Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ CỨ PHẬT TẬP 7 -8



gì? Và cách thức tu tập “QUÁN, NHIẾP PHỤC, THAM   ƯU”  như  thế  nào?  Thầy  đã  dạy các  con rồi. Các con còn nhớ không?
“Quán” nghĩa là quan sát bằng mắt; bằng sự cảm nhận.

“Nhiếp  phục”  nghĩa là thu phục làm cho phục tùng; làm cho đầu hàng; làm cho không còn chướng ngại pháp và ác pháp nữa; làm cho không còn phá phách; làm cho không còn đau khổ; làm cho không còn phiền não; làm cho không  còn  giận  hờn  tham,  sân,  si,  mạn,  nghi
nữa.

“Tham ưu” nghĩa là tham muốn và phiền não, nghĩa chung là những chướng ngại pháp.
Có  hiểu  nghĩa  rõ  ràng  như  vậy,  các  con mới  tu  tập  đúng pháp  thì sự chứng đạt chân lí mới  nhanh  chóng  và  dễ  dàng.  Các  con đang hiểu  sai  pháp  nên tu  hành  không  đúng. Tu Tứ Niệm Xứ mà cứ tu tập Tứ Chánh Cần như trên đã  nói,  chỉ  còn  năm  tháng  nữa  mà  tu  sai  làm sao chứng đạo. Hãy mau mau sửa lại  sự  tu  tập cho đúng, kẻo phí thời giờ vô ích.
Tu  tập  như  vậy  làm  sao chánh  pháp  của Phật thường còn? Tu mà không chịu khó quan sát  xem xét  những  giới  luật  mình  đang thọ  và



giữ  gìn  (Mười  Giới  Đức  Thánh  Sa  Di),  có  vi phạm  giới  nào  không?  Giới  luật  là  đời  sống phạm  hạnh  của  người  tu,  là  pháp  ly dục  ly ác pháp,  thế  mà  các  con không  giữ  gìn  cho trọn vẹn,  luôn  luôn  vi phạm  giới  luật,  để  trở  thành người  phá  giới,  nhất  là  giới  hạnh  độc  cư. Giới hạnh độc cư là giới phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Các  con không giữ  gìn nó thì làm  sao tâm ly dục  ly ác  pháp cho được; tu mà  không  giới  luật  thì không  xả  tâm  chỉ  biết ức  chế  tâm  và  còn  để  tâm  rong  ruổi  chạy theo dục  lạc  ở  đời;  theo  tình  cảm  của  cuộc  sống người này với người kia; theo các ác pháp dùng lời nói li gián, để chia rẽ, để ganh ghét, để thù hận  với  nhau,  thì còn  nghĩa  lý  gì  là  tu  hành nữa. Phải không các con?
Tu mà  nói  chuyện  người  này  đúng,  người kia sai; tu mà còn so bì hơn thua với nhau từng chút,  từng  ly;  tu  mà  đi  rình ngó  người  này  tu như thế  này, người kia tu  như thế  kia, thì làm sao chứng  đạo  được  các  con?  Nhìn  thấy  sự  tu tập của các con mà Thầy rất buồn lòng. Buồn là nghĩ đến nền đạo đức nhân bản - nhân quả của loài  người  làm  sao có  người  dựng  lại  được,  khi các  con tu  tập  như  vậy.  Tâm  Thầy  lại  còn  xót xa hơn, khi nghĩ đến hạnh phúc của loài người



trên  hành  tinh này  quá  mỏng  manh,  nhất  là loài người không bao giờ có được hạnh phúc ấy. Hiện  giờ  các  con là  những  người  đại  diện  cho mọi  người  mà  hiểu  lầm  và  tu  hành  sai  pháp như  vậy.  Rồi  đây  làm  sao có  người  thay  thế Thầy dựng lại Chánh pháp của Phật? Thầy đã già rồi, đừng ỷ lại vào Thầy. Phật sống đến 80 tuổi. Ông A Nan sống 120 tuổi, nhưng có người còn bảo Ông A Nan già lú lẫn...
Ôi! Chúng sanh ít phước, làm sao thọ hưởng được nền đạo đức ấy. Các con là những người đại diện cho muôn người, vạn triệu người trên hành tinh này như trên đã  nói  mà  tu  tập như  vậy  thì còn  hy  vọng  gì nữa  các  con! Thầy sẽ  ra đi  vĩnh  viễn  và  mãi  mãi  các  con sẽ  mất Thầy.
Còn  năm  tháng  nữa,  chứng  nào  tật  nấy làm  sao các  con bỏ  được  tâm  bỉ  thử  đây!  Làm sao sống  được  đạo  đức  làm  người  sống  không làm khổ mình,  khổ người. Tu hành mà các con luôn thấy lỗi người không thấy lỗi mình  thì đạo đức  gì  đây!  Nhìn   các  con tu  hành  lòng  Thầy đau xót như ai cắt ruột.
Các con có biết không? Còn năm tháng nữa,  tu  như  vậy  làm  sao chứng  đạo  được  các con?



Một lần nữa, nếu không có người chứng đạo,  Thầy  sẽ  ra đi!  Và  đi!  Đi  mãi!!!  Nếu  còn duyên Thầy sẽ ẩn bóng viết xong bộ sách “ĐẠO ĐỨC  LÀM  NGƯỜI”,  rồi  vĩnh  biệt  các  con. Các con ở lại mà sống với cuộc đời đầy ác pháp, đầy nước mắt và đau khổ. Chừng đó các con có nhớ Thầy,  thì hãy  nhớ  giới  luật  và  Tứ  Niệm  Xứ. Giới luật và pháp môn Tứ Niệm Xứ là thầy của các con; là ngọn đuốc soi đường cho các con đi; là chỗ nương tựa vững chắc cho đời tu hành của các  con. Các  con nhớ  kỹ  lời  dạy này, đừng bao giờ quên hỡi các con?
Thấy   pháp   hành   các   con  áp   dụng   còn nhiều chỗ chưa hiểu rõ ràng, do đó khi thực hành vào pháp xả tâm trên Tứ Niệm Xứ thì lại ức  chế  tâm,  tu  như  vậy  không  đúng  theo  lời Thầy  dạy.  Do  không  hiểu  đúng  lời  Thầy  dạy nên các  con tu  hành thấy khó  khăn và  vất  vả, thật đáng thương. Biết làm sao bây giờ đây, sự hiểu biết của các con có giới hạn, nên lời nói và sự cố gắng của Thầy để diễn đạt cho các con hiểu,  nhưng  sự  hiểu  của  các  con còn  hạn  cuộc trong  không  gian  và  thời  gian  của  ý  thức.  Vì thế,  các  con chỉ  hiểu  ở  mức  độ  đó,  không  thể nào  hiểu  hơn  được  nữa,  nên  cũng  đành  chịu thôi vậy.



Ở  đây, chỗ các con đã hiểu sai về Phật pháp,  nhất  là  về  sự  chứng  đạo  của  Phật  giáo. Cho nên,  hiện  giờ  quý  sư, quý  thầy,  quý  ni và quý cư sĩ đang tu theo Phật giáo đều nghĩ rằng:
‚chứng đạo là chứng một cái gì cao siêu, huyền  bí và  vĩ  đại ghê  gớm lắm‛.  Hiểu  như vậy là hiểu sai Phật giáo. Phật giáo là nền đạo đức nhân bản –  nhân quả sống không làm khổ mình,  khổ  người  và  khổ  cả  hai,  mà  mọi  người lại  hiểu  Phật  giáo  là  một  tôn giáo  thần quyền, là  một  loại  thiền  định  siêu  đẳng,  là  một  thế giới  ngoài  thế  giới  của  loài  người,  nên  kinh sách  phát  triển  Bắc  tông  cũng  như  kinh sách Nam tông đều hướng dẫn tu tập ức chế tâm và còn nghĩ  rằng: con người  cần phải  nhờ  vào  oai lực chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ và còn phải tu tập nhiều đời nhiều kiếp. Nhất là còn phải tạo nhiều  phước   báu   hữu  lậu   như:  bố   thí,  cúng dường  xây  dựng  chùa,  tháp,  đúc  chuông,  tạc tượng Phật và làm từ thiện v.v.. Nhưng  thật sự không phải vậy. Kinh sách Phật giáo Nguyên thủy đức Phật đã  khẳng định trong bài chuyển pháp luân lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển. Sau buổi  thuyết  pháp  đó,  năm  anh  em Kiều  Trần Như đều chứng pháp nhãn thanh tịnh và chẳng bao lâu đều chứng quả A La Hán.  ‚Nghe xong



bài thuyết pháp này và một bài thứ hai có đầu đề ‚Anttalakkhana sutta‛, bàn về thuyết vô ngã (không có cái Ta),  năm vị tu sĩ   ở     vườn   Lộc   Uyển   được   giác   ngộ   và không bao lâu trở thành A La Hán‛ (Lịch sử đức Phật Thích  Ca Mâu Ni  do HT  Minh Châu biên soạn trang 29).
Đọc  đoạn  kinh  này  xong  chúng  ta  biết rằng Phật giáo không phải là pháp môn khó tu tập  như thiền  Yoga và  thiền  Tông  Trung  Hoa. Đối với Phật giáo chỉ cần hiểu đúng và sống đúng là chứng quả A La Hán.
Danh   từ   chứng   đạo    đã  khiến   cho  mọi người  hiểu  nó  qua trí tưởng  tượng  nhiều  hơn, nên  chứng  đạo  là  chứng  cái  gì cao siêu  và  phi thường vượt ngoài tầm tay con người. Vì thế, người  ta  thấy  nó  quá  khó  khăn  vô  cùng.  Tư tưởng thấy quá khó khăn cũng là một điều cản trở rất lớn trên bước đường tu tập chứng đạo.
Như  đoạn  kinh trên  đã  nói:  năm  anh  em Kiều Trần Như nghe xong pháp và chứng quả A La  Hán  đâu  có  khó  khăn  gì! Vì  thế,  chúng  ta nên xét kỹ lại các pháp đang tu tập, nhất là pháp môn Tứ Niệm Xứ thì sự chứng đạo đâu có khó khăn gì. Phải không các con?



Nhưng  vì  mọi  người  đã  hiểu  lầm  lạc.  Họ đâu biết rằng: ‚Chứng đạo chỉ là sống với một tâm không bị dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu tác động. Cho nên, chứng đạo không có chứng một cái gì cao siêu, huyền bí và vĩ đại cả, chỉ là một cái tâm bình thường như mọi người, nhưng  không có chướng ngại  pháp  nào làm  cho tâm  người ấy bị dao động‛.

Chứng đạo không có nghĩa là chứng thần thông,  phép  lực  cao cường,  hô  phong, hoán  võ, tàng hình, biến hóa, đằng vân, độn thổ, biết chuyện quá khứ, vị lai của mọi người v.v.. mà chứng  đạo  chỉ  là  tâm  bất  động  trước  các  ác pháp và các cảm thọ.
Chứng   đạo   chỉ   là   sống   với   tâm   thanh thản, an lạc và vô sự, lúc nào cũng như lúc nào không  bị  kèm  chế,  không  bị  bắt  buộc  phải  tu tập  như thế  này,  phải  làm  như thế  kia.  Trong sự  chứng đạo chỉ  có một  điều  quan trọng nhất, đó  là  phải  sống  đúng  giới  luật  như  trong  bộ sách  Văn  Hoá  Phật  Giáo  Truyền  Thống  tập  I đã  dạy. Chúng ta phải  quyết  tâm  buông  xả  đời sống  nhân  quả  đang  hiện  có  trong  thân  tâm của chúng ta.



Mục đích tu hành của chúng ta là làm chủ bốn nỗi đau khổ của kiếp làm người: sanh, già, bệnh và chết, nhưng muốn làm chủ sanh, già, bệnh  và  chết  thì chúng  ta  phải  hiểu  cho  rõ ràng:  Cái  gì làm  cho chúng  ta  bị  sanh, bị  già, bị bệnh và bị chết. Muốn biết rõ được điều này chúng  ta  hãy  vào  kinh Trung  Bộ  tập  I, tạng kinh Việt  Nam,  trang  364,  đọc  Kinh  Thánh Cầu  mà  đức  Phật  đã  dạy:  ‚Này  các  Tỳ  kheo, có  hai sự  tầm  cầu  này:  Thánh  cầu  và  phi Thánh cầu. Chư Tỳ kheo, và thế nào là phi Thánh  cầu?  Ở    đây  này  các  Tỳ  kheo,  có người tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh lại tìm cầu cái bị bệnh, tự mình bị  chết  lại  tìm cầu  cái  bị  chết,  tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu, tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị sanh? Này các Tỳ kheo, vợ con là bị sanh; đầy  tớ   nam,  đầy  tớ  nữ  là  bị  sanh;  dê  và cừu  là  bị  sanh;  gà  và  heo là  bị  sanh;  voi, bò,  ngựa  đực,  ngựa  cái  là  bị  sanh;  vàng bạc  là  bị  sanh.  Này  các  Tỳ  kheo,  những chấp  thủ  ấy  bị  sanh,  và  người  ấy  lại  nắm



giữ,  tham  đắm,  mê  say chúng,  tự  mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh.
Và  này  các  Tỳ  kheo,  cái  gì theo các Người  gọi  là  bị  già?  Này  các  Tỳ  kheo,  vợ con là  bị  già;  đầy  tớ  nam,  đầy  tớ  nữ  là  bị già;  dê  và  cừu  là  bị  già;  gà  và  heo  là  bị già; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị già; vàng   bạc   là   bị   già.   Này   các   Tỳ   kheo, những chấp thủ ấy bị già, và người ấy lại nắm   giữ,   tham   đắm,   mê   say  chúng,   tự mình bị già lại tầm cầu cái bị già.
Và  này  các  Tỳ  kheo,  cái  gì theo các Người  gọi  là bị  bệnh? Này các Tỳ  kheo,  vợ con là bị bệnh; đầy tớ nam,  đầy tớ nữ là bị bệnh; dê và cừu là bị bệnh; gà và heo là bị bệnh;  voi,  bò,  ngựa  đực,  ngựa  cái  là  bị bệnh;  vàng  bạc  là  bị  bệnh.  Này  các  Tỳ kheo, những chấp thủ ấy bị bệnh, và người ấy  lại  nắm  giữ,  tham đắm,  mê  say chúng, tự mình bị bệnh lại tầm cầu cái bị bệnh.
Và này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người  gọi  là  bị  chết?  Này  các  Tỳ  kheo,  vợ con là bị chết; đầy tớ  nam,  đầy tớ  nữ là bị chết; dê và cừu là bị chết; gà và heo là bị chết; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị chết;



vàng   bạc   là   bị   chết.   Này   các   Tỳ   kheo, những chấp thủ ấy bị chết, và người ấy lại nắm   giữ,   tham   đắm,   mê   say  chúng,   tự mình bị chết lại tầm cầu cái bị chết.
Và này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người  gọi  là  bị  sầu?  Này  các  Tỳ  kheo,  vợ con là bị sầu; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị sầu;  dê  và  cừu  là  bị  sầu;  gà  và  heo là  bị sầu; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị sầu; vàng   bạc   là   bị   sầu.   Này   các   Tỳ   kheo, những chấp thủ  ấy bị sầu,  và người ấy lại nắm   giữ,   tham   đắm,   mê   say  chúng,   tự mình bị sầu lại tầm cầu cái bị sầu.
Và này các Tỳ kheo, cái gì theo các Người gọi là bị ô nhiễm? Này các Tỳ kheo, vợ  con là  bị  ô  nhiễm;  đầy  tớ  nam,  đầy  tớ nữ là bị ô nhiễm; dê và cừu là bị ô nhiễm; gà và heo là bị ô nhiễm; voi, bò, ngựa đực, ngựa cái là bị ô nhiễm; vàng bạc là bị ô nhiễm.  Này  các  Tỳ  kheo,  những  chấp  thủ ấy  bị  ô  nhiễm,  và  người  ấy  lại  nắm  giữ, tham  đắm, mê say chúng, tự mình bị ô nhiễm lại tầm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là phi Thánh cầu‛.



Đọc đoạn kinh trên đây chúng ta thấy rất rõ ràng cái  bị  sanh, bị  già, bị  bệnh và  bị chết, đó  là  sanh  y,  tức  là  những  vật  chất,  những người  thân.  Những  vật  chất  và  những  người thân  xung  quanh  chúng  ta  gọi  chung  là  các pháp  mà  chúng  ta  lầm  tưởng  những  pháp  đó đang phục  vụ  đời  sống  của  mình  và  mang  lại hạnh  phúc,  nhưng  khi những  vật  chất  đó  càng nhiều   hơn  thì  sự   khổ   đau  cũng  nhiều  hơn. Những vật  chất  đó càng nhiều  thì chính  chúng ta là những người nô lệ cho những vật chất đó, đang bị chúng sai bảo và dẫn dắt chúng ta vào cảnh  giới  ưu bi,  sầu  khổ, bệnh,  chết  như trong kinh Thánh  Cầu  đã  dạy  ở  trên  và  kinh  Thập Nhị Nhân Duyên đã dạy dưới đây: ‚Có duyên sanh  thì ắt  phải  có  duyên  ưu  bi,  sầu  khổ và  bệnh,  chết‛,  và  như  vậy  hai  bài  kinh đã dạy không sai khác.
Muốn thoát ra khỏi bốn sự đau khổ này chúng ta hãy đọc tiếp kinh Thánh Cầu để  được đức Phật chỉ đường: ‚Và này các Tỳ kheo, thế nào là Thánh cầu? Ở  đây, này các Tỳ kheo, có  người  tự  mình bị  sanh,  sau khi biết  rõ sự  nguy  hại  của  bị  sanh,  tìm cầu  cái  vô sanh,  vô  thượng  an  ổn  khỏi  các  khổ  ách, Niết bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự



nguy  hại  của  bị  già,  tìm cầu  cái  không già,  vô  thượng  an  ổn  khỏi  các  khổ  ách, Niết  bàn;  tự  mình bị  bệnh,  sau khi biết  rõ sự   nguy   hại   của   bị   bệnh,   tìm  cầu   cái không  bệnh  sanh,  vô  thượng  an  ổn  khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị chết, sau khi biết  rõ  sự  nguy  hại  của  bị  chết,  tìm cầu  cái  bất  tử,  vô  thượng  an  ổn  khỏi  các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sầu, tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các  khổ  ách,  Niết  bàn.  Này  các  Tỳ  kheo, như vậy gọi là Thánh cầu‛.
Sau khi đọc đoạn kinh trên đây, các con có biết cách thức tu tập xả ly và từ bỏ cái bị sanh, bị  già,  bị  bệnh,  bị  chết,  bị  sầu  và  bị  ô  nhiễm chưa? Nếu không biết cách thức tu tập xả ly từ bỏ  sanh,  già,  bệnh,  chết...  thì các  con sẽ  lầm lạc vào chỗ tu tập ức chế thân tâm, có thể dẫn đến  chỗ  rối  loạn  thần  kinh  như  trên  Thầy  đã
dạy.

Các con phải biết, tu hành theo Phật giáo là một sự sống bình  thường, chứ lý đâu lại diệt



hết ý thức phân biệt vọng niệm thiện pháp của mình.  Cho nên, có  vọng tưởng hay không vọng tưởng đều là ý thức bình thường của mỗi con người, nhưng người tu hành sống đời đạo đức không  làm   khổ   mình,   khổ   người   thì  không chấp  nhận  những  vọng  tưởng  có  tính bị  sanh, bị  già,  bị  bệnh  và  bị  chết.  Vì  thế,  khi có  các vọng tưởng đó thì dùng đúng pháp của Phật đã dạy để xả ly, để từ bỏ, để đoạn diệt, không nên để nó lưu lại trong tâm  dù một phút, một giây, phải đuổi đi một cách quyết liệt, một cách dũng cảm,  một  cách  gan  dạ;  phải  đầy  đủ  nghị  lực chiến đấu với những vọng tưởng và các cảm thọ đó.  Tất  cả  những  vọng  tưởng  đó  là  ác  pháp,  là cái bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết. Cho nên, chúng ta đều phải ngăn và diệt cho tận gốc cái bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết này. Tu hành chỉ có làm một việc như vậy thôi, chứ có tu tập gì nhiều đâu!
Còn những vọng tưởng không sanh, không già,   không   bệnh,   không   chết   thì  để   nó   tự nhiên, có gì mà phải ngăn diệt nó. Nó là ý thức của chúng ta, nó đâu phải là chướng ngại pháp. Vậy  mà  các  con hễ  thấy  niệm  là  diệt,  là  tìm mọi  cách  ức  chế  cho đừng  có  niệm  như  Pháp Bảo Đàn Kinh dạy: ‚Chẳng  niệm  thiện  niệm



ác bản lai diện mục hiện tiền‛.  Như kinh Di Đà dạy: ‚...Thất nhựt nhất tâm bất loạn chuyên  trì danh hiệu  A Di  Đà  Phật...‛. Như kinh Kim  Cang dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm‛ Đó là phương pháp tu hành của Đại Thừa và Thiền tông ức chế ý thức tối đa khiến cho người tu hành rơi vào thiền tưởng. Do rơi vào thiền tưởng mới tưởng con người có Phật tánh; mới tưởng có thế giới Cực Lạc, Thiên Đường; do rơi vào thiền tưởng nên không biết đường đi đến cứu cánh, giải thoát hoàn toàn. Vì thế, họ phải tự an ủi cuộc đời tu hành của mình bằng cách phải tu tập nhiều đời, nhiều kiếp.
Các   con  hãy   lắng   nghe  đức   Phật   dạy:
‚Thế  nên,  các  Tỳ  kheo không  nên  phóng dật. Ta  chính nhờ không buông lung (phóng   dật)   mà   thành   Chánh   Giác,   vô lượng   điều   lành   đều   nhờ   không   buông lung (phóng dật) mà có được. Tất cả vạn vật đều vô thường, đó là lời dạy cuối cùng của  đức  Như Lai‛. (Kinh  Du  Hành  trang  207
Trường A Hàm tập I thuộc tạng kinh  Việt Nam).

Các  con có  nghe rõ  lời  dạy này  chưa? Lời đức  Phật  dạy  quá  rõ  ràng:  tâm  không  phóng dật tức là tâm không buông lung, hai chữ buông lung  xác  định  nghĩa  rất  cụ  thể:  tâm  không



buông lung là tâm không chạy theo dục lạc và các pháp thế gian, chứ không phải tâm không niệm.   Các   con  nên   phân   biệt   cho  rõ:   Tâm không  buông  lung  có  nghĩa  là  ý  thức  không khởi  niệm  ham muốn  cái  này  cái  kia, còn tâm không  niệm  có  nghĩa  là  ý  thức  không  khởi niệm vọng tưởng. Ý thức không khởi niệm là pháp  môn  của  ngoại  đạo, còn Phật  giáo  ý  thức không phóng dật, không buông lung chạy theo pháp  trần,  nhưng  các  niệm  thiện  vẫn  còn.  Vì thế đức Phật dạy: ‚Vô lượng điều lành đều nhờ không buông lung mà có được‛. Cho nên,  tâm  không  phóng  dật,  nhưng  các  pháp lành từ nơi tâm không phóng dật mà sanh ra. Đọc câu kinh này chúng ta thấy người tu hành có hết vọng tưởng không?
Tại  sao tu  hành  chúng  ta  lại  hiểu  là  phải diệt  hết  vọng  tưởng?  Diệt  hết  vọng  tưởng  để trở  thành  cây,  đá  thì còn  ý  nghĩa  gì là  sự  giải thoát?
Tu là để làm chủ những sự đau khổ, để hết đau khổ,  chứ  đâu  phải  tu  là  làm  cho chúng  ta trở  thành  người  ngu ngu, ngơ ngơ, ngẩn  ngẩn như người mất hồn, đi thì gầm gầm không dám ngó nhìn  ai, nói nói, cười cười một mình.



Tu là đem lại cho chúng ta một tâm hồn hân hoan vui vẻ, đoan trang, chánh trực, không liếc  xéo,  liếc  ngang,  không  nói  xấu,  nói  lỗi người  khác,  không  li gián  người  này  với  người
kia.

Tu  là   đi   đứng  khoan   thai,   nhẹ   nhàng, thoải mái, chứ  đâu phải đi cúi đầu, khom lưng, bước thấp bước cao.
Tu  là  tỉnh  giác,  nhưng  tỉnh  giác  đâu  có nghĩa  là  chỉ  có  biết  cảm  nhận  bước  đi  và  hơi thở ra, hơi thở vào mà thôi. Tỉnh giác là tỉnh thức luôn luôn sáng suốt nhận xét tất cả mọi sự việc xảy ra xung quanh chúng ta một cách đúng với  chánh  pháp.  Nếu  các  con hiểu  đúng  nghĩa như vậy thì sự tu tập đâu có sai pháp và chứng đạo đâu có khó khăn mệt nhọc gì.
Cho nên, nói tu tập là nói theo tôn giáo, nhưng nói theo tôn giáo thì người ta lại hiểu tu tập  là  ngồi  thiền,  niệm  Phật,  trì chú,  tụng kinh, bắt ấn, cầu siêu, cầu an, lạy lễ hồng danh Phật  để  sám  hối  cho tiêu  tai,  giải  tội  v.v..  Tu tập  nói  theo  đời  sống  bình   thường  của  con người là sửa sai những điều làm khổ mình,  khổ người; sửa sai những hành động làm ác; sửa sai những điều bị ô nhiễm nghiện ngập; sửa sai những  lời  nói  ác,  lời  nói  dối,  lời  nói  li gián



khiến cho mọi người mất đoàn kết bất hòa; sửa sai những ý nghĩ ác, những ý nghĩ làm hại người.
Vì sửa sai để trở thành con người tốt, con người  có  đạo  đức.  Cho nên,  tu  theo  Phật  giáo chỉ  có  sửa  sai  tâm  tính của  mình,  vì  thế  đức Phật   dạy:   ‚Ngăn   ác   diệt   ác   pháp,   sanh thiện tăng trưởng thiện pháp‛ hoặc ‚Các pháp ác không nên làm, nên làm các pháp thiện‛ hoặc ‚Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người‛.  Những  lời  dạy  trên  đây  của  đức  Phật là  những  lời  dạy để  sửa  sai  những  thói  hư tật xấu  của  mình;   để  mình   trở  thành  người  tốt; người có đạo đức; người không còn thói hư tật xấu nữa; người sống luôn luôn không làm khổ mình,  khổ người.
Người chứng đạo rồi cũng giống như người bình  thường nhưng lại phi thường vì sanh, già, bệnh  và  chết  không  sai  khiến  thân  tâm  họ được,  còn  người  chưa  chứng  đạo  thì bị  sanh, già, bệnh và chết tác động vào thân tâm khiến cho thân  tâm  bất  an  thường  bệnh  tật,  phiền não, khổ đau, sợ hãi, lo lắng, thương ghét, giận hờn v.v..
Một  lần  nữa  người  chứng  đạo  và  người bình  thường  chỉ  khác  nhau  là  ở  chỗ  tâm  bất



động trước các ác pháp và các cảm thọ. Người sống bình thường chỉ cần biết đâu là con đường thiện  và  đâu  là  con đường  ác  và  không  sống theo con đường ác, chỉ sống theo con đường thiện. Người biết sống được như vậy là người chứng  đạo.  Cho  nên,  chứng  đạo  đâu  có  khó khăn gì. Phải không các con?
Tu đâu có nghĩa là làm thay đổi thân tâm khác thường; tu là ngăn và diệt những hành động làm khổ mình,  khổ người.
Sau hai tháng tu hành xả tâm trên Tứ Niệm Xứ, trên gương mặt của quý sư, quý thầy, quý  cô  và  quý  cư sĩ  nam,  nữ  sao không  hân hoan, sao không thoải mái, dễ chịu, trông có vẻ khắc khổ lắm vậy.
Cho nên, các con cần phải xác định cho rõ ràng: Tu chứng là chứng cái gì?
Như  trên  đã   nói,  đâu  phải  tu  hết  vọng tưởng   là   chứng   đạo   như   Thiền   Tông   dạy:
‚Chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền”. Tu hết vọng tưởng để làm gì các con? Nó không có giải thoát bị sanh, bị già, bị bệnh và bị chết được, hết niệm để chạy theo dục tưởng hỷ lạc.



Đâu  phải  tỉnh  giác  là  chứng  đạo?  Tỉnh giác  chỉ  là  giai  đoạn  đầu  mới  tu  tập  tỉnh  thức để phá tâm si mê, mờ mịt, vì vô minh, vì hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không.
Đâu phải tu có thần thông là chứng đạo? Thần thông chỉ là một trò ảo thuật của tưởng thức để lừa đảo những người nhẹ dạ dễ tin.
Tu  đâu  phải  ngồi  thiền  nhiều  là  chứng đạo? Ngồi thiền nhiều nhập định tưởng. Định tưởng  là  một  loại  thiền  định  vô  sắc  do tưởng uẩn tạo ra. Tu mà nhập vào thiền tưởng để làm gì?  Có  ích lợi  gì cho mình,  cho người.  Xưa đức Phật  nhập  vào  các  định tưởng: Không Vô Biên Xứ Tưởng và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, khi tu  xong  Ngài  ném  bỏ  như  ném  bỏ  chiếc  giày rách. Có đúng như vậy không các con?
Chứng đạo là chứng ở trạng thái tâm định tĩnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng. Khi ý thức muốn sai bảo thân tâm làm một việc gì thì thân tâm làm theo đúng như ý.
Chứng đạo là chứng một đạo lực có Bốn Thần  Túc  để  thực  hiện  Tam  Minh,  làm  chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi.



Cho nên, trước khi chưa chứng đạo, những người muốn tu  tập chứng đạo phải  biết  rõ trên đường đi đến chứng đạo. Và còn phải biết rõ sự chứng đạo lợi ích cho mình cho người như thế nào?  Nếu  chưa hiểu  biết  rõ  sự  lợi  ích như trên đã nói thì đừng nên tu tập, vì có tu tập cũng chẳng lợi ích gì cho ai cả, còn phí sức, phí tiền của vô ích.
Đường đi đến chứng đạo là con đường Tứ Niệm Xứ. Nếu không trên pháp môn Tứ Niệm Xứ  tu  tập  thì không  bao giờ  chứng  đạo, nhưng trên Tứ Niệm Xứ tu tập thì phải tỉnh giác, nếu thiếu tỉnh giác thì không tu tập được. Vậy tỉnh giác như thế nào?
Khi tâm  ham  muốn  một  điều  gì  thì biết ngay  tâm  ham  muốn  điều  đó,  đó  là  tâm  tỉnh giác. Khi biết tâm tỉnh giác được như vậy thì ý thức   bảo:   ‚Tâm   không   được   ham  muốn, ham   muốn  đó  là  ác  pháp,  là  pháp  khổ đau‛. Ý  thức  lệnh  bảo  như  vậy  thì tâm  chấm dứt ham muốn.
Khi tâm đang sân giận, ý thức bảo: ‚Tâm phải chấm dứt ngay sân giận, sân giận là pháp  ác,  là  pháp  đau khổ‛,  khi tác  ý  như vậy là tâm không còn sân giận.



Khi thân  già  yếu,  ý  thức  bảo:  ‚Thân  vô thường,  nhưng   không  được  yếu  đuối  run rẩy  phải  quắc  thước‛,  khi tác  ý  như vậy  thì thân  lần  lần  không  còn  yếu  đuối  và  run rẩy, luôn luôn quắc thước.
Khi  thân   bị   bệnh,   ý   thức   bảo:   ‚Thân phải  mạnh  khỏe,  tất  cả  bệnh  tật  đều  phải lui ra khỏi  thân‛.  Lệnh  của  ý  thức  như  vậy thì bệnh lần lần lui ra sạch.
Khi thân  sắp  chết,  thở  không  được  thì ý thức bảo: ‚Thân phải thở lại bình thường, không  được  chết‛.  Ý  thức  lệnh  như  vậy  thì thân mạnh khoẻ và thở lại bình thường.
Khi thân  đang  mạnh  khoẻ  bình  thường mà muốn chết, muốn bỏ thân này thì ý thức ra lệnh:  ‚Hơi thở  phải  tịnh  chỉ,  từ  bỏ  thân  tứ đại  này‛.  Lệnh  như  vậy  thì hơi  thở  lần  lần ngưng  hoạt  động,  tâm  nhập  vào  chỗ  bất  động Tứ Thiền Thiên và xuất Tứ Thiền Thiên nhập vào  trạng  thái  thanh  thản,  an  lạc,  vô  sự  của Niết Bàn. Lúc bấy giờ tứ đại tan rã.
Trên đây là năng lực của những người tu chứng đạo, ý thức của họ hoàn toàn chủ động điều khiển sự sống chết của cơ thể họ. Cho nên, người   tu   chứng   đạo   làm   chủ   sự   sống   chết,



không có khó khăn, không có mệt nhọc. Do làm chủ sự sống chết tự tại như vậy, nên mọi người ai  cũng  quyết  tâm  tu  cho bằng  được,  nhưng  lại tu sai, rơi vào chỗ ức chế tâm.
Theo Phật giáo tu chứng đạo không có khó khăn,  nhưng  vì  không  hiểu  biết  rõ  ràng  pháp tu  hành  nên  trở  thành  khó  khăn  như  trên  đã
nói.

Tu khó sao đức Phật tu tập chỉ có 49 ngày chứng  đạo?  Tu  khó  sao Thầy  tu  có  sáu  tháng rưỡi  chứng  đạo? Tu khó  sao năm  anh em Kiều Trần  Như  nghe  bài  pháp  Tứ  Diệu  Đế  và  bài pháp  vô  ngã  liền chứng pháp  nhãn thanh  tịnh và tu tập không bao lâu chứng quả A La Hán.
Phật  pháp  đâu  phải  khó  tu,  chỉ  vì  chúng ta nhận lầm pháp hành nên tu sai. Cho nên, muốn tu tập theo Phật giáo thì những gì cần thông hiểu phải thông hiểu cho rõ ràng (giác ngộ)  về  các  pháp  hành  và  nhận  ra cho được trạng thái chân lý, đó là điều cần thiết mà mọi người tu hành nên lưu ý. Vì thế, đức Phật dạy:
‚Nên  thân  cận  thiện  hữu  tri thức‛.  Nhờ  có thân  cận  thiện  hữu  tri thức  chúng  ta  mới  hiểu rõ  các  pháp  hành  và  chân  lý.  Khi hiểu  rõ  các pháp  hành  là  chúng  ta  biết  cách  thức  sống  để hộ  trì chân  lý.  Sống  để  hộ  trì chân  lý  thì đâu



có cái gì để tu. Không có cái gì để tu thì có cái gì khó. Phải không các con?
Nói tu tập là nói theo tôn giáo, chứ Phật giáo  nói  tu  tập  là  nói  sống  không  làm  khổ mình,  khổ  người.  Sống  không  làm  khổ  mình, khổ  người  là  hộ  trì và  giữ  gìn  bảo  vệ  chân  lý. Người  nào  biết  sống  hộ  trì và  giữ  gìn  bảo  vệ chân  lý   là   không  hiểu   sai   Phật   pháp.  Còn ngược  lại  tu  khác,  sống  khác  là  không  hiểu Phật  pháp,  nên  tu  tập  gần  chết  mà  không chứng  đạo.  Người  hiểu  đúng  chỉ  cần  sống  biết xả các chướng ngại pháp là chứng đạo.
Trong thời đức Phật còn tại thế, khi người ta nghe Phật thuyết pháp xong là chứng pháp nhãn thanh tịnh. Chứng pháp nhãn thanh tịnh rồi từ đó họ biết cách sống, luôn luôn xả những chướng ngại pháp để giữ gìn và bảo vệ chân lý, nhờ đó chẳng bao lâu họ chứng đạo.
Dưới đây Thầy sẽ trích dẫn ra những đoạn kinh  Phật   thuyết   mà   người   nghe  xong  liền chứng các quả A La Hán.





PHỤ   LỤC 1

ĐỨC PHẬT THÍCH  CA VỀ THĂM GIA ĐÌNH


‚Thân  phụ  đức  Phật,  vua Suddhodana (Tịnh Phạn) bây giờ đã già yếu,  nghe  tin đức  Phật  đã  thành  đạo  và đang  thuyết  pháp  ở    thành  Rajagaha (Vương  Xá).  Vua  rất  nóng  lòng  được  gặp lại con. Vua liền phái sứ giả Rajagaha (Vương   Xá),   thỉnh   cầu   đức  Phật   trở   về thăm  cố  đô  và  gia đình. Nhưng các sứ  giả của Vua đến Vương Xá, được nghe Phật thuyết pháp, đều xin  xuất gia làm Tỳ kheo và  chứng  quả  A La  Hán.  Vị  sứ  giả  thứ  10 là  Kaludàyi,  vốn  là  người  bạn  thân  của đức  Phật,  lúc  Ngài  còn  là  Thái  tử.  Ông này đến Vương  Xá, nghe Phật thuyết pháp cũng xin  xuất gia và không bao lâu  chứng quả A La Hán như chín vị sứ giả trước. Kaludàyi  không  quên  chuyển  tới  đức Phật lời  phụ  vương  mời  đức  Phật  về  thăm  gia đình. Đức  Phật  nhận  lời,  lên  đường  cùng với  đông  đảo  đệ  tử‛.  (Lịch  Sử  Đức  Phật  Thích Ca Mâu Ni, trang 35 do HT  Minh Châu biên soạn).



Đọc đoạn kinh trên đây chúng ta thấy rất rõ ràng chỉ cần nghe Phật thuyết giảng xong là các vị quan trong triều vua liền bỏ xuống hết danh, lợi, cha mẹ, gia đình,  vợ con, của cải, tài sản, quan chức v.v.. để được theo Phật xin xuất gia. Chứng tỏ giáo pháp của Phật rất thực tế về đời sống con người, nói về khổ và nguyên nhân sinh  ra khổ  của  kiếp  người,  đó  là  một  sự  thật không còn ai phủ nhận được, đúng là 100/100, nên  khi nghe  Phật  thuyết  pháp  xong  thì các quan liền buông xuống hết, theo Phật tu hành và chẳng bao lâu đều chứng quả A La Hán.

Trên  đây  là  các  quan chứ  không  phải  là tu  sĩ  Bà  La Môn  đã  có  tu.  Vậy  khi nghe pháp và  chứng  đạo  chỉ  có  một  thời  gian  rất  ngắn. Như  vậy  pháp  Phật  tu  hành  đâu  có  khó  khăn gì. Phải không các con?

Chỉ  một  bài  kinh này  cũng  đủ  xác  định: Chứng đạo đâu phải khó khăn và thời gian chứng  đạo  đâu  có  lâu  dài.  Có  đúng  như  vậy không các con?



û          õ                   Ï


PHỤ   LỤC II

ĐỨC PHẬT VÀ PHỤ VƯƠNG SUDDHODANA


‚Đức  Phật  và  các  đệ  tử  của  Ngài được vua Tịnh Phạn, quần thần và dân chúng đón tiếp long trọng. Được nghe đức Phật thuyết pháp. Vua  chứng ngay  Sơ quả (Tu  Đà  Hoàn).  Khi nghe  bài  thuyết  pháp thứ hai, nhà vua chứng quả Thánh thứ hai (Tư  Đà  Hàm),  còn  bà  dì Pajapati Gotami thì chứng Sơ quả. Lần thứ ba đức Phật giảng  kinh Dhammapala  Jataka cho  vua cha  và  vua  cha  chứng  Thánh  quả  thứ  ba (A Na Hàm). Sách kể rằng: sau này trên giường  bệnh  vua  cha  được  đức  Phật  về thăm và giảng pháp, Lần nghe pháp cuối cùng  này,  vua  chứng  quả  A  La  Hán.  Và sau bảy ngày tận hưởng lạc thú giải thoát, vua  qua  đời  vào  năm  đức  Phật  tròn  40 tuổi‛.  (Lịch  Sử Đức Phật  Thích  Ca Mâu Ni,  trang
36 do HT  Minh Châu biên soạn).

Đọc đoạn kinh trên đây chúng ta thấy một người già như vua Tịnh Phạn khi nghe Phật thuyết  pháp  xong sống  biết  buông  xả  ly dục  ly

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VII


ác  pháp  liền chứng Sơ Quả; khi nghe bài pháp thứ hai liền chứng Nhị Quả; khi nghe bài pháp thứ ba liền chứng Tam Quả và lần nghe pháp cuối cũng đức Vua liền chứng quả A La Hán và nhập  Niết  Bàn.  Như  vậy  Phật  pháp  đâu  phải khó  tu.  Tu khó  là  do các  con chịu  ảnh  hưởng của Đại thừa và Thiền Tông, cứ lo tu tập ức chế ý  thức  cho hết  vọng  tưởng,  nên  tu  khó  và  tu mãi chẳng đi đến đâu.

Thấy người xưa buông xả quá dễ dàng, còn ngày  nay  Thầy  khô   cổ   giảng  dạy  sách  tấn khích  lệ các con buông xả:

‚Buông   xuống   đi!   Hãy   buông   xuống

đi!




Chớ giữ làm chi có ích gì?

Thở ra chẳng lại còn chi nữa.

Vạn sự vô thường buông xuống đi!‛

Các  con không dám  buông xả  nên từ  năm

này  đến  năm  khác  tu  cứ  giậm  chân  tại  chỗ. Nhất là các con lại hiều sai sự chứng đạo của Phật, nên có gắng ức chế tâm cho hết vọng tưởng như trên đã  nói. Thành ra tu tập cho tới bây  giờ  mà  chưa có  người  nào  chứng  quả  A La Hán.  Quả  A  La  Hán,  tu  tập  đâu  có  khó  khăn

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


như các đoạn kinh trên đã  dạy. Thầy sẽ chứng minh thêm một phụ bản nữa để các con thấy sự chứng đạo của đạo Phật không có khó khăn.



PHỤ   LỤC III

ĐỨC PHẬT  VÀ RAHULA   (LA  HỈU LA)


‚Rahula (Hán dịch La Hầu La) là người con trai độc nhất của đức Phật, khi đức Phật còn là Thái tử. Lần đầu tiên đức Phật trở về thăm cố đô và gia đình, sau ngày  thành  đạo,  Rahula lên  7  tuổi,  được mẹ và dì  Gotami trực tiếp nuôi dưỡng, săn sóc. Mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng  Rahula được  chấp  nhận  vào  tăng  đoàn,  và  được đức Phật giao cho ngài Xá Lợi Phất trực tiếp dạy dỗ.
Một trong những bài kinh nổi tiếng, đức  Phật  đích  thân  giảng  cho La  Hầu  La sau khi La  Hầu La  xuất gia, là kinh Ambalatthika Rahulovada sutta,  trong đó đức  Phật  nhấn  mạnh  tầm  quan  trọng của tánh trung thực, của sự phản tỉnh để trừ diệt  mọi  ý  niệm,  lời  nói  và  hành  vi bất thiện, bất chánh.
Nhờ  luyện  tập  pháp  tu định niệm  hơi thở,  theo lời  chỉ dẫn của đức Phật,  và sau khi  nghe   giảng   kinh  Cula  Rahulovada,

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Ngài   La   hầu   La   chứng  quả  A  La   Hán. Ngài qua đời trước Phật và Xá Lợi Phất. Trong  ‚Trưởng   Lão   Tăng   Kệ‛,   sau   khi Ngài  chứng quả A La  Hán, Ngài  có  bài  kệ
như  sau:

Nhờ ta được đầy đủ Hai đức tính tốt đẹp Được bạn có trí gọi La Hầu La may mắn Ta là con đức Phật
Ta lại được pháp nhãn Các lậu hoặc đoạn tận Không còn có tái sanh Ba minh ta đạt được Thấy được giới bất tử‛
Đối  với  La  Hầu  La  qua đoạn  kinh  trên
chúng  ta  thấy  La  Hầu  La  có  nghe pháp,  có  tu tập, rồi có chứng đạo, nhưng chứng đạo cũng không có khó khăn, thời gian cũng không lâu.
Như vậy, trong thời đức Phật người nào được  nghe  Phật  thuyết  pháp  rồi  quyết  tâm  từ bỏ  ly dục  ly ác  pháp  và  cuối  cùng  người  nào cũng  chứng  quả  A  La  Hán  hết,  chỉ  có  những

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VII


người  nghe  pháp  rồi  bỏ  qua không  chấp  nhận và  không  thiết  tha  xả  bỏ  tham,  sân,  si,  mạn, nghi thì không bao giờ chứng đạo được.
Muốn tu  chứng đạo mà  đời  không dám  bỏ thì tu  làm  sao chứng  được.  Trong  bộ  sách Văn Hóa Phật  Giáo  Truyền Thống tập  II Phật dạy:
‚Cạo  bỏ  râu  tóc, đắp áo cà sa, sống không nhà cửa, không gia đình‛. Đây là những giới luật đầu tiên cho người mới xuất gia theo Phật giáo.  Người  mới  xuất  gia  là  người  phải  buông xả  sạch  đời  sống  thế  gian.  Cho  nên,  những người  nghe  pháp  xong liền  xin  Phật  xuất  gia thì không  bao lâu  họ  sẽ  chứng  quả  A la  Hán, chính là do họ buông xả sạch đời sống thế tục.
Mười vị sứ giả của vua Tịnh Phạn sai đến mời  Phật  về  thăm  cố  đô,  nhưng  khi gặp  Phật nghe pháp liền xin xuất gia theo Phật tu hành không cần đến danh lợi, tiền của, vật chất, gia đình,  vợ con, quan cao chức lớn. Có xả tâm như vậy mới có chứng quả A La Hán một cách dễ dàng và chỉ trong một thời gian ngắn mà thôi.
Để   kết   luận   những   lời   tâm   huyết   này Thầy  xin  nhắc  các  con, hãy  nên  lưu  ý  pháp  tu Tứ Niệm Xứ ‚Trên thân quán thân để nhiếp phục  tham   ưu;  trên  thọ  quán  thọ...;  trên tâm  quán  tâm...;  trên  pháp  quán  pháp  để

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


nhiếp  phục  tham ưu‛. Bài  kinh dạy như vậy nhưng  rất  nhiều  người  hiểu  sai  thành thử chia pháp  môn  Tứ  Niệm  Xứ  thành  ra bốn  pháp  tu tập. Cho nên, có trường thiền chuyên tu  QUÁN THÂN;  có  trường  thiền  chuyên  tu  QUÁN  THỌ; có   trường   thiền   chuyên   tu   QUÁN   TÂM;   có trường  thiện  chuyên  tu  QUÁN  PHÁP.  Đây  là một  cái  sai  của  các  nhà  học  giả  tu  hành  chưa tới nơi mà dám chia pháp môn Tứ Niệm Xứ, rồi đem dạy người tu tập thật là tội nghiệp.
Pháp  môn  Tứ  Niệm  Xứ  là  pháp  môn  xả mọi  chướng  ngại  trên  thân  tâm,  cho nên  nó mới được gọi là nhiếp phục tham ưu. Nhưng khi quán thân là đã có quán tâm, quán thọ và quán pháp.
Khi ngồi tu Tứ Niệm Xứ là không tu gì cả, chỉ ngồi chơi như người vô sự. Người vô sự thì tâm  họ  ở  đâu?  Đã  vô  sự  thì ý  thức  quán  thân nó, chứ nó ở đâu?
Quán  thân  không  có  nghĩa  là  nó  đang tư duy suy nghĩ,  quán  ở  đây  có  nghĩa  là  nó  tỉnh giác  cảm  nhận  toàn  thân  tức  là  nó  đang quan sát  thân.  Cho nên,  thân  nó  có  chướng  ngại  gì thì nó  liền  biết;  tâm  nó  có  chướng  ngại  gì thì nó  liền  biết;  thọ  nó  có  chướng  ngại  gì  thì nó liền  biết;  pháp  có  chướng  ngại  gì  thì nó  liền

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP VII


biết. Nhờ biết đó mà nó dùng pháp như lý tác ý đuổi  đi  các  chướng  ngại  ra khỏi  bốn  chỗ  thân, thọ, tâm, pháp. Khi các chướng ngại ra khỏi thân,  thọ,  tâm,  pháp  thì ý  thức  lúc  biết  thân, lúc biết thọ, lúc biết tâm, lúc biết pháp. Khi nó đang quán như vậy thì các con đừng tác ý khởi niệm,   nếu   khởi   niệm   là   tâm   các   con  đang phóng dật. Mục đích tu tập của  TỨ  NIỆM XỨ  là tâm  không  phóng  dật.  Chỉ  khi nào  trên  thân, thọ, tâm và  pháp  có  chướng ngại  pháp  thì mới tác  ý  xả, còn không chướng ngại  thì không tác ý. Các con đừng hiểu lầm xả từng niệm trong tâm, đó là các con tu sai pháp.
Các  con  nên  lưu  ý  cách  thức  QUÁN  TỨ NIỆM  XỨ,  nếu  không  lưu  ý  các  con sẽ  quán  sai thành  ra  quán  ức  chế  tâm,  chứ  không  phải quán Tứ Niệm Xứ.
Pháp  môn  này  đức  Phật  tu  tập  49  ngày đêm là chứng đạo. Thầy sáu tháng rưỡi chứng đạo.  Ông  Châu  Lợi  Bàn  Đặc  cũng  do  tu  tập pháp môn này mà chứng đạo. Vì thế, trước khi nhập  Niết  Bàn  đức  Phật  đã   di  chúc  lại  cho người  đời  sau:  ‚Hãy  lấy  giới  luật  và   giáo pháp của Ta làm Thầy, đừng lấy ai làm thầy; làm ngọn đuốc soi đường, làm chỗ nương tựa vững chắc‛.

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Còn  năm  tháng  nữa  chúc  các  con chứng quả  A La  Hán  để  không  phụ  lòng  Thầy  mong
đợi.

Thân thương chào các con

Kính  ghi, Thầy của các con

--------




HẾT TẬP VII

Ø         À         Ù         Ä         Ä


MỤC LỤC


Lời nói đầu .......................................................... 5

Định niệm hơi thở............................................ 27

Thiền xả tâm .................................................... 42

Cận tử nghiệp ................................................... 48

Tiếp dẫn về Cực Lạc ........................................ 53

Khi tắt thở mà còn sân hận ............................ 58

Ý thức ................................................................ 61

Tâm linh ........................................................... 63

Mạc na thức và A lại da thức .......................... 65

Tu sai hay tu đúng ........................................... 68

Ý thức phân biệt và tỉnh giác ......................... 70

Định niệm hơi thở câu hữu pháp hướng tâm . 73

Ngồi thiền nhập định ...................................... 76

Tiếng kêu cứu giữa biển khơi .......................... 79

Thời khóa tu ..................................................... 85

Đề tài thiền quán ............................................. 88

Đừng mất hi vọng............................................. 89

Tự tại ra đi........................................................ 91

Pháp hướng tâm ............................................... 95

û          õ                   Ï


Trọng nam khinh nữ ........................................ 98

Nén tâm hương ............................................... 103

Đếm một ngàn hơi thở ................................... 108

Vọng tưởng xen vào ........................................ 110

Chọn pháp dễ tu ............................................. 112

Xả tâm ............................................................. 115

Tùy thuận ........................................................ 116

Hội họp ............................................................ 120

Dẫn tâm vào đạo ............................................ 128

Làm chùa, tô tượng, đúc chuông .................... 132

Yểu tử có được tái sanh không?..................... 136

Nhân quả xinh đẹp ......................................... 139

Hối lộ Phật...................................................... 142

Cúng dường trai tăng ..................................... 146

Thông minh..................................................... 148

Trùng trong lông sư tử ................................... 152

Cúng dường đúng chánh pháp ....................... 157

Hủy hoại cơ thể hoặc một phần cơ thể cúng dường chư Phật cầu vô thượng pháp ............. 162
Mời ông bà đã chết về ăn tết ........................ 180

Cầu xin phúc lộc ............................................. 184

Kinh sách phát triển...................................... 188


Hình  ảnh Quan thế âm bồ tát ...................... 190

Ba hồn bảy vía, ba hồn chín vía ................... 192

Kinh cầu kỳ và điệp phái .............................. 197

Tuần thất ........................................................ 204

Xóc thẻ ............................................................ 210

Tượng Phật quá nhiều.................................... 213

Nếu con người không ăn thịt chúng sanh thì sẽ tràn ngập trái đất .......................................... 219
Sát nhân thì nhân oán, sát vật thì hóa kiếp làm chúng sanh của chúng ............................ 222
Làm kiếp con mèo là sắp đến con người ...... 225

Chết giờ tốt, giờ xấu ...................................... 232

Giờ hạ huyệt ................................................... 237

Không thắp hương khi cúng giỗ.................... 241

Sáu nẻo luân hồi............................................. 247

Đức Phật Di Lặc ............................................. 251

Tu hành tránh pháp ức chế tâm ................... 256

Lời nói phải đi đôi với việc làm .................... 258

Tâm thanh tịnh .............................................. 264

Đã học giới luật mà còn phạm ...................... 266

Ăn của đàn na thí chủ mà không tu ............. 268

Thân kiến là gì? ............................................. 270

û          õ                   Ï


Xem ngày tốt xấu ........................................... 273

Độ siêu thoát................................................... 277

Aên mặn nói ngay, ăn chay nói dối ................ 281

Đi dép da, mặc áo lông thú............................ 286

Sinh nhật thầy trụ trì .................................... 288

Cúng dường bố thí đúng chánh pháp............ 290

Lên đồng nhập cốt.......................................... 294

Aên thịt chúng sanh ........................................ 301

Tụng kinh giỏi, thông giáo lý ........................ 304

Tâm danh và bỏn xẻn .................................... 307

Thờ phụng, đi lễ, cúng chùa .......................... 310

Học trò bạc nghĩa ........................................... 313

Tu sĩ làm con nuôi, em nuôi .......................... 315

Tội tử hình ...................................................... 316

Thuê du côn..................................................... 320

Ngồi mát ăn bát vàng .................................... 321

Bon ăn mày đội lốt tu sĩ Phật giáo ............... 324

Giải hạn........................................................... 330

Bà La Môn ...................................................... 333

Cúng kem ........................................................ 336

Làm lễ nhập nhà mới..................................... 338

Ø         À         Ù         Ä         Ä


Triệu linh tiếp linh ........................................ 340

Nghe pháp không được trang điểm .............. 342

Linh hồn báo mộng ........................................ 344

Tạo điều kiện cho người chết ........................ 346

Chúc thọ .......................................................... 348

Sống chẳng cho ăn, chết làm văn tế ruồi..... 349

Chiếm đoạt chùa............................................. 355

Thầy tụng........................................................ 357

Tứ chúng ......................................................... 359

“Chết” là sự nối tiếp của luật nhân quả vô thường ............................................................. 361
Ăn thịt chúng sanh vì sức khỏe .................... 365

Ông táo............................................................ 368

Mời người chết về ăn Tết .............................. 371

Những lời tâm huyết của trưởng lão Thích
Thông Lạc ....................................................... 374

Phụ lục I: Đức Phật Thích Ca về thăm gia đình
......................................................................... 399

Phụ lục II: Đức Phật và phụ vương Suddhodana
......................................................................... 401

Phụ lục III: Đức Phật và La Hầu La ............. 404


0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!