Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT TẬP 7 -1



ĐỨC PHẬT THÍCH CA KHỔ HẠNH
Sáu năm khổ hạnh đức Phật Thích Ca Mâu Ni gần như sắp chết nhờ bát sữa dê  sống lại. Ngài thấy rõ tất cả giáo pháp của ngoại đạo chỉ là lời nói suông. Vì thế,Ngài quyết định phải tự tìm ra sự thật của cuộc đời. Cuối cùng,Ngài đã thành tựu viên mãn.
 Lời nói đầu
Đường Về Xứ Phật, từ tập một đến tập sáu, các bạn  đã được  đọc  phần “Hỏi Đạo”.  Càng  đọc  các bạn   càng  thấy rõ,  đường  lối tu   tập của đạo  Phật    không giống  như  đường lối tu tập của ngoại  đạo. Nhất là đối với các pháp  môn  trong kinh sách  phát  triển.   Vì những pháp   môn  trong kinh   sách này không lấy giới  luật làm nền tảng cho  đời sống phạm  hạnh của những tu sĩ
 và  cư   sĩ,  nên  kinh  sách  này  đã  làm   mất
chương trình giáo dục và đạo tạo những bậc tu chứng quả A La Hán.
Càng đọc, các bạn càng thấy rõ âm mưu thâm độc của Bà La Môn trong kinh sách phát triển, quyết tâm  diệt sạch Phật giáo trên hành tinh này. Kinh sách phát triển này rất khéo léo, thay thế danh từ Bà La Môn Giáo bằng những danh từ rất kêu và rất nổi bật như:  xe  nhỏ, xe  lớn, xe  tối thượng, khiến cho  tất cả tín đồ Phật giáo dễ lầm  lạc,    họ cứ ngỡ kinh sách đó là  của Phật giáo chân chánh, là  những lời  đức Phật dạy. Nhất là  kinh sách phát triển, khi bắt đầu vào bài kinh nào cũng đều  dùng những danh từ để  xác định do  Phật thuyết rất hay, khiến mọi người dễ lầm  lạc.   Đó là những  câu:  “Như  thị   ngã  văn  nhất  thời



Phật tại Xá Vệ Quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô
Độc, viên dữ  Kỳ Đà...”. Câu này có nghĩa khi ông A Nan kết tập kinh   Phật  đọc trước 500 vị A La Hán như sau:  “Một thời đức  Phật ở tại nước Xá Vệ trong tịnh xá Kỳ Hoàn của ông Cấp Cô Độc và trong  khu vườn  của  thái  tử  Kỳ  Đà”. Khi nghe đọc câu này ai mà không tin rằng Phật thuyết. Và vì  vậy, những kinh  sách phát triển đó, các bạn dễ lầm   tưởng là  kinh sách của đức Phật thuyết.
Cho nên, tín đồ Phật giáo hiện giờ lầm lạc, tưởng kinh sách phát triển là  kinh sách Phật giáo chân chánh, nhưng không ngờ là kinh sách Phật giáo Bà La Môn. Đó là kinh  sách mê tín, trừu tượng, ảo giác  của Bà La Môn đã lừa đảo được tín đồ Phật giáo một cách dễ  dàng. Hơn hai ngàn năm
 trăm năm, tất  cả tín đồ Phật giáo đều  tin
đó là kinh sách của đức Phật thật sự.
Vì thế, tín đồ đến  chùa thường cúng bái, tụng  niệm và tọa  thiền,  có người nghi ngờ, nhưng không biết hỏi ai, lại có một số người chịu  khó nghiên cứu nên họ nhận xét Phật giáo hiện nay chỉ là  một tôn  giáo mê tín, lý  luận nhiều, nhưng  rỗng tuếch, huyền hoặc. Dường như Phật giáo dạy những đạo đức mê tín, lạc hậu v.v.. còn đạo đức thật sự (giới luật) thì bỏ qua, tu sĩ không còn ai tôn trọng gìn  giữ và sống đúng giới hạnh.
Khi đức  Phật còn tại thế, ông A Nan quỳ  xin   đức Phật  cho  giới nữ  xuất gia.  Để  thành  lập  giáo  đoàn  Ni chúng, Ngài đã xác định và tuyên bố trước chúng Tỳ Kheo: “Nếu cho  người nữ xuất gia tu
 tập thì   đạo  Ta  chỉ  trụ  thế  có  năm  trăm
năm, thay vì phải trụ thế một ngàn năm”.
Đạo Phật  là   một  tôn  giáo rất  bình đẳng, đối xử từ loài vật đến loài người với một lòng thương  yêu bình  đẳng. Dưới đôi mắt nhân quả của Ngài, được xem vạn vật là anh  em  chung   nhau  trong một nhà (Mọi vật đều  từ trong nhân quả tức là  từ môi trường sống sanh ra). Vì thế, Ngài xác định: “Ta là  Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Lời dạy này của đức Phật rất bình đẳng. Cớ sao  lại tuyên bố: “Nếu cho giới nữ xuất gia thì đạo Ta chỉ còn truyền thừa  năm trăm năm”. Không lẽ cho giới nữ xuất gia thì giới nữ làm hư  hoại Phật giáo sao? Không đúng. Giới nữ cũng là   một  con  người như  người nam, họ cũng được quyền sống như  người nam, cũng được
 quyền xuất gia tu hành như người nam; họ tu
hành  cũng  chứng  quả  A La Hán  như người nam; họ cũng đầy đủ trí tuệ không thua gì  người nam; họ cũng nhập được Tứ Thánh Định; họ cũng đầy đủ Tam Minh Lục Thông. Cớ sao   đức Phật lại  chế ra “Bát Kỉnh Pháp” bắt họ phải quỳ đảnh lễ một nam tu sĩ mới xuất gia, thân tâm của vị này chưa  có chút gì  gọi là thanh    tịnh, mà buộc một người tu sĩ nữ chứng quả A La Hán thân tâm đã thanh  tịnh hoàn toàn phải đảnh lễ. Người nữ này có thể là  một bậc Thầy của vị tu sĩ nam.  Trong các trường đại học chúng ta phải chấp nhận những nữ giáo sư có tài, dạy rất hay đâu kém gì nam giáo sư.  Trong phòng thí nghiệm khoa  học có rất nhiều nữ bác học đang nghiên cứu và phục vụ cho nhân loại đâu thua gì nam giới.
 Đạo  Phật  có  một  nền  đạo  đức   rất
bình đẳng, “Đạo đức  không làm  khổ mình, khổ người và không làm khổ cả hai”. Thế sao đức Phật là người đã tu chứng đạt chân lý, sao lại có lời  nói khinh miệt giới nữ như vậy. Lại còn chế Bát Kỉnh Giới để  hạ giá trị người nữ tận cùng. Lời nói này là  lời nói của các nhà phong  kiến, của các tôn  giáo chịu  ảnh hưởng phong kiến “Trọng nam khinh nữ” chứ không phải đức  Phật nói những lời này và chế Bát Kỉnh Giới. Như vậy Bát Kỉnh pháp ai chế ra đây…?
Đạo Phật ra đời là san   bằng những giai cấp trong xã hội. Cho  nên, trong đạo Ngài có đủ mọi từng lớp giai cấp tu tập, không phân biệt sang  hay  hèn, nam  hay  nữ đều được xem bình đẳng như nhau.
 Thế mà Bà La Môn dám đặt điều
nói Phật dạy: “Nếu cho người nữ xuất gia đạo Ta chỉ còn trụ thế năm trăm năm” và chế ra Bát Kỉnh Giới rồi cho  là đức Phật chế, để  Phật giáo cũng trọng nam khinh nữ như các tôn giáo khác, thật là đau lòng.
Thầy Tổ của chúng ta lầm, cứ tin theo kinh sách phát triển mà biến Phật giáo thành một tôn giáo có giai cấp; một tôn giáo trọng nam khinh nữ; một tôn giáo không xứng đáng cho con người ngưỡng mộ.
Năm trăm năm đầu ấy, khi đức  Phật nhập diệt xong, các vị đại đệ  tử của Người cũng lần lượt nhập diệt hết,  chỉ còn lại một số rất ít tỳ  kheo ẩn bóng tu hành chơn chánh. Họ tránh danh, tránh lợi, tránh chia phe, chia  nhóm, tránh chống trái, kích  bác nhau; tránh những tỳ   kheo  phạm giới, phá
 giới, bẻ vụn giới v.v.. Lúc nào cũng giữ gìn
giới luật  nghiêm chỉnh và còn tu  tập theo đúng giáo pháp của Phật dạy, sống đúng phạm hạnh, không hề vi phạm những lỗi nhỏ nhặt. Còn bao  nhiêu vị tỳ   kheo  khác  chạy theo danh,  lợi,  chia manh, chia  múm thành lập 20  bộ phái. Nếu họ không vì danh lợi, chia ra bộ phái để làm  gì? Phải không các bạn?
Hai mươi bộ phái chia ra để  dễ  bề tự do phá giới luật của Phật tận  cùng. Giới luật các vị tỳ  kheo không còn giữ gìn  nghiêm túc như  lúc đức Phật còn tại thế. Hiện giờ, chúng tỳ   kheo  không còn giữ gìn   giới luật nghiêm túc nữa,  nên được xem đạo Phật đã mất từ khi chia ra bộ phái.
 Khi đức  Phật còn tại  thế, Ngài đã
xác định: “Giới luật còn là  đạo Phật còn, giới luật mất là  đạo Phật mất”. Lời di chúc này giúp cho  chúng ta  nhìn thấy tu sĩ hiện giờ phạm giới, phá giới là chúng ta  biết ngay   là Phật giáo đã mất, chỉ còn lại là đạo Bà La Môn, chuyên môn mang  mõ chuông đi cúng tế cầu siêu, cầu an v.v..
Đặc biệt, thiền định  của đạo Phật bắt buộc tu  tập phải sống đúng giới luật và sống rất nghiêm túc, thì  mới mong  thực hiện nhập được các loại chánh định. Các loại thiền  định  đó là   Tứ thánh định.  Có  nhập được Tứ thánh định thì  mới triển khai được trí tuệ của Phật. Trí tuệ của Phật là trí tuệ tam minh.
Khi phá giới, phạm giới mà tu  thiền định, thì  thiền đó là  tà  thiền,    thiền   tưởng.
 Khi nhập thiền  tưởng thì  triển khai tưởng
tuệ, chứ không bao giờ triển khai trí tuệ Phật được. Cho nên, những người nói thiền định mà phạm giới, phá giới là  những người nói láo gạt người về thiền định.
Những loại thiền định  và tưởng tuệ này chẳng có ích lợi cho hành giả, mà còn có hại trên đường tu tập, có nghĩa   là tu hành chẳng đi đến  đâu cả, uổng công mất thì giờ vô ích.
Đối với chúng tôi rất sẵn sàng trả lời cho các bạn, khi các bạn có nghi ngờ những điều gì không đúng của Phật giáo. Muốn biết  đúng hay sai những giáo pháp của đạo Phật, thì các bạn cứ mạnh dạn hỏi thẳng chúng tôi.  Chúng tôi  sẵn sàng trả lời  thẳng thắn những gì không đúng của đạo Phật cho



các bạn rõ. Những giáo pháp sai này là do
ngoại đạo lồng vào kinh sách, rồi mạo danh là của Phật giáo.
Các bạn có thưa hỏi thì chúng tôi  mới trả lời,  bằng không thưa hỏi,  thì chúng tôi tùy  nhân duyên của Phật pháp, chứ không đá động đến  pháp môn của ai cả, ai tu sao cũng được, tu được thì nhờ, tu không được thì chịu, chớ có ăn thua gì  đến chúng tôi đâu. Cho nên đối với chúng tôi,  chúng tôi  không có ý kiến gì về các pháp môn Đại Thừa, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông và những kiến giải của các nhà học giả.
Chúng tôi chỉ tùy duyên của các bạn thưa hỏi. Hỏi, tức là  các bạn muốn tìm hiểu. Tìm hiểu để biết   rõ đâu là  pháp môn của Phật, đâu là  pháp của ngoại đạo. Do tâm  thành của các bạn, chúng tôi  sẵn sàng



vạch  rõ  để   các  bạn  suy  ngẫm  những  điều
chúng tôi nói, chứ đừng vội tin ở chúng tôi.

Là một tu sĩ Phật giáo sống thật, tu thật, không cầu danh lợi, không cầu cơm ăn áo mặc, không cầu chùa to, tháp lớn, chỉ tìm cầu sự  giải thoát sanh, già, bệnh, chết nơi thân tâm  của mình.  Vì thế, chúng tôi nói thật, nói thẳng, nói mạnh.
Khi về họp  ở Tỉnh Hội Phật Giáo Tây Ninh, ông Trưởng Ban Tỉnh Hội đề   nghị chúng tôi  biên  soạn giáo án Tịnh Độ Tông, Mật Tông, Pháp Hoa Tông và Thiền Tông.
Trong buổi họp  hôm đó, chúng tôi   đề nghị ý kiến và vạch rõ bốn Tông phái này không phải của Phật giáo mà của Bà La Môn Giáo:
 1- Tịnh Độ Tông là pháp môn mê tín,
lừa đảo giới tín đồ bình dân, biến tu sĩ thành những ông “thầy tụng”, thầy cúng tế làm những điều mê tín, phi đạo đức.  Các vị thầy này phá giới luật Phật tận cùng, có một lối sống giống như người thế tục, có vợ con, làm tất cả các nghề nghiệp để sanh sống.
2- Mật Tông là  pháp môn tà  thuật, huyễn hoặc lường gạt tín đồ nhẹ dạ, ham mê thần thông, biến  ông thầy thành thầy  phù thủy, thầy bùa, thầy pháp, thầy bói, đồng cốt v.v..
3- Pháp Hoa Tông là  pháp môn phi đạo đức, ngồi không mà muốn làm giàu, làm ác mà muốn trốn tránh tội lỗi,  biến ông thầy thành một vị Bà La Môn chuyên tế lễ, cúng bái, cầu khẩn van xin v.v..  Biến đạo Phật thành thần giáo. Biến tín đồ mất sức
 tự chủ, luôn luôn sống trong tha  lực, tựa
nương vào thần quyền, do thế mới sản xuất ra Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn.
4- Thiền Tông là  pháp môn ngã chấp, lý  luận có logic,  dễ   lừa đảo giới trí thức, biến  Phật  giáo vô ngã thành  Phật  giáo hữu ngã trừu tượng, mơ hồ, biến thiền sư thành giảng sư, luận sư  ngôn ngữ vọng ngữ v.v..
Sau buổi họp  đó các thầy trong Ban Tri Sự Tỉnh Hội báo cáo về Giáo Hội Trung Ương và thầy chúng tôi, tức là Hòa Thượng Thanh Từ. Chúng tôi  biết  rất rõ điều đó, nhưng  chúng tôi  không ngại,   là vì chúng tôi xác định: “Những  gì chúng tôi nói là  sự  thật, vì sự  thật thì còn mọi người để
 suy  ngẫm, chứ sự  thật mà dối gạt được ai
sao?”.
Từ khi ra thất đến nay   là 18  năm chúng tôi chẳng hề nói động ai hết, chỉ có so sánh thiền  của kinh sách phát triển và Tứ thánh định  của đạo Phật, cùng vạch trần những sự phá giới, phạm giới của Tăng Ni và cư sĩ Phật tử để  cho thầy chúng tôi biết. Thầy chúng tôi  là Hòa Thượng Thanh Từ.
Bản chất chúng tôi hay  nói thẳng, nói thật, nói đúng, nói không sợ mất lòng ai hết,  chúng tôi  không nói xấu, không bài bác ai, không chỉ trích pháp môn của người nào cả. Nhưng pháp môn nào mượn danh Phật giáo, làm điều mờ ám, lường gạt tín đồ, thì chúng tôi  sẵn sàng vạch mặt pháp môn đó,

khi  có    người  hỏi  đến  chúng  tôi,  còn  nếu
không ai hỏi thì thôi.
Bốn tông phái này đã  truyền thừa ở đất  nước  Việt Nam, một thời gian rất dài trên hai ngàn năm, nó đã trở  thành một truyền thống   mê tín lâu đời.  Với thời gian dài đó, cũng đủ để xác chứng  các giáo pháp này đã đem   lại cho tín đồ  Phật giáo lợi ích được  những gì? Hay chỉ  là đem  lại sự   mê tín,  ngu si, lạc hậu cho  một dân tộc. Chắc các bạn   đã  rõ  hơn ai hết.  Và chúng tôi xin lặp lại:
1- Tịnh  Độ Tông, đưa ông thầy đi đến chỗ làm thầy cúng, thợ tụng.
2-  Mật  Tông,  đưa  ông thầy đi đến chỗ  làm thầy bùa, thầy ngải, thầy  phù thủy, thầy pháp, thầy bói, đồng,  bóng v.v..
 3- Pháp Hoa Tông, làm  mất sức tự
chủ của tín đồ, ngày đêm  chuyên tụng niệm cầu an, cầu siêu, đó là  những việc làm những điều phi đạo đức nhân quả.
4- Thiền Tông, đưa  ông thầy đi đến chỗ trở thành những nhà thuyết giảng tưởng (giảng sư), những nhà lý  luận tưởng (luận sư), biến thiền sư  thành người nói dối, chuyên môn tranh luận, cao thấp, hơn thua.
Nếu các bạn đừng hỏi chúng tôi điều gì, thì chẳng bao  giờ chúng tôi  nói ra cả, mặc dù chúng tôi rất muốn chấn hưng Phật giáo, làm cho  tốt lại   Phật giáo. Có nghĩa là  giúp cho tu  sĩ sống đúng đời sống phạm hạnh, giới luật nghiêm túc,  để cho tín đồ và những người không tôn  giáo không còn nghi ngờ Phật giáo nữa. Nhưng chúng tôi có nhận xét như sau:
 1- Thấy nhân duyên chưa đủ.
2- Chúng sanh chưa đủ phước thọ hưởng giáo pháp chân chánh của đức Phật nên còn nhiều kiến chấp tà  pháp ngoại đạo, chưa đủ trí thông minh  buông xuống, cuộc sống còn đầy dẫy nhân quả thiện ác.
3- Chúng tôi chưa   đủ duyên với chúng sanh, cần phải tạo duyên, nên phải mất rất nhiều thì giờ. Hiện giờ chúng tôi  dạy một điều mà tu sĩ tu tập một ngả, (tu tập không đúng theo  lời dạy của Phật, của chúng tôi, phần đông đều phạm  giới và phá giới, sống không đúng đời sống phạm hạnh độc cư.
4- Chúng sanh  hiện giờ, mang  đầy ắp những kiến  chấp của kinh  sách phát  triển, nên rất khó dạy, nhất là tu tập pháp môn ức



chế tâm  của kinh sách phát triển đã thành
thói quen, nên rất khó bỏ.

Vấn đạo là  nhân duyên, để  làm   sáng tỏ lại   Phật giáo, và cũng là tạo  duyên với chúng sanh. Trong những giờ phút chúng tôi chưa tịch thì  các bạn còn hỏi tới,  hỏi lui để tìm hiểu, một mai chúng tôi  đã mất đi rồi, thì các bạn có muốn tìm hiểu Phật giáo, thì chẳng còn ai trả lời cho  các bạn, dù họ có biết  họ cũng chẳng dám nói thật, chỉ vì họ quá khiếp đảm, trước một thế lực đông đảo của giáo pháp pháp triển Bà La Môn.
Ngày xưa, chỉ có một mình   đức Phật, Ngài dám đương đầu với lục sư ngoại đạo, ngày nay chỉ có kinh sách phát triển theo Bà La Môn mà chúng ta quá sợ hãi, rõ ràng chúng ta không bằng  đức   Phật,  chúng ta nhát gan   hơn  đức Phật nhiều. Tuy trả lời
 vấn đạo nhưng có chỗ chúng tôi chưa  vạch rõ
ra hết, mong   các bạn cảm thông. Chỉ vì chúng tôi  trả lời  theo   sự  thưa  hỏi của các bạn quá nhiều, không thể nói hết  một  lúc được, nên cũng tùy  câu hỏi của các bạn, chúng tôi sẽ vạch rõ hơn, để các bạn suy tư.
Đến tập thứ 10  thì   chúng tôi xin  tạm ngưng phần vấn đạo, để  soạn thảo giáo trình đạo đức nhân quả, tức là  đạo đức làm  người của Phật giáo, để  giúp cho tín đồ (cư sĩ và tu  sĩ) tu  tập rèn luyện sống đúng đạo đức làm  người, không làm  khổ mình, khổ người. Thể hiện một cuộc sống hạnh phúc, an  lạc cho mình, cho người trên hành tinh này. Đến đây, chúng tôi xin  các bạn cứ mạnh mẽ hỏi thẳng những điều mà các bạn đang  thao  thức về Phật giáo, chúng tôi  sẵn sàng giúp các bạn, nếu sự  trả lời  của chúng tôi  có điều gì
 không vui lòng, xin các bạn cảm thông cho.
Bởi vì  “lời thẳng mất lòng”.

Kính ghi
Trưởng Lão Thích Thông Lạc Tu Viện Chơn Như (Ngày 11- 2- 1999).

ĐỊNH NIM HƠI THỞ
Câu hỏi của Viên Hội
Hỏi: Kính thưa Thầy! Hiện nay con vẫn tiếp  tục theo  dõi  hơi  thở,  an  trú  hơi  thở  vào phần dưới bụng, gom tâm và hơi thở ở một chỗ, thì  hơi  thở  chậm  lại  và  các  tâm  hành  dừng hẳn, nếu tác ý muốn dừng hơi thở hoặc điều khiển hơi thở theo ý mình  nhanh  hay chậm tùy
ý.

Nhưng  con muốn  cho hơi  thở  lắng  sâu  và dừng  hẳn,  tác  ý  như  vậy  thì   hơi  thở  dừng, nhưng được một lúc hơi thở bị nén nên thở ra dồn  dập,  vậy  con phải  làm  sao để  hơi  thở  và tâm  hành  dừng  hẳn.  Mong  Thầy  chỉ  dạy  cho con để con nương đó mà tiến tu?
Đáp:  Sự  trình bày  tu  tập  về  hơi  thở  của con thì Thầy thấy con tu theo pháp môn tùy tức của Lục Diệu Pháp Môn, cha đẻ pháp môn này là  Trí  Khải  Đại  Sư. Con trụ  tâm  dưới  bụng  đó là cách trụ tâm của thiền Minh Sát Tuệ, cha đẻ ra pháp này là thiền sư Miến Điện Mahasi.
Công phu tu tập của con nương vào hơi thở tập  tỉnh  thức  theo  cách  tùy  tức  (tâm  yên lặng)



để  tác  ý  điều  khiển hơi  thở  chậm  nhẹ  và dừng để đi vào trạng thái tĩnh lặng sâu hơn.
Ở  đây, con là người tu không có thiện hữu tri thức  hướng  dẫn,  tự  tu  tập  nên  tập  hợp  lại hai pháp của hai nhà học giả tưởng giải. Một là nhà  học  giả  Trung  Quốc  (Trí Khải); hai  là nhà học  giả  Miến  Điện  (Mahasi).  Nếu  con tiếp  tục tu tập con sẽ là nạn nhân của những pháp môn
này.

1/ Ức  chế  tâm  để  tâm  hành  dừng  hẳn vọng tưởng.

2/ Ức  chế  hơi thở  để  thân  hành  dừng hẳn các cảm thọ.
3/ Để lắng sâu vào trạng thái tĩnh lặng để nhập định tưởng tức là Không vô biên xứ tưởng.
Muốn  cho hơi  thở  và  tâm  hành  dừng  hẳn thì con hãy tu tập “Tứ  Thánh  Định”  còn con tu theo  Lục  Diệu  Pháp  Môn  và  thiền  Minh  Sát Tuệ thì không bao giờ tịnh chỉ hơi thở được, tức là  tịnh chỉ thân hành. Tịnh chỉ  thân hành chỉ có Tứ thiền, ngoài Tứ thiền không có thiền nào tịnh chỉ đúng chánh định. Còn tịnh chỉ ý hành thì chỉ có Nhị thiền diệt tầm tứ mới đúng là chánh  định,  ngoài  Nhị  thiền  mà  tịnh  chỉ  ý
 hành là tà thiền tưởng định, thiền của kinh sách  phát  triển  tập  hợp  giáo  pháp  tà  kiến, tưởng kiến của ngoại đạo và những tư tưởng mê tín dị đoan dân gian.
Người  tu  thiền  thời  nay,  cái  sai  thứ  nhất là ức chế tâm để hết vọng tưởng. Nếu hết vọng tưởng có lợi ích gì cho quý vị đâu? Hết vọng tưởng có làm chủ sanh, già, bệnh, chết hay không?  Hết  vọng  tưởng  ngồi  như  con cóc  để làm gì? Khi xả ra thì tâm tham, sân, si còn đủ, danh lợi  không từ, ăn uống phi  thời  không bỏ, thấy  nữ  sắc  còn  đắm  chìm  say mê,  thì tu  như vậy có ích lợi gì? Có giải thoát cái gì?
Những  loại  thiền  ức  chế  tâm,  xưa  Đức Phật  đã  tu  tập  và  tìm trong  các  thiền  ức  chế tâm  đó  không  có  giải  thoát,  chỉ  là  một  sự  tu tập  làm  khổ  thân tâm  của mình  (thành bệnh), Ngài  phải  từ  bỏ. Và  đã  bao lần tập  nín  thở  để đạt được giải thoát nhưng cuối cùng Ngài chẳng tìm được  chỗ  nín  hơi  thở  có  sự  giải  thoát.  Bây giờ, quý Thầy lại bắt chước tu như vậy nữa hay
sao?

Mục đích của con đi tu là tìm sự giải thoát làm  chủ  bốn sự  đau khổ: Sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi hay đi tìm chỗ hơi thở để trụ tâm và dừng tâm hành?
 Nếu  đi  tìm  hơi  thở  dừng  và  tâm  hành dừng thì Thầy không có kinh nghiệm. Nhưng muốn tu tập làm chủ bốn sự đau khổ: sanh, già, bệnh,  chết  thì nên  trở  về  tu  tập  và  sống đúng pháp môn của đức Phật đã dạy:
1-  Giới luật phải nghiêm túc.

2-  Tu tập Tứ Chánh Cần.

3-  Tu  tập   chánh   niệm   tỉnh   giác   (thân hành niệm ngoại).
4-  Định Vô Lậu trên Tứ Niệm Xứ.

5-  Định Niệm  Hơi  Thở  (thân  hành  niệm nội).
Phải dẹp bỏ pháp môn Tùy Tức của Trí Khải Đại Sư và pháp môn Minh sát tuệ của Mahasi.
Bắt  đầu  tu  tập  các  loại  định  xả  tâm  ‚ly dục  ly ác  pháp‛,  không  được  tu  tập  các  pháp môn ức chế tâm và ức chế cơ.
Khi nào  xả  tâm  sạch,  ly dục,  ly ác  pháp, tâm không còn tham, sân, si phiền não nữa thì lúc bấy giờ tâm thanh thản, an lạc thường quay vào  thân,  không  có  phóng  dật  ra ngoài.  Khi tâm không phóng dật ra ngoài bây giờ tâm mới có  Tứ  Thần  Túc.  Dùng  Tứ  Thần  Túc  và  nương hơi thở khéo tác ý, nhưng phải nhớ không được
 ức  chế  tâm  để  hết  vọng  tưởng  mà  chỉ  nhẹ nhàng khéo tác ý ‚tịnh chỉ  tầm tứ nhập Nhị thiền‛. Chỗ này ức chế hết vọng tưởng là sai, chỉ hướng tâm nhẹ nhàng để tự nhiên Định Thần Túc tầm tứ diệt. Khi Định Thần Túc tầm tứ diệt xong là tâm nhập Nhị Thiền. Một lần nữa  chỗ  này  quý  vị  cần  lưu  ý:  khi tâm  có  Tứ Thần  Túc  thì nên  để  tự  nhiên  Định Thần  Túc điều khiển nhập định, chứ quý vị không được dụng công trong lúc Định Thần Túc điều khiển. Khi đã  nhập Nhị Thiền thì không còn thấy hơi thở có nghĩa là hơi thở còn thở, chứ ở đây chưa phải tịnh chỉ hơi thở, nhưng tự nó thở chậm và nhẹ  nhàng,  ta  không  nên  dụng  cơ điều  khiển nó.  Nếu  dụng  cơ điều  khiển  cho chậm  nhẹ  là sai, đó là dùng cơ ức chế tâm thì tâm nhập vào một  trạng  thái  không  tưởng,  từ  “không  tưởng” nơi  đây  Thiền  tông  cho  ‚Vô   tâm  còn  cách một  lớp  rào‛;  nơi  đây  tưởng  thức  hoạt  động sinh ra 18 loại hỷ tưởng, giống như người trong giấc  mộng.  Sau khi thọ  18  loại  hỷ  tưởng  thì vượt  ra không  tưởng  nhập  vào  thức  vô  biên  xứ tưởng mà các Tổ thiền tông cho thức vô biên xứ là   cái   biết   phủ   trùm   vạn   hữu   (Phật   tánh). Thiền Tông tu tập đến đây là hết biết đường tu tập nữa (Phản bổn hoàn nguyên).
 Muốn nhập  Tam Thiền ta phải  nương vào hơi  thở  khéo  tác  ý  nhẹ  nhàng  tịnh  chỉ  các trạng thái tưởng do Định Như Ý Túc điều khiển để  tâm  ly các  trạng thái  hỷ  tưởng, có  nghĩa là không còn một trạng thái hỷ tưởng nào cả. Nói tóm  lại  là  phải  ly sạch  18 loại  tưởng  cho thật sạch.  Lúc  bấy  giờ  mới  nhập  Tam  Thiền  dễ dàng, không có khó khăn, không có mệt nhọc.
Muốn nhập Tứ Thiền phải xuất khỏi trạng thái  Tam Thiền nương vào  hơi  thở, khéo tác  ý tịnh chỉ thọ, âm thanh và các hành trong thân, rồi  sau đó  mới  hướng tâm  tịnh chỉ hơi  thở, tức là thân hành nội dừng hẳn, nhập Tứ Thiền.
Khi nhập  Tứ  Thiền  xong  là  lúc  bấy  giờ tâm định trên thân, thân định trên tâm liền hướng tâm, tức là dẫn tâm đến Tam Minh. Khi Tam Minh đã  viên mãn thì ta đã làm chủ sanh tử  và  chấm  dứt  luân  hồi,  không  còn  tái  sanh
nữa.

Tu  thiền  định  ức  chế  tâm  chỉ  một  thời gian tâm  sẽ  bộc  phát  tham, sân, si, mạn, nghi rất mạnh. Ức chế tâm dễ sanh chiêm bao.
Ức  chế  thân  dễ  sanh rối  loạn  cơ thể,  rối loạn thần kinh, có thể sanh nhiều bệnh tật khó trị.
 Ức chế tâm, lắng sâu vào các trạng thái tĩnh lặng, dễ rơi vào các trạng thái định tưởng (tà định).
Đó là những loại định rất nguy hiểm cho người  tu  không  có  thiện  hữu  tri thức  hướng
dẫn.

Về  Định Niệm  Hơi  Thở,  thì phải  tu  đúng như trong kinh Nguyên Thủy mà đức Phật đã dạy: ‚Định Niệm Hơi Thở không phải ‚Sổ Tức   Quán‛   không   phải   ‚Lục   Diệu   Pháp Môn‛. Không nên tu theo các pháp hơi thở do các Tổ biên soạn và ba hơi thở của thiền Yoga.
Pháp  Định  Niệm  Hơi  Thở  của  Phật  là pháp  xả  tâm:  ‚Quán  ly tham tôi  biết  tôi  hít vô.  Quán  ly tham tôi  biết  tôi  thở  ra‛, đó  là pháp môn hơi thở xả tâm, đừng lầm lạc, phải cảnh  giác  các  pháp  môn  hơi  thở  của  tà  giáo ngoại  đạo  mà  các  Tổ  đã   bị  ảnh  hưởng  quá nặng, do các Tổ bị ảnh hưởng giáo pháp của ngoại đạo, nên dần dần giáo pháp hơi thở của đức  Phật  bị  che  khuất  bởi  chiếc  áo  chắp  vá kiến giải của ngoại đạo kinh sách phát triển, đến độ người ta không còn biết đến giáo pháp của đức Phật là gì nữa.



Nên  lưu  ý:  ‚Tịnh   chỉ  hơi thở‛   là  một điều quan trọng, vì hơi thở là mạng sống của chúng ta. Nếu hơi thở dừng thì mạng sống này không  còn.  Cho  nên,  con  đường  tu  theo  đạo Phật làm chủ được sự sống chết, tức là làm chủ được  hơi  thở. Dừng hoặc phục hồi  được  hơi  thở là  một  sự  điều  khiển  phải  có  một  đạo  lực  do tâm  ly dục,  ly ác  pháp;  phải  có  một  cuộc  sống đúng giới hạnh, không hề vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào, cũng không nên ăn uống, ngủ nghỉ phi thời; cũng không nên phá hạnh độc cư vì  phá  hạnh  độc  cư tâm  sẽ  phóng  dật  mà  tâm phóng  dật  thì không  bao giờ  xả  tâm  sạch.  Xả tâm  không  sạch  thì ngũ  dục  lạc  phát  triển mạnh thì giới ăn, ngủ và độc cư sẽ vi phạm, và vi phạm  thì con đường  tu  không  bao giờ  tới
đích.

Vì  thế,  xưa đức  Phật  nhắm  vào  ngũ  dục lạc   dạy:  ‚Thừa   tự   pháp,   chứ   không   nên thừa  tự  thực  phẩm‛,  tức  là  đức  Phật  muốn dạy chúng ta không nên tham ăn, tham uống. Cho  nên,  ăn  uống  phải  đúng  pháp  thì sự  tu hành mới làm chủ được hơi thở.
Muốn tịnh chỉ hơi thở mà còn ăn uống phi thời,  tâm  còn  dục  và  ác  pháp  thì tịnh  chỉ  hơi thở sẽ đi vào cõi chết, nếu luyện tập tưởng (thở
 bằng  lỗ  chân  lông,  thở  bằng  rốn  thì  không chết) nhưng đó là những pháp không làm chủ được sự sống chết.
Vì tâm còn dục nên thích ăn, uống, ngủ, nghỉ, danh lợi, tiền tài, vật chất, sắc đẹp và ác pháp  (tham, sân, si, mạn, nghi)  thì hành động nội  của  cơ thể  còn  hoạt  động  rất  mạnh  nên lượng  oxy  đòi  hỏi  phải  được  đầy  đủ.  Con  đã dùng pháp hướng tâm và điều khiển hơi thở để tịnh  chỉ  nó,  nhưng  hơi  thở  chỉ  tịnh  chỉ  được một  lúc  mà  không  kéo  dài  ra và  không  dừng hẳn  được,  đó  là  chứng  tỏ  thân  tâm  con chưa thanh  tịnh  (chưa ly dục,  ly ác  pháp  sạch),  cơ thể còn hoạt động như cơ thể người phàm phu. Vì  vậy,  khi hơi  thở  bị  nén,  cơ thể  muốn  bảo toàn sự sống, nên phản ứng một cách rất tự nhiên, hơi thở ra vô dồn dập để đủ khí  oxy trở
lại.
Ở   Quy Nhơn,  có  một  bác  sĩ  tu  hơi  thở  và tịnh  chỉ  hơi  thở  bằng  cách  cố  nín  thở  để  kéo dài  thời gian ra và ông đã  chết  một cách đáng thương.  Giải  thoát  đâu  không  thấy  mà  chết một cách oan uổng. May mắn con viết thư thưa hỏi, nếu không hỏi kịp thời:
1- Cơ thể sanh bệnh, đứt mạch máu mao phế quản, khạc ra máu như Minh Tông.
 2-  Chết một cách thê thảm như ông bác sĩ ở Quy Nhơn.
Trong kinh sách Nguyên Thủy gọi Bốn Thiền là  ‚Tứ  Thánh  Định‛, tức  là thiền định của bậc  Thánh. Chỉ  có  bốn thiền này mới tịnh chỉ  được  hơi  thở  nhưng  phải  sống  và  tu  tập đúng  theo  đường  lối  Giới,  Định,  Tuệ,  có  nghĩa
là:

1-   Sống  như Thánh  giới  (Thánh  giới  uẩn tức là giới luật phạm hạnh đầy đủ).

2-        Tu tập rèn luyện pháp hướng tâm ‚Tứ
Chánh Cần‛, tức là ngăn ác và diệt ác pháp.

Các con chỉ biết ngồi thiền ức chế tâm cho hết  vọng  tưởng  mà  không  thấy  ‚Tứ   Chánh Cần‛  là  ‚Định  Tư Cụ”  của  đạo  Phật  để  nhập các loại thiền và các loại định.
Muốn nhập định, tịnh chỉ tâm hành và thân hành mà không tu tập ‚Tứ  Chánh  Cần‛ thì không làm sao tịnh chỉ được hơi thở.
Muốn nhập định làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà không tu ‚Tứ  Chánh  Cần‛  thì không làm sao làm chủ được?
Ngoài  pháp  môn  ‚Tứ  Chánh  Cần‛   mà tìm thiền định, thì thiền định đó là tà thiền, tà định của  ngoại  đạo,  của  kinh sách  phát  triển
 thì không  thể  làm  chủ  được  sanh,  già,  bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Thân tâm chưa thanh tịnh mà muốn nhập định thì định đó  là  định giết  người  chưa chôn. Thiền định thời nay tu mãi biến thành pháp dưỡng sinh, ngừa bệnh chẳng có ích lợi gì mà còn phí sức vô ích.
Muốn tu hành làm chủ sanh, già, bệnh, chết  và  chấm  dứt  luân  hồi  thì con hãy  nghiên cứu  lại  kinh sách Nguyên Thủy, cách sống như thế nào? cách tu tập như thế nào?
Pháp nào tu trước, pháp nào tu sau. Khi thông suốt, chừng đó mới bắt đầu thực hành tu tập. Nhưng  con nên lưu ý  ‚Giới  Luật‛  là pháp môn đầu tiên của ‚Tam Vô  Lậu  Học‛, phải áp dụng  sống  cho đúng  giới  luật  thì con đường  tu của con mới được an ổn và đúng chánh pháp.



TƯỞNG ĐỊNH
 Câu hỏi của Viên Hội
 Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Có  một  lần  con
chứng  nghiệm  một  trạng  thái  toàn  thân  như mất  hẳn,  mình  như  hòa  trong tất  cả,  lúc  đó một  tiếng  thằn  lằn  bên  vách  tường  kêu,  con cảm  thấy  như  tiếng  thằn  lằn  này  từ  trong tim con kêu, chứ không phải bên ngoài nữa, tiếng thằn lằn và mình  là một, như hòa nhập không hai. Trạng thái này rất an lạc mà con chưa bao giờ  gặp,  lúc  đó  con tác  ý  để  duy  trì trạng thái đó,  thì  hơi  thở  và  tâm  hành  trở  lại  trạng  thái cũ.  Đây  là  trạng  thái  gì? và  làm  sao an  trú trong  trạng  thái  này,  xin  Thầy  chỉ  dạy  giải thích  chỉ  cho  con  rõ  về  phương  pháp  chỉ  và quán của hơi thở?
Đáp:  Đây  là  trạng  thái  ‚Thức  Vô  Biên Xứ  Định‛  một  trạng  thái  định tưởng  của  bốn loại định Vô Sắc.
Vị  Tổ  sư viết  và  soạn  thảo  kinh Duy Ma Cật  gọi  đó  là  pháp  môn  ‚Bất  Nhị‛.  Khi   đã nhập  vào  trạng  thái  định  bất  nhị  này  thì mới có cảm nhận như vậy. Thiền Đông Độ do các vị
 Tổ  sư thiền  tu  tập  đều  nhập  vào  được  trạng thái định này nên có một cảm giác mình  là vạn hữu, vạn hữu là mình,  từ đó các Tổ dùng những danh từ rất kêu, gọi nó là ‚phản bổn hoàn nguyên, phủ trùm vạn hữu; pháp môn bất nhị;  dễ  dễ  trên  đầu  trăm  cỏ  ý  Tổ  sư; bản thể  vạn  hữu  v.v..‛, đó  là  những  danh  từ  chỉ cho trạng thái  ‚Thức  Vô  Biên  Xứ  tưởng‛  mà các  Tổ  đã   lầm  tưởng  đó  là  Phật  tánh.  Vì  là định tưởng nên có một trạng thái an lạc xuất hiện, đó là dục tưởng hỷ lạc.
Bây  giờ  vô  tình con ức  chế  tâm  hết  vọng tưởng  vượt  qua Không  Vô  Biên  Xứ.  Con đã  rơi vào  Thức  Vô  Biên  Xứ.  Vì  vô  tình rơi  vào  nên con chẳng biết  cách nhập  vào.  Con muốn nhập vào  trạng thái  đó con hãy nghiên cứu bài kinh Tiểu  Không  trong  kinh Trung  Bộ  tập  3 trang
291 thì con sẽ biết cách vào.

Bốn loại định vô sắc tưởng rất dễ tu, phần đông  người  tu  thiền  thời  nay,  đều  rơi  vào  bốn loại định tưởng này mà hai loại định dễ rơi vào nhất  đó  là  ‚Không  Vô  Biên  Xứ  Tưởng‛  và
‚Thức Vô Biên Xứ Tưởng‛.

Nhập  vào  các  định  này,  các  Tổ  bị  che khuất lối đi, tưởng mình  đại ngộ hay triệt ngộ, từ  đó  xây  dựng  các  thế  giới  Niết  Bàn  có  bốn
 đức:  ‚thường,  lạc,  ngã,  tịnh‛ nhưng  thật  ra, đó là tưởng tri, chứ không phải liễu tri.
Con muốn rõ phương pháp chỉ quán về hơi thở nên đọc lại sách chỉ quán của ngài Trí  Khải Đại  Sư mà  Thượng  Tọa  Trí  Quang đã  dịch ra Việt ngữ vào năm 1965 - 1967 (lâu quá Thầy không nhớ kỹ).
Xưa,  Đức  Thế  Tôn  nhập  đến  Phi  Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ mà còn bỏ vì không ích lợi thiết thực cho đời sống con người, không giải thoát  khổ  đau của  kiếp  làm  người,  bây  giờ  con đi  tìm lại  nó  để  làm  gì?  Không  lẽ  con bỏ  dục lạc thế gian mà lại đi tìm thứ dục lạc hư ảo hão huyền (rất an lạc) của loại định này sao?
Tu tập theo Phật giáo mục đích là làm chủ thân tâm trước những đau khổ sanh, già, bệnh, chết của kiếp người, chứ đâu phải đi tìm cái tưởng lạc đó có lợi gì cho kiếp sống hiện tại của con đâu.  Bỏ  ô  này,  mắc  ô  khác,  có  nghĩa là  bỏ dục này tìm dục khác mà lại là dục tưởng thì có ích gì cho cuộc đời vô thường, đau khổ của con.
Con  không   nhớ   trong   Tứ   Thánh   Định Phật  dạy: nhập  Sơ Thiền  ‚ly dục  lạc,  ly  dục khổ, ly dục bất lạc bất khổ‛.
 Kế  tiếp  vào  Định  Tam  Thiền,  đức  Phật dạy:  ly hỷ  tưởng  cho sạch,  rồi  sau đó  mới  xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh, xả sạch không còn  gì để  xả  thì mới  nhập  Tứ  Thiền.  Bây  giờ con lại  đi tìm sự an lạc của định Thức Vô Biên Xứ  để  sống  với  nó  thì phỏng  chừng  có  ích  gì cho đời sống của con. Hãy dẹp bỏ mà đi về con đường  của  Phật.  Nếu  con có  tâm  tha  thiết  tìm cầu sự giải thoát quyết tâm nhiệt tình ly dục ly ác pháp bỏ sạch xuống, tâm chẳng còn tham, sân,  si  (ác  pháp)  thì  con  đường  thiền  định không  còn  khó  khăn. Muốn tịnh chỉ  tâm hành và  thân hành thì dễ dàng như trở  bàn tay, chỉ cần ra lệnh thì tịnh chỉ được ngay liền.
Nếu  tâm  ham  muốn  và  ác  pháp  còn  thì con  đường  thiền  định  tịnh  chỉ  tâm  hành  và thân hành là một điều vạn nan.
Chìa khóa mở  cửa thiền  định  là  giới  luật, nếu ai biết dùng giới luật thì mở cửa thiền định dễ dàng, làm chủ sanh tử không còn khó khăn.
Cửa  thiền  định  không  thể  mở  cho kẻ  phá giới  đi  vào.  Vì  thế,  tu  sĩ  Phật  giáo  thời  nay phạm giới, phá giới nên cánh cửa giải thoát của đạo  Phật  còn  đóng  chặt,  chờ  cho kẻ  nào  vượt qua cửa giới luật mới hé mở cho bước vào. Tu danh,  tu  lợi,  tu  chùa to, tháp  lớn,  tu  cấp bằng,
 tu  miệng,  tu  lưỡi,  v.v..  thì cửa  thiền  định giải thoát  của đạo  Phật  muôn đời  vẫn đóng kín  âm thầm và lặng lẽ, để chờ đón những người con Phật  chân  chánh,  sống  đúng  phạm  hạnh  và giới luật nghiêm túc.


THIỀN XÂ TÂM
Câu hỏi của Liễu Đức
Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Các  pháp  hành con tu  như  trong thư  con đã  gửi  cho Thầy  có đúng không? Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Các pháp này con tu đều đúng cả, nhưng  có  một điều  con nên quan tâm  và  lưu  ý, nếu tập sai một chút xíu, tức là sai ly hào cũng trở  thành  thiền  ức  chế  tâm  thì rơi  vào  thiền của ngoại đạo không làm chủ sự sống chết và luân hồi, ngay cả tâm tham, sân, si cũng không
hết.

Mục đích tu thiền của Phật là xả tâm, không có ức chế tâm. Con nên lưu ý những câu kết hợp ‚Quán ly tham tôi biết tôi đang thở
 ra. Quán ly sân tôi biết tôi đang  thở ra. Quán  ly  tham   tôi  biết  tôi  đang   thở   vô, quán   ly   sân   tôi   biết   tôi   đang  thở   vô‛,
‚Quán ly tham tôi biết tôi đi kinh hành. Quán  ly sân  tôi  biết  tôi  đi kinh hành‛.  Đó là cách thức tu thiền xả tâm.
Trong  giờ phút nào tâm được yên lặng thì nhớ  hướng  tâm  nhắc.  Muốn  biết  chắc  thiền định xả  tâm  này  của  Phật  thì con nên  đọc  lại kinh Nguyên Thủy Trung  Bộ Kinh, tập 3 trang
249 Phật dạy về Nhập Tức Xuất Tức, đầu tiên nhớ nhắc tâm:
1/ Vị  ấy  tập:  ‚Chánh  niệm,  vị  ấy  thở
vô; chánh niệm, vị ấy thở ra‛.

2/ Vị  ấy  tập:  ‚Thở  vô  dài,  vị  ấy  biết
‚tôi  thở  vô  dài‛.  Hay thở  ra dài,  vị  ấy  biết
‚tôi  thở  ra dài‛.  Hay thở  vô  ngắn,  vị  ấy biết  ‚tôi  thở  vô  ngắn‛.  Hay thở  ra ngắn,  vị ấy biết ‚tôi thở ra ngắn‛.
3/ Vị  ấy  tập:  ‚Cảm  giác  toàn  thân  tôi sẽ  thở  vô‛  vị  ấy  tập:  ‚Cảm  giác  toàn  thân tôi sẽ thở ra‛.
4/ Vị  ấy  tập:  ‚An tịnh   thân  hành  tôi sẽ  thở  vô‛.  Vị  ấy  tập:  ‚An tịnh   thân  hành tôi sẽ thở ra‛.
 5/ Vị  ấy  tập:  ‚Cảm  giác  hỷ  thọ  tôi  sẽ thở  vô‛,  vị  ấy  tập:  ‚Cảm  giác hỷ  thọ  tôi  sẽ thở ra‛.
6/ Vị ấy tập: ‚Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở  vô‛  vị  ấy  tập:  ‚Cảm  giác  lạc  thọ  tôi  sẽ thở ra‛.
7/ Vị  ấy  tập:  ‚Cảm  giác  tâm  hành  tôi sẽ  thở  vô‛.  Vị  ấy  tập:  ‚Cảm  giác  tâm  hành tôi sẽ thở ra‛.
8/ Vị ấy tập: ‚An tịnh  tâm hành tôi sẽ thở  vô‛.  Vị  ấy  tập:  ‚An tịnh   tâm  hành  tôi sẽ thở ra‛.
9/ Vị  ấy  tập:  ‚Cảm  giác  về  tâm  tôi  sẽ thở  vô‛,  vị  ấy  tập:  ‚Cảm  giác  về  tâm  tôi  sẽ thở ra‛.
10/Vị ấy tập: ‚Với tâm hân hoan tôi sẽ thở  vô‛.  Vị  ấy  tập:  ‚Với  tâm  hân  hoan tôi sẽ thở ra‛.
11/Vị ấy tập: ‚Với tâm định  tỉnh tôi sẽ thở  vô‛.  Vị  ấy  tập:  ‚Với  tâm  định  tỉnh  tôi sẽ thở ra‛.
12/Vị  ấy  tập:  ‚Với  tâm  giải  thoát  tôi sẽ  thở  vô‛.  Vị  ấy  tập:  ‚Với  tâm  giải  thoát tôi sẽ thở ra‛.
 13/Vị  ấy  tập:  ‚Quán  vô  thường  tôi  sẽ thở  vô‛.Vị  ấy  tập:  ‚Quán  vô  thường  tôi  sẽ thở ra‛.
14/Vị  ấy  tập:  ‚Quán  ly tham tôi sẽ  thở vô‛.  Vị  ấy  tập:  ‚Quán  ly tham tôi  sẽ  thở
ra‛.

15/Vị   ấy   tập:   ‚Quán   đoạn   diệt   tâm tham  tôi sẽ thở vô‛. Vị ấy tập: ‚Quán đoạn diệt tâm tham  tôi sẽ thở ra‛.
16/Vị  ấy  tập:  ‚Quán  từ  bỏ  tâm sân tôi sẽ  thở  vô‛.  Vị  ấy  tập:  ‚Quán  từ  bỏ  tâm sân tôi sẽ thở ra‛.
Đọc qua đoạn kinh Nhập Tức Xuất Tức, chúng  ta  thấy  rõ  cách  thức  tu  tập  Định Niệm Hơi Thở của Phật dạy xả tâm, chứ không có ức chế tâm, còn pháp Sổ Tức Quan và Lục Diệu Pháp Môn đều là pháp ức chế tâm.

Cho  nên  ‚Quán   ly  tham,  quán   đoạn diệt,  quán  ly  sân  v.v..‛.  Đó  là  các  vấn  đề chánh để xả tâm còn hơi thở là vấn đề phụ chỉ giúp cho tâm được tỉnh thức để xả tâm tham, sân, si, mạn, nghi cho rốt ráo.
Người  tu  Định  Niệm  Hơi  Thở  phải  biết chia  ra nhiều  giai  đoạn  tu  tập,  để  làm  cho Tứ Niệm Xứ được sung mãn.
 Từ biết hơi thở vô, hơi thở ra, đến an tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra, đó là tập chánh niệm tỉnh giác để chế ngự tham ưu ở đời. Đấy là giai đoạn một ‚tỉnh  giác  là  hàng  đầu‛  trên thân quán thân, thân hành nội, tức là hơi thở ra, vô.
Từ  cảm  giác  hỷ  thọ  đến  ‚an tịnh   tâm hành  tôi  sẽ  thở  ra‛. Đó  là  trên thọ  quán thọ để  giúp  cho sức  tỉnh giác  cao hơn luôn ở trong chánh niệm, khắc phục được thọ, mà khắc phục được  thọ  thì chế  ngự  được  tâm  tham  ưu ở  đời. Mà  các  cảm  thọ,  tức  là  hơi  thở  vô,  hơi  thở  ra, tức  là  tu  tập  xả  thọ  (thọ  lạc,  thọ  khổ,  thọ  bất lạc  bất  khổ).  Đây  là  giai  đoạn  hai  tu  tập  hơi thở xả tâm tham ưu khắc phục thọ.
Từ ‚cảm  giác  tâm  tôi sẽ  thở vô  đến  với tâm  giải  thoát  tôi  sẽ  thở  ra‛ đó  là  trên tâm quán  tâm  dùng  sức  tỉnh  giác  chánh  niệm  để chế ngự tham ưu ở đời.
Một người khéo tu tập hơi thở như vậy thì không thể thất niệm, không thể không có tỉnh giác. Đó là cách thức quán tâm trên tâm để xả tâm  tham,  sân,  si  (tham  ưu). Đây  là  giai  đoạn thứ  ba của người tu thiền đạo Phật  xả tâm. Từ
‚quán vô thường tôi sẽ thở vô đến quán từ bỏ  tôi  sẽ  thở  ra‛ đó  là  quán  pháp  trên  các pháp  để  xả  tâm  xa  lìa  các  pháp,  chế  ngự  và
 khắc  phục  tham  ưu ở  đời.  Do nhờ  tu  tập  như vậy,  mới  đoạn  trừ  tham  ưu với  trí tuệ  khéo nhìn  sự  vật  (các  pháp)  với  tâm  xả  ly.  Đây  là giai  đoạn  thứ  tư  tu  về  Định Niệm  Hơi  Thở  xả ly tâm  dục  và  ác  pháp  khiến  cho bốn  niệm  xứ được viên mãn.
Trong bốn loại định:

1/   Định Chánh  Niệm  Tỉnh  Giác,  tu  tập theo hành động của ngoại thân đều câu hữu với pháp  hướng  xả  tâm  như  lý  tác  ý   để  phá  hôn trầm thùy miên vô ký.
2/   Định Niệm Hơi Thở, tu tập theo hành động nội của thân cũng đều câu hữu với pháp hướng xả tâm như lý tác ý.
3/   Định Vô Lậu, quán xét tư duy cho thấu triệt  các  pháp  nội  và  ngoại,  rồi  dùng  pháp hướng xả tâm như lý tác ý.
4/   Định Sáng  Suốt,  là  một  loại  định vừa thư  giãn,  vừa  xả  tâm  bằng  pháp  hướng  thư
giãn.

Đều là bốn pháp định xả tâm (ly dục ly ác pháp). Con nên nhớ kỹ ‚thiền của Phật là thiền  xả  tâm‛.  Đọc  bài  kinh Nhập  Tức,  Xuất Tức chắc con đã rõ, không phải chỉ có Thầy dạy thiền  xả  tâm  mà  chính  đức  Phật  đã  dạy  như
 vậy. Thầy chỉ là người dạy lại lời của đức Phật mà thôi.
Còn  các  thiền  của  ngoại  đạo  đều  dạy  ức chế tâm, con hãy cố  gắng tu  cho đúng lời Phật dạy  thì kết  quả  ngay  liền  có  sự  giải  thoát  cụ thể giải thoát không phải tu nhiều đời nhiều kiếp.


CẬN TỬ NGHIỆP
Câu hỏi của Liễu Đức
Hỏi: Kính thưa Thầy! Con đọc cuốn “Sống Và Chết” của dịch giả Thích Quang Phú, giáo  sư Phật  học  trường  Quốc  học  Huế  nói  về cận tử nghiệp của người bệnh sắp chết qua đời:
1/ Khi người bệnh tắt hơi thở cuối cùng là lúc các  hành trong thân đang tan  rã, đau đớn, nếu  động  vào  thân  như  thay  quần  áo  v.v.. làm cho người đó đau đớn hơn, nên sanh lòng sân hận,  khiến  cho nghiệp  lực  người  đó  chuyển  từ từ  sang ác,  do đó  sẽ  bị  đọa  vào  sáu  nẻo  luân hồi (mặc dù người đó là tỳ kheo vẫn bị đọa).
 Đáp: Cuốn sách ‚Sống Và Chết‛ của dịch giả Thích Quang Phú dịch là cuốn tiểu luận cận tử nghiệp của kinh sách phát triển luận theo cận tử nghiệp của ngoại đạo (Bà La Môn) nên không  đúng  với  ý  nghĩa  của  đạo  Phật.  Kinh sách phát triển xây dựng cận tử nghiệp theo tưởng giải của tà giáo ngoại đạo, không đúng sự thật, chỉ có những người không biết thì tin, còn những   người   thông   suốt   kinh   sách   Nguyên Thủy thì không thể nào tin được.
Bài kinh Nhập Tức Xuất Tức trong kinh Trung  Bộ  tập  3 trang 249, đức  Phật  đã  dạy và xác  định rất  rõ  ràng:  ‚hơi thở  vô,  ra còn  là thân, thọ, tâm và pháp của chúng sanh còn; hơi  thở ra, vô dừng là thân, thọ, tâm, pháp của chúng sanh dừng‛. Người nhập Tứ Thiền hơi thở ngưng nghỉ mà thân, thọ, tâm, pháp không hoại diệt là nhờ sức thiền định. Người  bình  thường  không  nhập  được  Tứ  Thiền khi hơi  thở  ra vô  ngưng  nghỉ  thì thân,  thọ, tâm, pháp của người ấy cũng ngưng nghỉ.
Như  trong  kinh Phật  dạy:  Hành  đã  diệt thì lấy gì thân còn hoạt động, tâm thức đã mất thì lấy  gì còn  biết  đau, thọ  đã  diệt  thì lấy  gì mà đau, hơi thở tức là hành diệt, thọ diệt, tâm diệt  thì thân  lúc  bấy  giờ  như  cục  đá,  gốc  cây



còn biết gì đau nhức, giận hờn. Cho nên, kinh sách ‚Sống  Và  Chết‛  chỉ là tưởng giải của các nhà   học   giả   kinh  sách  phát   triển.   Giáo   sư Quang Phú là một nhà học giả giảng theo kinh sách  như vậy,  chứ  Ngài  cũng  không  biết  đúng, sai. Ngài  giống như một con chim  học  nói, xưa các  Tổ  nói  sao thì bây  giờ  Ngài  giảng  lại  như
vậy.

Khi hơi thở dừng thì các hành trong thân đều  dừng,  các  hành  trong  thân  đều  dừng  thì thọ và tâm thức cũng dừng, mà thọ và tâm thức dừng thì còn biết đau, biết nhức chỗ nào nữa đâu.  Như  vậy  là  một  kiếp  người  đã   hết  rồi, không còn nữa. Cho nên, kinh Sống Và Chết là loại kinh mê tín, loại kinh lừa đảo người, lừa đảo tín đồ.
Cận tử nghiệp chỉ là sự tưởng tượng của Tịnh Độ Tông để hộ niệm cho người sắp lâm chung, để giúp cho người sắp chết bình tỉnh giữ được niệm Phật Di Đà, niệm Phật A Di Đà, đó là một thiện niệm tốt nhất của pháp môn này.
Gốc   nghiệp   là   do  hằng   ngày   chúng   ta huân tập nhân ác hoặc thiện, tới giờ sắp chết muốn  cho toàn  thiện  thì không  thể  được.  Nếu hàng ngày huân điều thiện thì thói  quen thiện sẽ  thể  hiện  trước  giờ  lâm  chung cận  tử  nghiệp



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!