thật mạnh),
trên thân quán thân, theo hành tướng
ngoại để sức quán cho vững, và không rơi vào hôn trầm,
thùy miên, hôn tịch, vô ký. Không lo tu tập tỉnh
thức mà lo ngồi kiết già, quán hơi thở, đặt đề
mục, ngồi quá lâu, cơ thể mỏi mệt, thì hành giả sẽ
thiếp dần trong trạng thái
mỏi mệt, mất khả năng suy tư,
làm cho ngu si, tu hành lạc nẻo mà không hay
biết. Cho nên tất cả những loại ngủ này đều
gọi chung là si thiền, si định. Người tu theo tà
thiền, định tưởng thường rơi vài năm loại ngủ này, không
sao tránh khỏi.
✿✿✿
3) NGUYÊN NHÂN CỦA CHỨNG BUỒN NGỦ
|
gười tu hành muốn vượt qua năm thứ si
thiền này thì phải hết sức tận dụng khả
năng để xả bỏ nó. Nếu thấy mỏi
mệt mà lo đi ngủ ngay
là sai, nếu ngồi thiền mà rơi vào
trạng thái ngoan không là tu sai pháp. Phải phá nó đi, đừng cho
nó nhập vào thân ta. Vì ngủ cũng có vô lượng hình
thức và trạng thái ngủ khác nhau, nên cũng
phải có vô lượng pháp
để xả ngủ.
- Đi tàu, đi xe bị say sóng, gió, cảm thấy ngây ngây
như ngủ.
- Bị cảm gió, thân lừ đừ, nóng, lạnh, v.v... và tất cả những
bệnh khác đều có thể làm cho cơ thể uể
oải khó chịu.
- Cơ thể lờ đờ, tu sai cũng buồn ngủ. Thí dụ khả năng ta tu tập quán sổ tức chỉ có thể đếm độ
1000 hơi, mà bây giờ ta ráng lên đến 1500 hay
2000 hơi, quá sức của nó thì làm sao không buồn
ngủ?
- Khi trụ tâm không đúng chỗ cũng buồn ngủ
- Làm việc quá sức, mệt mỏi cũng buồn ngủ.
- Sống cô độc, cờ bạc, rượu chè sanh ra buồn
ngủ.
- Trai gái dục lạc quá độ cũng sanh ra buồn ngủ.
Vậy, muốn xả vô lượng tâm ngủ thì phải
làm sao?
Muốn xả vô lượng tâm ngủ phải tùy theo tình trạng cơ thể mà tu tập hoặc chữa trị. Phải hết sức thận trọng trong việc trau dồi tâm này:
1- Phải biết buồn ngủ trong thân là loại nào.
2- Tùy theo bệnh trạng buồn ngủ mà dùng thuốc thang để trị.
3- Cương quyết, mạnh mẽ dứt bỏ những thói
quen xấu, những trò chơi không lành mạnh, có hại
cho cơ thể (cờ bạc, rượu chè, vui chơi thâu đêm,
sáng hôm sau mệt mỏi ngủ gà, ngủ gật).
4- Phải rèn luyện nghị lực, chiến thắng những
trạng thái lười biếng.
5- Lấy
nước súc
miệng, rửa
mặt, hoặc tắm
nước lạnh. Phải có biện pháp mạnh để đối trị
chứng lười biếng, ham ngủ. (Lười
biếng phải lấy roi mà quất cho đau, lấy dao mà rạch, lấy muối mà
xát vào vết thương).
6- Ngồi chỗ nguy hiểm để cho tâm sợ
chết
mà không dám buồn ngủ (ngồi
trên chảng ba cây cao,
ngồi trên tảng đá cheo leo, sơ sẩy là rớt xuống vực
sâu).
7- Đọc kinh sách, tìm hiểu nghĩa
lý trong kinh cũng
là một cách dứt phá buồn ngủ.
8- Ngồi quán xét, tìm xem chứng
buồn ngủ từ đâu mà đến, khiến tay chân ta bần thần, lười biếng như
thế này. Quán xét một lúc thì cơn buồn ngủ
tan đi.
9- Xem sao trên trời (nếu người thích thiên văn), tìm lý do diễn biến của vũ trụ.
10- Đem một số
truyện hình ra xem.
11- Đi kinh hành cho nhiều
sẽ
không buồn ngủ (tu tập tỉnh thức).
12-
Tu
vô
lậu, quán
xét vô thường, khổ,
không, vô ngã trong thân ta (tu tập Định Vô
Lậu, Chánh Niệm Tỉnh Thức).
13- Đi kinh hành trau dồi lòng từ tâm của mình dưới bước chân đi, tránh giẫm đạp chúng
sanh. Thí dụ ban đêm đi kinh hành ta không nhìn thấy
chúng sanh, khó mà tránh được. Vậy ta phải
nhắc: “Ban đêm tôi đi kinh
hành, không thấy
chúng sanh. Xin tránh cho tôi đi”. Hoặc
là câu “Tất cả các chúng sanh
ở dưới chân
tôi, hãy tránh cho tôi đi”. Và
“cảm ứng đạo giao nan tư
nghì”, khi chúng ta đi đến đâu thì các chúng sanh
sẽ tránh cho chúng ta đi. Như vậy ta vừa trau dồi tâm từ, vừa đối trị chứng buồn ngủ lúc đêm khuya
thanh vắng.
14- Dùng như lý tác ý: “Cái ngủ này vốn
không có trong thân tứ đại này, chỉ do ngu si, mê muội, lười
biếng, thiếu tinh tấn nên mới thọ sanh.”
Ngồi kiết già lưng thẳng, quán chiếu để thấy
cái ngủ này do đâu mà có. Khi tác ý thì phải
như truyền lệnh, dùng hết tâm lực của tinh thần, mạnh
dạn làm cho cơn ngủ mau lui bước. Khi đối trị với
buồn ngủ
thì
phải sáng suốt
thông
minh, nếu
không thì chứng buồn ngủ càng tăng, và ta càng
vất vả hơn khi chống
trả
lại nó.
Tu hành theo đạo Phật là phải siêng năng, bền
chí, kinh hành nhiều (Đức Phật ngày xưa đã kinh
hành rất nhiều về đêm, và Ngài ngủ rất ít).
Luôn trau dồi tâm ngủ dưới chân mình bằng
pháp hướng tâm như lý tác ý: “Buồn ngủ, phải lui
đi! Lười biếng, phải lui đi!”
Đó là những câu ám thị ngắn mà ta áp
dụng khi buồn ngủ và ta đi kinh hành
thì sẽ rất tỉnh táo. “Cơn mơ mơ, say say, hãy lui đi! Thân tâm phải tỉnh
táo”. Nhắc nhiều lần như vậy trong khi đi, giống như ra lệnh, một lúc sau thì ta hết hôn trầm,
thùy miên.
Bấy lâu nay chúng ta khổ sở vì chứng hôn trầm
mà không có cách, không có người hướng dẫn để tu tập. Trong giáo án này, thầy đưa kinh nghiệm của bản thân Thầy để giúp
cho quý thầy và các phật
tử nương vào đó làm pháp mà tu tập. Nếu tu không có kết quả là tu tập sai, dùng pháp hướng sai. Nếu theo đúng pháp hành của nó quý vị sẽ thấy hiệu quả tức thì, tất cả hôn trầm, thùy miên đều
lui dần, tâm của quý vị sẽ được thanh thản, an lạc, rất tỉnh táo.
Sau đây, chúng ta thử xét xem chứng hôn trầm
do đâu
mà có, và làm thế nào
để phá hôn trầm.
✿✿✿
|
. . .
4) NGUYÊN NHÂN ĐƯA ĐẾN HÔN TRẦM
|
gười tu thiền thường rơi vào hôn trầm vì
nhiều nguyên nhân khác nhau:
1- Lao động chân tay nhiều, hoặc thức
khuya mệt mỏi, sanh ra hôn trầm. Đi xe, đi tàu, say sóng,
say gió, cảm thấy ngây ngây như ngủ.
2- Tu tập quá nhiều, hoặc tu sai pháp cũng
sanh ra hôn trầm.
3- Tu tập quá ít, sanh ra lười biếng nên bị hôn trầm.
4- Sống độc
cư sanh ra hôn trầm.
5- Uống thuốc chỉ thống, sanh ra hôn trầm.
6- Khi tâm bị bệnh, hoặc trụ tâm không đúng
chỗ cũng sanh ra hôn trầm.
7- Bị ma chướng
hôn trầm.
✿✿✿
|
5) CÁCH ĐỐI TRỊ HÔN TRẦM
|
uốn phá hôn trầm, phải tùy theo mỗi thứ
mà phá:
1- Lao động chân tay nhiều sanh ra hôn trầm. Người
tu tập không nên lao động nhiều và lao
động quá sức. Nên nhớ là lao động để mà tu chớ
không phải lao động để hết công
việc. Tu tập là sự lao động rất lớn về trí, nếu lao động cơ thể quá nhiều, không thể nào tránh khỏi hôn
trầm. Người cư sĩ phải biết giữ gìn sức khỏe, không nên phí
phạm sức khỏe trong các cuộc vui chơi trác táng,
thức khuya, trà, rượu, thuốc
hút, v.v...
2- Tu tập là một sự lao động về tinh thần. Nếu tu tập nhiều, tinh thần mỏi mệt dễ đưa đến hôn
trầm. Nếu hôn trầm do sự tu tập thì nên đặt lại thời khóa
tu tập cho hợp với sức
của
mình, thì sẽ hết
hôn trầm, và càng tu càng thấy thích thú hơn.
3- Tu ít (có quá nhiều thì giờ nhàn rỗi) sinh ra
lười biếng, dễ bị hôn trầm tấn công: nên tu đúng theo
thời khóa thì hết hôn trầm.
4- Người mới sống độc cư, cô đơn, không nên
ngồi thiền nhiều.
Đừng nên ở không, phải
lao
động vừa sức, nhẹ nhàng, thì hết hôn trầm.
5- Uống thuốc chỉ thống sanh ra buồn ngủ: nên
đi ngủ, khi thuốc tan hết thì hết buồn ngủ.
6- Thân bệnh sanh ra hôn trầm: nên tịnh dưỡng trị bệnh. Tu ít lại, xả nghỉ, thì hôn trầm sẽ hết.
7- Bị ma chướng hôn trầm thì đi kinh hành, dùng
pháp hướng và đem hết nghị lực chiến đấu
bằng cách liên tục động thân. Hoặc rửa mặt, đi
tắm, hoặc làm tất cả những
hành động khác, mục
đích là giữ đúng giờ, không đi ngủ trước.
8- Còn một cách nữa
là trèo lên bồ đoàn, ngồi kiết
già, lưng thẳng, mắt nhìn xuống chóp
mũi, tập trung tâm tại nhân trung, biết hơi thở ra vô tại đó,
đồng thời hít vô chậm chậm cho hết sức. Hít vô xong
rồi, thì cũng chậm chậm
thở ra cho hết. Tiếp tục
thở như vậy cho đúng 10 hơi thở thì sẽ hết hôn
trầm.
9. Nếu không hết thì còn có một phương cách
cuối cùng là làm cho hơi thở phát ra tiếng
kêu; nghĩa là thở mạnh
có âm thanh, thở
đến khi nào không còn bị hôn trầm mới thôi. (Trích Đường Về Xứ Phật VIII, trang 207-209).
Tóm lại, người tu sĩ đạo Phật, bằng mọi cách,
phải xa lìa năm thứ
dục lạc kể trên để chấm dứt sanh tử,
luân hồi. Mục đích tu hành theo đạo Phật là
làm chủ năm thứ dục lạc, là xả ngũ dục lạc (tài,
sắc, danh, thực,
thùy). Nếu quý vị không xả được
năm thứ ngũ dục lạc ấy thì dù cho tu thiền một ngàn
năm cũng là ma thiền, tà thiền.
Có nhiều đạo sĩ tu khổ hạnh nhiều năm trên
núi, ăn toàn lá cây rừng mà sống được, người ta
đem chôn xuống đất mà không chết, dìm xuống nước, đi trên lửa, mặc áo mỏng đi ngoài trời rét dưới
-37 độ C vẫn không hề hấn gì. Vậy mà đem
thi triển, biểu diễn từ nước này sang nước khác
cho mọi người và báo chí xem (còn háo danh!).
Người tu chân chính có ai làm như vậy
bao giờ?
Đức Phật dạy ta tháo gỡ những khó khăn của kiếp sống để được an vui, giải thoát. Người nào tu tập tứ vô lượng tâm mà còn vướng mắc trong ngũ
dục lạc thì dù cho người ấy có lý luận như thế nào
thiên hạ cũng biết, dù có thần thông, bay như chim,
lặn xuống nước,
độn thổ, tàng hình, có bùa chú thần linh, kêu mây, hú gió, người
ta vẫn biết là ông ta chưa chứng đạo.
Đời sống của một tu sĩ mà ở chùa to, tháp lớn, ăn ngày ba bữa, vật dụng không thiếu thứ gì là đời
sống
của thế gian pháp. Phàm phu tục tử bị năm thứ dục lạc trói buộc là đời sống phi giải thoát. Tu
sĩ
mà sống như thế là đời sống phi phạm hạnh,
không phải là đời sống xuất thế gian của thầy tu
đạo Phật.
Chỉ cần nhìn vào đời sống của tu sĩ thì ta biết
ngay là Phật giáo hưng thịnh hay không. Xã hội
còn có thầy tu khất sĩ Phật giáo là còn hưng thịnh,
nếu có nhiều chùa to, tháp lớn là Phật giáo suy
đồi. Khi người tu sĩ Phật giáo mà không lấy ba thánh pháp (Giới, Định, Tuệ) làm chỗ nương
tựa vững chắc (thì dễ phạm lỗi lầm), không
biết xấu hổ trước
những lỗi nhỏ nhặt thì chánh pháp phải suy đồi. Khi nào còn các thầy tu xa lìa ngũ dục,
sống
thiểu dục, tri túc, ba y, một bát, không nhà, không
cửa, không có gia đình, tài sản nhỏ, tài sản lớn,
là còn những bậc chân tu, giới đức, thiền đức, thật sự giải thoát khỏi những
dục lạc thế gian, là
điềm lành cho Phật giáo. Còn đi biểu diễn những
trò
kỳ đặc chỉ là hình thức mua danh, bán lợi mà
thôi.
Để kết thúc bài Tứ Vô lượng Tâm này, chúng tôi
xin nhắc lại các điểm sau đây để quý vị lưu ý và tu tập đúng cách để đạt kết quả:
1- Nếu pháp hướng là Ý Thức thì phải có đối
tượng
(nghĩa là cụ thể) mới có kết quả; nếu
pháp hướng mà trừu tượng thì tu tập nhiều năm cũng
không có kết quả. Thí dụ như ta ngồi quán thây ma, bộ xương trắng, thì thực tế không có thây
ma và bộ xương trắng trước mặt; chỉ do tâm ta
tưởng ra. Vậy đề mục đó là trừu tượng, nhưng ta
dùng pháp hướng để nhắc tâm là ta áp dụng pháp tưởng đúng cách. Còn tưởng trước mặt có hơi thở
ra vô là ý thức chứ không phải là tưởng thức. Quý
vị hãy cẩn thận khi áp dụng trong trường hợp
này, kẻo dùng tưởng mà cứ cho là ý thức. Dùng lẫn lộn ý thức và trừu tượng thì không có kết quả và đưa
đến thiền sai.
2- Khi tu tập thì nội tâm phải
an trú trong CHÁNH NIỆM (giữ tâm mình trong chánh niệm). Thí dụ khi trau dồi tâm từ thì luôn luôn
phải ở trong lòng thương yêu (trong Tứ Vô Lượng
Tâm) mà đặt chánh niệm, không phải trong cái
tâm dao động, nhớ cái
này, nghĩ cái kia. Đặt niệm chân
chánh ở ngay trong sự trau dồi. Nếu dùng chánh niệm quán thân bất tịnh mà tu tâm từ là tu sai.
Nên nhớ phải
thường xuyên
như
lý
tác ý,
không được xao lãng.
Phải
tỉnh
thức
cao
độ,
không để cho thất niệm. Phật dạy: “Bị thất niệm
là bị ma dẫn. Dù có chánh niệm mà không đúng
đối tượng ta đang trau dồi thì vẫn không có kết
quả, vẫn bị ma dẫn”. Nếu sức tỉnh thức chưa cao độ
thì phải tu Chánh Niệm Tĩnh Giác Định.
3- Khéo léo giữ tâm vững
trú trong THIỆN PHÁP, luôn luôn lúc nào cũng thực hiện pháp Phật, vững trú trong thiện pháp, không
cho ác pháp chiếm tâm hay đặt chân vào tâm, luôn luôn
đề cao cảnh giác.
4- Pháp TỪ VÔ LƯỢNG phải được trau dồi
thường xuyên cho được
sung mãn, làm cho thành cỗ xe (để rải đi tất cả), làm thành cứ
điểm (vững chắc), làm cho được
kiên trì (vững bền,
không thay đổi), tích lũy (càng nhiều càng tốt).
Phải khéo tinh cần, siêng năng thực hành
theo lời chỉ dạy, phương
pháp hành trì của thầy, của Phật
thì pháp an lạc sẽ đến với
quý vị thật rõ ràng (có kết
quả giải thoát).
Phải tu tập rất nhiều, và nhiều cái khác nữa chớ
không phải chỉ có bấy nhiêu đó mà đủ sức tỉnh thức, đủ an lạc, giải thoát và thành tựu được tâm vô lượng này.
5- BI VÔ LƯỢNG GIẢI THOÁT cũng tu tập như vậy, làm cho thành
cỗ xe, làm cho kiên trì,
tích lũy. Hỷ tâm vô lượng giải thoát cũng tu tập
như vậy, và xả tâm
vô lượng giải thoát cũng tu tập như
vậy. Nhờ đó mà thành tựu được sự giải thoát...
các
pháp trên thế gian này.
Cứ y chỉ theo lời dạy của thầy, đặt trọn vẹn niềm
tin ở Giới, Định, Tuệ, và
tất cả các pháp
môn của đức Phật mà hôm nay thầy vạch ra con đường có
lý pháp và hành pháp rõ ràng, cụ thể. Thầy đã vén sạch màn mây của kiến thức, tưởng giải cổ nhân đang phủ trùm trên ba Thánh pháp của Phật (Giới, Định, Tuệ). Ngày nay pháp này không còn
ai thực hiện được, chỉ là danh từ suông. Hầu như
toàn bộ tu sĩ Phật giáo sống ngược lại và không
thực hành đúng pháp này.
6- Nếu quý vị sống đúng và hành đúng theo lời dạy của thầy thì lòng thương yêu rộng lớn của quý
vị phủ trùm cả không gian và thời
gian. Chừng đó thế gian này là Thiên Đàng và quý thầy sẽ là du tăng,
khất sĩ rày đây, mai đó, không có chùa to, tháp
lớn. Quý thầy đã phủi sạch sợi
dây triền
phược, vật chất thế gian, đời sống của quý thầy rộng bước thênh thang, tâm hồn của quý thầy
thương yêu chúng sanh như
không gian, phủ trùm
vạn hữu. Bấy giờ, quý Thầy không phải là Phật,
tổ, A La Hán hay Bồ tát, mà là một con người như
bao nhiêu người khác. Tâm hồn của quý thầy đã
hòa cùng với cuộc sống của nhân thế, và mãi mãi bên
nhau, không xa lìa. Quý thầy là con
người giải thoát với lòng thương
yêu vô tận. Pháp Tứ Vô
Lượng Tâm tuyệt vời như vậy. Một cao tăng thời
Đức Phật đã thực hiện được Tứ Vô Lượng Tâm,
đắc quả A La Hán và được Phật ca ngợi.
Các phật tử cũng như các tu sĩ phải thường
hành trì Tứ Vô Lượng Tâm để đạt kết quả tốt. Tứ
Vô Lượng Tâm là bước đầu chuẩn bị cho người tu
hành tiến đến đạo quả giải thoát rốt ráo. Người
đệ tử Phật chân chánh mà tu tập, dù tu theo pháp
môn nào cũng phải đi qua chặng đường của Tứ Vô Lượng Tâm và Tứ Chánh Cần (ngăn ác diệt
ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp), nếu không
thì chỉ là tu theo ngoại đạo, tu mất gốc, hoặc lạc vào thiền tưởng, uổng phí một đời tu mà thôi.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
HẾT
|
Niệm Phật
TỨ BẤT HOẠI TỊNH
|
|
. . .
|
|
L ỜI NÓI ĐẦU
|
au khi đọc xong tạng kinh
Nikaya, do
Hòa Thượng Minh Châu dịch từ tiếng Pali sang tiếng Việt, chúng tôi không thấy có bài kinh nào đức Phật dạy niệm danh hiệu của Ngài, nhất là lại còn không thấy đức Phật dạy niệm Lục Tự Di Đà để cầu về cõi Cực Lạc Tây Phương. Niệm Lục Tự Di Đà, đó là một phương pháp ức chế tâm làm cho hết vọng niệm do các thầy tổ ngày xưa kiến giải biên soạn và viết ra dựa theo kinh sách Bà
La Môn hiện đang nằm trong tạng kinh phát triển Đại Thừa.
Gần đây, quý Phật tử Thành Phố Hồ Chí
Minh đã gửi cho chúng
tôi một cuốn sách do kiến giải các sư Nam Tông Miến Điện do một nhà sư Việt Nam - sư Hộ Pháp biên soạn và dịch ra Việt ngữ lấy tên là “Tìm Hiểu Pháp Môn Niệm Phật”. Trong sách này dạy phương pháp niệm Phật là niệm 108 âm của 9 công đức Phật. Khi niệm mỗi âm tiếng Pali là lần một chuỗi. Như vậy, niệm 108 âm và lần 108 hột chuỗi. Cách thức niệm Phật này cũng giống như
cách thức niệm hồng danh hiệu Phật Đà trong kinh sách phát triển.
Đọc suốt cuốn sách “Tìm Hiểu Pháp Môn Niệm Phật”, chúng ta nhận xét rõ ràng niệm một trăm lẻ tám âm chứ không phải niệm 9 công đức Phật, và như vậy các nhà sư này
dạy sai trong kinh sách nguyên thủy của Phật. Các sư khéo léo mượn 9 công
đức của Phật, vì trong kinh sách nguyên thủy:
“ N i ệ m P h ậ t l à n i ệ m t h i ệ n , l à m v i ệ c t h i ệ n , s ố n g t h i ệ n s ố n g đ ú n g n h ữ n g đ ứ c h ạ n h n h ư P h ậ t ” , chứ không phải niệm một trăm lẻ tám âm. Niệm một trăm lẻ tám âm là ức chế tâm,
làm cho tâm
Trưởng Lão THÍCH THÔNG LẠC
hết vọng niệm.
Thật ra, lỗi này không phải do các sư, mà chính các sư cũng là nạn nhân của tưởng uẩn các sư tạo ra và lừa đảo lại các sư mà thôi.
Kết quả pháp môn niệm Lục Tự Di Đà là cầu vãng sinh Cực Lạc Tây phương, đó là cầu về một thế giới ảo tưởng, thế giới không thật có. Còn kết quả của những người niệm 9 công đức Phật giống như người tu tập Thập Thiện. Người tu Thập Thiện là những người sống và làm đúng 10 điều lành, nên mới hưởng quả lành của Thập thiện. Còn ở đây,
các sư không sống đúng 10 điều lành, mà cứ niệm thầm trong miệng những âm thanh như đọc thần chú không ai hiểu nghĩa lý gì cả thì làm sao hưởng 10
điều lành này được, mặc dù các sư có giải thích mười công đức rất rõ ràng, nhưng không dạy sống đúng 10 công đức mà lại dạy niệm âm thinh công đức thì
có ích lợi gì thiết thực cho ai đâu.
Đây cũng là một phương pháp ức chế tâm, một phương
pháp
tu tập thiền
tưởng mà
các trường phái và các tông phái đều tu tập và rèn
luyện nhưng kết quả chẳng có ích lợi thiết thực cho cá nhân và cho mọi người như trên đã nói.
Phần đông người ta tu tập rèn luyện để có lực tưởng đem ra trị bệnh như khí
công, nhân điện, Yoga, ăn gạo lức muối mè, nhịn
ăn, Mật tông, luyện bùa chú, v.v...
Còn sự thật bệnh hay không là do nhân quả thiện ác, tự mình làm những ác pháp thì tự mình phải gánh chịu những quả bệnh tật khổ đau.
Con người hiện nay sống không có lòng yêu thương rộng lớn nhiều hướng đối với sự sống của chúng sinh,
nên thường giết hại và ăn thịt.
Do hành động ác ấy mà phải chịu bệnh tật tai nạn khổ đau bất tận. Cho nên muốn trị bệnh bằng những phương pháp hư ảo tưởng lực thì chỉ hà hơi cho quý vị an tâm một thời gian ngắn, chứ làm sao hết bệnh vĩnh viễn được.
Muốn làm chủ bệnh tật tai nạn thì chỉ có lấy giới luật và đức hạnh
mới chuyển quả khổ của mọi người thành sự sống yên vui. (Có dịp học lớp Chánh Kiến nhân quả quý vị sẽ hiểu nhiều hơn).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!