạn, cống cao, do đó sanh ra ngũ triền cái (tham, sân, si, mạn, nghi). Danh khiến cho triền miên đau kh, vậy ta phải cương quyết từ bỏ, viễn ly, xa lánh cái danh”.

“Danh một dục lạc một ma lực vô hình, cám dỗ, lôi cuốn con người vào trong sanh tử luân hồi. Vậy ta từ phải bỏ, viễn ly, xa lánh cái danh bất cứ trường hợp nào.

Người tu sĩ lãnh đạo tăng đoàn mà lãnh cái danh vào chùa là lãnh rắn độc, rắn s cn chết chúng tăng. Vậy người tu sĩ phải xa lánh cái danh, cái lợi để cứu lấy chúng tăng, cứu lấy Phật giáo.

Hàng ngày ta phải đặt niệm trước mặt, hướng tâm như thế, không khéo thì bản ngã ta đồ sộ thêm lên theo cái danh y. Người tu sĩ phải ghi nhớ là trong năm pháp dc lạc thì danh là hơn c, khó tr cùng. Phải đập bp nó, tr khử nó. Đừng đcho nó vùng n, và điều khiển ta.
D
 
✿✿✿

-  X TÂM  VÔ  NG TÂM  ĂN: Làm người ai không thích ăn ngon. Xả cái ăn
không nghĩa là ta ăn muối, mà chính x cái tâm tham ăn. một dục lạc lớn trong đời ta.



Nên nhớ: Ăn để mà sống, chớ không phải sống để ăn”. Hãy quán cái ăn như uống thuc, như tr bệnh ghẻ l.

Ăn thấy n, thấy ngán, bị dục lạc cám dỗ. Ăn mà thấy ưa thích cũng bị dục lạc cám dỗ. Chừng nào không ưa thích ăn ngon, không chê thức ăn d, không ngán, không ớn không bị dục lạc ăn cám dỗ.

Tóm lại, ăn thứ dc lạc ghê gớm (do thc ăn tiếp xúc với vị giác), tạo nên sự ưa thích, cám dỗ khó cưỡng lại. Phàm phu không học thánh pháp và tùy pháp nên thường bị ngã gc trong mặt trận cám dỗ ăn uống này. Chỉ bậc tu hành, giữ đúng giới hạnh mới thoát ra đưc. T dụ lâu ngày không ăn đường thèm quá, thấy ai mời một ly sữa là phóng tới lấy ngay. Thèm chua, nghe người ta tả trái me chua cũng đủ chảy c miếng, huống hồ nghe người ta ăn, nhai nhóp nhép.

Muốn không thèm ăn thì phải thường như lý tác ý đ cho thành tựu. Bị cám dỗ bởi cái kẹo, ly nước chanh, hay một viên sinh tố (vitamin) C, hoặc viên thuốc dạng kẹo (kẹo ho) còn mang tội ăn phi thời, huống hồ ăn các thức ăn khác. Người tu hành phải diệt tr cái tâm tham ăn, làm chủ cái ăn, không ăn phi thời. Tu thiền mà ăn một ngày ba ba thì chừng nào mới làm chủ được sống chết? Người nào còn chạy theo dc lạc ăn, ăn phi



thời phi phạm hạnh, ngạ qu, quỉ sa tăng. Phần đông các tu sĩ ngày nay, từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc đều bị quỷ dc lạc ăn cám dỗ và lôi cuốn xuống đa ngục. Không khc phc được ma dc ăn thì làm tu được chánh thiền, chánh định? Tu sai một hào ly là cách xa đạo giải thoát một ngàn dặm. Đi tìm đạo giải thoát tự trói mình  trong  ăn  uống  thì  giải  thoát   chỗ  o? Người ở thế gian bị lôi cuốn vào cái ăn đã đành, người tu sĩ không giải thoát đưc cái ăn không thấy xấu hổ sao? Như vậy thì làm sao giải thoát sinh tử? Có người nhập thiền định không ăn uống từ bảy ngày cho đến một tháng không chết (sau đó phc hồi dần cơ th, sinh hoạt lại bình thường). Nhập thiền định một ngày làm chủ sống chết một ngày, nhập đưc một tháng làm chủ sống chết được một tháng.

Người tu làm chủ sanh, già, bệnh, chết, ưu bi, su khổ chỗ o? Đó chỗ lìa được ba cái dục danh, sc, lợi nói trên. đây, lìa cái ăn tức là lìa sống chết. Người tu sĩ phải từ bỏ tài sản nhỏ, tài sn lớn, bà con quyến thuc nh, bà con quyến thuộc lớn, từ bỏ danh lợi thế gian, quyền tước lớn, nhỏ, để sống thiểu dc, tri túc (ba y một bát). Đó là sống như lời Phật dạy: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, thì mới giải thoát đưc sanh, già, bệnh, chết, ưu bi, sầu kh, chấm dứt luân hồi.




E
 
- X VÔ NG TÂM NG: ngủ một trong  năm thứ ngũ  dục lạc, khiến cho  ta
thích thú, ham ngủ. Ngủ cũng trạng thái ngu si, mê muội, bần thần, giã rượi, lười biếng. Cho nên người lười biếng người ham ng. Ăn chơi, trác táng, cờ bạc, rượu chè, thc khuya, làm vic quá nhiều cũng sanh ra buồn ngủ.

Trong việc tu tập thiền định thì ngủ nhiều cấp độ:

1- Hôn trầm: ngồi một lúc gc xuống, rồi lại ngẩng lên.

2- Thùy miên: cúi đầu xuống, quẹo cổ qua một bên ngủ thiếp đi.

3- Hôn tịch: lúc mê, lúc tỉnh, mơ, màng màng. T dụ: Ý tu tập đếm hơi thở lúc nh, lúc quên.

4- ký: chợt quên. Khi quên thì tâm không còn tĩnh giác, vọng niệm liền khởi.

5- Ngoan không: kéo dài là ngoan không; còn gọi là không ngơ.

Ngoan không nguyên nhân phát sinh ra trí tuệ tưởng giải.

Pht dạy ngưi mới tu phải tu Chánh Niệm
Tỉnh Thức, kinh hành nhiều (làm cho sức tỉnh



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!