Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

pháp tu của phật - tứ vô lượng tâm 7


thật mạnh), trên thân quán thân, theo hành tướng ngoại để sức quán cho vững, và không rơi vào hôn trầm, thùy miên, hôn tịch, ký. Không lo tu tập tỉnh thức lo ngồi kiết già, quán hơi thở, đặt đề mục, ngồi quá u, cơ th mỏi mệt, thì hành giả sẽ thiếp dần trong trạng thái mỏi mệt, mất khả năng suy tư, làm cho ngu si, tu hành lạc nẻo không hay biết. Cho nên tất c những loại ngủ này đều gọi chung si thiền, si định. Người tu theo tà thiền, định tưởng thường rơi vài năm loại ngủ này, không sao tránh khỏi.
✿✿✿


3) NGUYÊN NHÂN CA CHNG BUN NG



N
 
gười tu hành muốn vượt qua năm thứ si thiền này thì phải hết sức tận dụng khả
năng để x bỏ nó. Nếu thấy mỏi mệt mà lo đi ngủ ngay sai, nếu ngồi thiền rơi vào trạng thái ngoan không tu sai pháp. Phải phá đi, đừng cho nhập vào thân ta. ngủ cũng lượng hình thức và trạng thái ngủ khác nhau, nên cũng phải có vô lượng pháp để xả ngủ.

- Đi tàu, đi xe bị say sóng, gió, cm thấy ngây ngây như ng.



- Bị cảm gió, thân lừ đừ, nóng, lạnh, v.v... và tất c những bệnh khác đều thể làm cho thể uể oải khó chịu.

- th lờ đờ, tu sai cũng buồn ng. T dụ khả năng ta tu tập quán s tức chỉ th đếm độ
1000 i, bây giờ ta ráng lên đến 1500 hay
2000 i, quá sc của thì làm sao không buồn ngủ?

- Khi tr tâm không đúng chỗ cũng buồn ngủ

- Làm vic quá sc, mệt mỏi cũng buồn ng.

- Sống độc, cờ bc, rượu chè sanh ra buồn ngủ.

- Trai gái dục lạc quá độ cũng sanh ra buồn ngủ.

Vậy, muốn xả lượng tâm ngủ thì phải làm sao?

Muốn xả lượng tâm ngủ phải tùy theo tình trạng cơ thể tu tập hoặc cha trị. Phải hết sc thận trọng trong việc trau dồi tâm này:

1- Phải biết buồn ngủ trong thân loại nào.

2-  Tùy  theo bệnh trạng buồn  ngủ  mà dùng thuốc thang để trị.

3- Cương quyết, mạnh m dứt bỏ những thói quen xấu, những trò chơi không lành mạnh, hại



cho th (cờ bạc, rượu chè, vui chơi thâu đêm, sáng hôm sau mệt mỏi ngủ gà, ngủ gật).

4- Phải rèn luyện nghị lc, chiến thắng những trạng thái lười biếng.

5-  Lấy  nước súc  miệng,  rửa mặt,  hoặc tắm nước lạnh. Phải biện pháp mạnh để đối trị chứng lười biếng, ham ngủ. (Lười biếng phải lấy roi mà quất cho đau, lấy dao rạch, lấy muối mà xát vào vết thương).

6- Ngồi chỗ nguy hiểm để cho tâm sợ chết mà không dám buồn ngủ (ngồi trên chảng ba cây cao, ngồi trên tảng đá cheo leo, sơ sẩy rớt xuống vc sâu).

7- Đọc kinh sách, tìm hiểu nghĩa lý trong kinh cũng một cách dứt phá buồn ngủ.

8- Ngồi quán xét, tìm xem chứng buồn ngủ từ đâu đến, khiến tay chân ta bần thần, lười biếng như thế y. Quán xét một lúc thì cơn buồn ngủ tan đi.

9- Xem sao trên trời (nếu người thích thiên văn), tìm do diễn biến của trụ.

10- Đem một số truyện hình ra xem.

11- Đi kinh nh cho nhiều s không bun ngủ (tu tập tỉnh thức).

12-  Tu   lậu,  quán  xét   thường, khổ,



không, ngã trong thân ta (tu tập Định
Lậu, Chánh Niệm Tỉnh Thức).

13- Đi kinh nh trau dồi ng từ tâm của mình dưới bước chân đi, tránh giẫm đạp chúng sanh.  Thí dụ ban đêm đi kinh hành ta không nhìn thấy chúng sanh, khó tránh được. Vậy ta phải nhắc:  Ban  đêm  tôi  đi  kinh  hành,  không  thấy chúng sanh. Xin tránh cho tôi đi. Hoc là câu “Tất  cả  các  chúng  sanh   dưới chân  i,  hãy tránh cho tôi đi. cảm ứng đạo giao nan tư nghì”, khi chúng ta đi đến đâu thì các chúng sanh s tránh cho chúng ta đi. Như vậy ta va trau dồi tâm t, va đối tr chứng buồn ngủ lúc đêm khuya thanh vắng.

14- Dùng như lý tác ý: “Cái ngủ này vốn không trong thân tứ đại này, chỉ do ngu si, mê muội,  lười  biếng,  thiếu  tinh  tấn  nên  mới  thọ sanh.

Ngồi kiết già lưng thẳng, quán chiếu đ thấy cái ngủ này do đâu mà có. Khi tác ý thì phải như truyền lệnh, dùng hết tâm lc ca tinh thần, mạnh dạn làm cho cơn ngủ mau lui c. Khi đối tr với buồn  ngủ  thì  phải  sáng  suốt  thông  minh,  nếu không thì chứng buồn ngủ càng tăng, ta càng vất vả hơn khi chống tr lại nó.

Tu hành theo đạo Phật phải siêng năng, bền



chí, kinh hành nhiều (Đức Phật ngày xưa đã kinh hành rất nhiều về đêm, Ngài ngủ rất ít).

Luôn trau dồi tâm ngủ dưới chân mình bằng pháp hướng tâm như tác ý: Buồn ng, phải lui đi! Lười biếng, phải lui đi!

Đó là những câu ám thị ngắn ta áp dụng khi buồn ngủ ta đi kinh hành thì s rất tỉnh táo. “Cơn mơ mơ, say say, hãy lui đi! Thân tâm phải tỉnh táo. Nhc nhiều lần như vậy trong khi đi, giống như ra lệnh, một lúc sau thì ta hết hôn trầm, thùy miên.

Bấy lâu nay chúng ta khổ s chứng hôn trầm mà không cách, không người hướng dẫn để tu tập. Trong giáo án y, thầy đưa kinh nghiệm của bản thân Thầy để giúp cho quý thầy các phật tử nương vào đó làm pháp tu tập. Nếu tu không kết qu tu tập sai, dùng pháp hướng sai. Nếu theo đúng pháp hành của quý vị sẽ thấy hiệu qu tức thì, tất c hôn trầm, thùy miên đều lui dần, tâm ca quý vị s đưc thanh thản, an lạc, rất tỉnh o.

Sau đây, chúng ta thử xét xem chứng hôn trầm do đâu mà có, làm thế nào để phá hôn trm.

✿✿✿



PHÁP TU... THI KA..  TỨ VÔ NG..  TỨ BẤT HOI ..
 
.                            .                         .


4) NGUYÊN NHÂN ĐƯA ĐN N TRM




N
 
gười tu thiền thường rơi vào hôn trầm vì nhiều nguyên nhân khác nhau:

1- Lao động chân tay nhiều, hoc thức khuya mệt mỏi, sanh ra hôn trầm. Đi xe, đi u, say sóng, say gió, cm thấy ngây ngây như ngủ.

2- Tu tập quá nhiều, hoặc tu sai pháp cũng sanh ra hôn trm.

3- Tu tập quá ít, sanh ra lười biếng nên bị hôn trầm.

4- Sống đc cư sanh ra hôn trm.

5- Uống thuốc chỉ thống, sanh ra hôn trm.

6- Khi tâm bị bệnh, hoc tr tâm không đúng chỗ cũng sanh ra hôn trầm.

7- Bị ma chướng hôn trầm.

✿✿✿



Trưởng Lão TCH THÔNG LC
 

5) CÁCH ĐI TRN TRẦM





M
 
uốn phá hôn trầm, phải tùy theo mỗi thứ mà phá:

1- Lao động chân tay nhiều sanh ra hôn trm. Người tu tập không nên lao động nhiều lao động quá sức. Nên nhớ lao động đ tu chớ không phải lao động đ hết công việc. Tu tập sự lao động rất lớn về trí, nếu lao động cơ thể quá nhiều, không th nào tránh khỏi hôn trầm. Người cư sĩ phải biết giữ gìn sc khỏe, không nên phí phạm sc khỏe trong các cuộc vui chơi trác táng, thức khuya, trà, rượu, thuốc t, v.v...

2- Tu tập một s lao động về tinh thần. Nếu tu tập nhiều, tinh thần mỏi mệt d đưa đến hôn trầm. Nếu hôn trầm do s tu tập thì nên đặt lại thời khóa tu tập cho hợp với sức của mình, thì s hết hôn trm, càng tu càng thấy thích thú hơn.

3- Tu ít (có quá nhiều thì giờ nhàn rỗi) sinh ra lười biếng, d bị hôn trầm tấn công: nên tu đúng theo thời khóa thì hết hôn trm.

4- Người mới sống độc cư, đơn, không nên ngồi  thiền  nhiều.  Đừng nên   không,  phải lao



động va sức, nhẹ nhàng, thì hết hôn trầm.

5- Uống thuốc chỉ thống sanh ra buồn ngủ: nên đi ng, khi thuốc tan hết thì hết buồn ng.

6- Thân bệnh sanh ra hôn trầm: nên tịnh dưỡng tr bệnh. Tu ít lại, xả nghỉ, thì hôn trầm s hết.

7- B ma chướng hôn trầm thì đi kinh hành, dùng pháp hướng và đem hết nghị lực chiến đấu bằng cách liên tục động thân. Hoặc rửa mặt, đi tắm, hoc làm tất c những hành động khác, mục đích là giữ đúng gi, không đi ngủ trước.

8- Còn một cách nữa là trèo lên bồ đoàn, ngồi kiết già, lưng thẳng, mắt nhìn xuống chóp mũi, tập trung tâm tại nhân trung, biết hơi thở ra tại đó, đồng thời hít chậm chậm cho hết sức. Hít vô xong rồi, thì cũng chậm chậm thở ra cho hết. Tiếp tục thở như vậy cho đúng 10 hơi thở thì s hết hôn trầm.

9. Nếu không hết thì còn một phương cách cuối cùng là làm cho hơi thở phát ra tiếng kêu; nghĩa là thở mạnh có âm thanh, thở đến khi nào không còn bị hôn trầm mới thôi. (Trích Đường Về Xứ Phật VIII, trang 207-209).

Tóm lại, người tu sĩ đạo Phật, bằng mọi cách, phải xa lìa năm thứ dục lc kể trên đ chấm dứt sanh tử, luân hồi. Mục đích tu hành theo đạo Phật là làm chủ năm thứ dục lc, x ngũ dục lạc (tài,



sc, danh, thực, thùy). Nếu quý vị không xả đưc năm thứ ngũ dục lc ấy thì cho tu thiền một ngàn năm cũng là ma thiền, thiền.

nhiều đạo sĩ tu khổ hạnh nhiều năm trên núi, ăn toàn cây rừng mà sống được, người ta đem chôn xuống đất không chết, dìm xuống nước, đi trên la, mc áo mỏng đi ngoài trời rét dưới -37 độ C vẫn không hề hấn gì. Vậy đem thi triển, biểu diễn từ nước này sang nước khác cho mọi người và báo chí xem (còn háo danh!). Người tu chân chính ai làm như vậy bao giờ?

Đức Phật dạy ta tháo gỡ những khó khăn ca kiếp sống đ được an vui, giải thoát. Người nào tu tập tứ lượng tâm mà còn vướng mắc trong ngũ dục lc thì cho người ấy luận như thế nào thiên hạ cũng biết, dù  có thần thông, bay như chim, lặn xuống nước, độn thổ, tàng hình, bùa chú thần linh, kêu y, gió, người ta vẫn biết là ông ta chưa chứng đạo.

Đời sống của một tu sĩ chùa to, tháp lớn, ăn ngày ba bữa, vật dụng không thiếu thứ đời sống của thế gian pháp. Phàm phu tục tử bị năm thứ dục lc trói buộc là đời sống phi giải thoát. Tu sĩ sống như thế đời sống phi phạm hạnh, không phải đời sống xuất thế gian của thầy tu đạo Phật.

Chỉ cn nhìn vào đời sống của tu sĩ thì ta biết



ngay Phật giáo hưng thịnh hay không. Xã hội còn thầy tu khất sĩ Phật giáo còn hưng thịnh, nếu nhiều chùa to, tháp lớn là Phật giáo suy đồi. Khi người tu sĩ Phật giáo không lấy ba thánh pháp (Giới, Định, Tuệ) làm chỗ nương ta vững chắc (thì dễ phạm lỗi lầm), không biết xấu hổ trước những lỗi nhỏ nhặt thì chánh pháp phải suy đồi. Khi nào còn các thầy tu xa lìa ngũ dục, sống thiểu dc, tri c, ba y, một bát, không nhà, không cửa, không có gia đình, tài sản nhỏ, tài sản lớn, còn những bậc chân tu, giới đc, thiền đc, thật s giải thoát khỏi những dục lạc thế gian, là điềm lành cho Phật giáo. Còn đi biểu diễn những trò kỳ đặc chỉ là hình thc mua danh, bán lợi mà thôi.

Để kết thúc bài T lượng Tâm này, chúng tôi xin nhắc lại các điểm sau đây để quý vị lưu ý và tu tập đúng cách để đạt kết quả:

1- Nếu pháp hướng Ý Thức thì phải đối tưng (nghĩa cụ thể) mới có kết qu; nếu pháp hướng trừu tượng thì tu tập nhiều năm cũng không kết quả. T dụ như ta ngồi quán thây ma, bộ xương trắng, thì thực tế không thây ma và bộ xương trắng trước mặt; chỉ do tâm ta tưởng ra. Vậy đề mục đó là trừu tượng, nhưng ta dùng pháp hướng để nhắc tâm ta áp dụng pháp tưởng đúng cách. Còn tưởng trước mặt có hơi thở



ra ý thức chứ không phải tưởng thức. Quý vị hãy cn thận khi áp dụng trong trường hợp này, kẻo dùng tưởng mà c cho ý thức. Dùng lẫn lộn ý thức trừu tượng thì không kết qu đưa đến thiền sai.

2- Khi tu tập thì nội tâm phải an trú trong CNH NIỆM (giữ tâm nh trong chánh niệm). T dụ khi trau dồi tâm từ thì luôn luôn phải ở trong lòng thương yêu (trong T Lượng Tâm) đặt chánh niệm, không phải trong cái tâm dao động, nhớ cái này, nghĩ cái kia. Đặt niệm chân chánh ngay trong s trau dồi. Nếu dùng chánh niệm quán thân bất tịnh tu tâm từ là tu sai.

Nên  nhớ  phải  thường xuyên  như   tác  ý, không  đưc  xao  lãng.  Phải  tỉnh  thức  cao  độ, không đ cho thất niệm. Phật dạy: B thất niệm là bị ma dẫn. Dù có chánh niệm mà không đúng đối tượng ta đang trau dồi thì vẫn không có kết quả, vẫn bị ma dẫn”. Nếu sức tỉnh thức chưa cao độ thì phải tu Chánh Niệm Tĩnh Giác Định.

3- Khéo léo giữ tâm vững trú trong THIN PHÁP, luôn luôn lúc nào cũng thc hiện pháp Phật, vững trú trong thiện pháp, không  cho ác pháp chiếm tâm hay đặt chân vào tâm, luôn luôn đề cao cảnh giác.



4- Pháp TỪ VÔ LƯNG phải được trau dồi thường xuyên  cho  được sung  mãn,  làm  cho thành c xe (để rải đi tất cả), làm thành cứ điểm (vững chắc), làm cho đưc kiên trì (vững bền, không thay đổi), tích lũy (càng nhiều càng tốt). Phải khéo tinh cn, siêng năng thực hành theo lời chỉ dạy, phương pháp hành trì ca thầy, của Phật thì pháp an lạc s đến với quý vị thật ràng (có kết quả giải thoát).

Phải tu tập rất nhiều, nhiều cái khác na chớ không phải chỉ bấy nhiêu đó đủ sc tỉnh thức, đủ an lạc, giải thoát và thành tựu được tâm vô lượng này.

5- BI VÔ LƯNG GII THOÁT cũng tu tập như vậy, làm cho thành cỗ xe, làm cho kiên trì, tích y. Hỷ tâm lượng giải thoát cũng tu tập như vậy, xả tâm vô lượng giải thoát cũng tu tập như vậy. Nhờ đó thành tựu được s giải thoát... các pháp trên thế gian y.

Cứ y chỉ theo lời dạy của thầy, đặt trọn vẹn niềm tin Giới, Định, Tu, và tất cả các pháp môn của đức Phật hôm nay thầy vch ra con đường có pháp và hành pháp ràng, cụ thể. Thầy đã vén sạch màn mây của kiến thức, tưởng giải cổ nhân đang phủ trùm trên ba Thánh pháp của Phật (Giới, Định, Tuệ). Ngày nay pháp này không còn ai thc hiện được, chỉ danh từ suông. Hầu như



toàn bộ tu sĩ Phật giáo sống ngược lại không thực hành đúng pháp này.

6- Nếu quý vị sống đúng hành đúng theo lời dạy của thầy thì lòng thương yêu rộng lớn của quý vị phủ trùm c không gian thời gian. Chừng đó thế gian này Thiên Đàng và quý thầy s du tăng, khất sĩ rày đây, mai đó, không chùa to, tháp lớn. Q thầy đã phủi sạch sợi dây triền phược, vật chất thế gian, đời sống của quý thầy rộng c thênh thang, tâm hồn ca quý thầy thương yêu chúng sanh như không gian, phủ trùm vạn hữu. Bấy gi, quý Thầy không phải Phật, tổ, A La Hán hay Bồ tát, là một con người như bao nhiêu người khác. Tâm hồn của quý thầy đã hòa cùng với cuộc sống của nhân thế, và mãi mãi bên nhau, không xa a. Quý thầy là con người giải thoát với lòng thương yêu tận. Pháp T Lượng Tâm tuyệt vời như vậy. Một cao tăng thời Đức Phật đã thực hiện được T Lượng Tâm, đắc quả A La Hán được Phật ca ngợi.

Các phật tử cũng như các tu sĩ phải thường hành trì T Lượng Tâm để đạt kết quả tốt. Tứ Vô Lượng Tâm bước đầu chuẩn bị cho người tu hành tiến đến đạo quả giải thoát rốt o. Người đệ tử Phật chân chánh tu tập, tu theo pháp môn nào cũng phải đi qua chặng đường của Tứ Vô Lượng Tâm Tứ Chánh Cần (ngăn ác diệt



ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp), nếu không thì chỉ tu theo ngoại đạo, tu mất gc, hoặc lạc vào thiền tưởng, uổng phí một đời tu mà thôi.


Nam Bổn Thích Ca Mâu Ni Phật





HT



Trưởng Lão TCH THÔNG LC
 















Nim Phật

TỨ BẤT HOẠI TNH


136
 

PHÁP TU..  THI KHÓA .. TỨ NG..  TỨ BẤT HOI...
 
.                     .                              .



Trưởng Lão TCH THÔNG LC
 










 
L ỜI NÓI ĐẦU












S
 
au khi đọc xong tạng kinh  Nikaya, do
a Thượng Minh Châu dịch từ tiếng Pali sang tiếng Việt, chúng tôi không thy có bài kinh  nào đc Pht dy niệm danh hiệu ca Ngài, nht là li còn không thđc Pht dy niệm Lc T Di  Đà để cầu  về cõi Cc Lc Tây Phương. Niệm Lc T Di Đà, đó là một phương pp c chế tâm làm cho hết vọng niệm do các thy tổ ngày a kiến gii biên son và viết ra da theo kinh  ch La Môn hiện đang nm trong tng kinh phát triển Đi Tha.



Gn đây, quý Pht t Thành Ph H Chí Minh đã  gi cho chúng  tôi một  cuốn  sách do kiến giải các Nam Tông Miến Điện do mt nhà Việt Nam - Hộ Pháp biên son và dịch ra Việt ngữ ly tên là Tìm Hiu Pháp Môn Niệm Pht. Trong sách này dy phương pp niệm Pht là nim 108 âm của 9 công đc Pht. Khi niệm mỗi âm tiếng Pali là ln một chuỗi. Như vy, niệm 108 âm ln 108 hột chuỗi. Cách thc niệm Pht này cũng giống như cách thc niệm hồng danh hiệu Pht Đà trong kinh ch phát triển.

Đc suốt cuốn sách Tìm Hiểu Pháp n Niệm Pht, chúng ta nhn xét rõ ràng niệm một trăm l tám âm ch không phi niệm 9 công đc  Pht, như vy  các nhà  sư này  dy sai trong kinh  sách nguyên thy của Pht. c khéo léo mượn 9  công  đc củPht, vì trong kinh sách  nguyên  thủy:   N i  P h t  l à n i m  t h i n ,  l à m  v i c  t h i n ,  s n g  t h i n s n g  đ ú n g  n h n g  đ c  h n h  n h ư  P h t , ch không phi niệm một trăm l tám âm. Niệm một trăm l tám âm là c chế tâm,  làm cho tâm


Trưởng Lão TCH THÔNG LC

hết vọng niệm.

Tht ra, li này không phi do  các sư, mà chính các cũng là nn nhân ca tưởng un các tạo ra la đo li các sư mà thôi.

Kết qu pháp môn niệm Lc T Di Đà là cu vãng sinh Cc Lcy pơng, đó là cu về một thế giới o tưởng, thế giới không tht có. Còn kết qu ca nhng người niệm 9 công đc Pht giống như người tu tp Thp Thiện. Người tu Thp Thiện là nhng người sống và làm đúng 10 điu lành, nên mới hưởng qu lành ca Thp thiện. Còn đây,  các không  sống đúng 10 điu lành, c niệm thm trong miệng nhng âm thanh như đọc thn chú không ai hiểu nghĩa lý c thì làm sao hưởng 10  điu lành này  đưc, mc các có giải thích mười công đc rt rõ ràng, nhưng không dy sống đúng 10 công đc li dy niệm âm thinh  công đc thì có ích lợi thiết thc cho ai đâu.

Đây cũng là một  phương pháp  c chế tâm, một  phương  pp  tu tp  thiền   tưởng  mà  các trường phái và các tông  phái đu tu tp rèn



luyn nhưng kết qu chng có ích li thiết thc cho cá nhân và cho mi ngưi như trên đã i.

Phn đông ngưi ta tu tp rèn luyn để có lc tưởng đem ra tr bệnh như khí  công, nhân  điện, Yoga, ăn go lc muối mè, nhịn  ăn, Mt tông, luyện  bùa c,  v.v...  Còn   sự  th bệnh  hay không là do nhân qu thiện ác, t mình làm nhng ác pp thì tự mình phi gánh chịu nhng qu bnh tt kh đau.

Con ngưi hiện nay sống không có lòng yêu thương rộng ln nhiều hưng đi với s sống ca chúng  sinh,  nên tờng giết hi ăn thịt.  Do hành động ác y mà phi chịu  bệnh tật  tai nn kh đau bt tn. Cho nên muốn  tr bệnh bng nhng  phương pháp  hư o tưởng lc thì ch hà hơi cho quý vị an tâm một thời gian  ngắn, chlàm sao hết bệnh vĩnh vin đưc.

Mun làm ch bệnh tt tai nn thì ch có ly giới lut và đc hnh  mi chuyn qu kh ca mi ngưi thành  sự sống yên vui. (Có dp học lớp Chánh Kiến nhân qu quý vị sẽ hiểu  nhiều hơn).



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!