Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XƯ PHẬT TẬP 7 -7



chịu ảnh hưởng phát triển nên bố thí cúng dường  không  trí tuệ.  Hễ  thấy  ai  ăn  xin  hoặc thấy sư, thầy đi khất thực thì bố thí và cúng dường  mà  còn  gọi  là  bố  thí và  cúng  dường  Ba La  Mật,  có  nghĩa  là  cho  và  cúng  đường  mà không   biết   mình   cho  và   cúng   dường.   Cúng dường với  trí tuệ  Bát Nhã  như vậy nên một số người lừa đảo lợi dụng chiếc y áo của Phật giáo mà  làm  cho Phật  giáo  hư hoại  và  suy đồi. Vậy tội  ấy về  ai?  Có  phải  về  Giáo  Hội  chăng? Giáo Hội  cần  phải  thấy  bổn  phận  và  trách  nhiệm của mình  đối với Phật giáo và tín đồ.
Ở    các  xứ  Phật  giáo  Nam  Tông,  bọn  ăn mày mạo danh tu sĩ Phật giáo không thể lường gạt  ai  được  hết,  còn  ở  Việt  Nam  những  người mà  con  gặp  không  phải  là  ít. Họ  lường  gạt Phật  tử  bằng mọi  cách. Đó  là  lỗi  của Giáo  Hội thiếu tổ chức. Lỗi của Phật tử là không học giới luật và đạo đức của Phật giáo.
Hiện giờ Giáo Hội Phật Giáo cấm tu sĩ không cho khất thực, để nhờ cảnh sát truy bắt những kẻ gian manh  giả tu sĩ Phật giáo  đi  xin ăn.  Nhưng  bắt  tội  họ  là  tội  gì?  Tội  đi  xin  ư? Luật   pháp  Nhà   nước   không  có  luật   bắt   tội người đi xin, thì cảnh sát làm sao bắt họ được, cũng  không  có  pháp  luật  bắt  buộc  họ  không



được  quyền mặc  áo  tu  sĩ  Phật  giáo  được. Đó  là quyền của họ, nên cuối cùng vẫn có tu sĩ đi xin đô la, tiền bạc mà Giáo Hội cũng chẳng  làm gì được họ. Chỉ vì Giáo Hội theo kinh sách phát triển dạy Phật tử  cúng dường, bố thí theo kiểu Ba  la  mật  của  ngoại  đạo,  nên  từ  đó  vô  tình Phật tử đã nuôi dưỡng tà sư ngoại đạo làm cho Phật giáo suy đồi, khiến cho tu sĩ Phật giáo trở thành bọn người ăn xin khất cái.
Muốn cho Phật giáo càng ngày càng thêm tốt  đẹp,  thì lấy  giới  luật  khép  tu  sĩ  vào  khuôn khổ, tổ chức cư sĩ cúng dường đúng cách, không được cúng dường bừa bãi theo kiểu Ba La Mật của kinh sách phát triển.
Hiện giờ chỉ có Giáo Hội mới có đủ tư cách tổ  chức  lại  Phật  giáo,  lấy  giới  luật  làm  hàng rào   ngăn  chặn  bọn  đầu   cơ  buôn  Phật,  bán pháp. Lấy giới luật làm tiêu chuẩn đạo đức của người tu sĩ thì bọn tìm cơm ăn áo mặc, danh và lợi  thì chẳng  dám  bén  mảng  bước  vào  cửa  đạo Phật.
Dạy  cho  người  Phật  tử  thông  suốt   giới luật, nếu thầy nào vi phạm làm sai giới luật, cư sĩ được quyền chỉnh đốn và tố cáo cho Giáo Hội biết. Cũng như kẻ gian manh  mượn áo tỳ kheo đi  khất  thực  tiền  bạc,  hoặc  làm  điều  xảo  trá



nguy hại  đến  thanh  danh  Phật  giáo,  thì người Phật  tử  có  quyền  chỉnh  đốn  chỉ  vạch  cho họ biết, đừng giả danh tu sĩ Phật giáo làm điều lừa đảo  và sẽ gọi Công an bắt họ. Có như vậy, mới chỉnh  đốn  lại  Phật  giáo  tốt  đẹp.  Việc  làm  này là trách nhiệm của Giáo Hội và bổn phận của mỗi  người  cư sĩ  Phật  tử,  phải  làm  ngay từ  bây
giờ.

Phật  giáo  tốt  hay  xấu  là  do người  cư sĩ phải thông suốt giáo lý, giới luật và đức hạnh của đạo Phật, chứ đừng cấm không cho người Phật tử đọc và hiểu biết về giới luật của một vị tỳ  kheo  như  kinh sách  phát  triền.  Do  có  sự hiểu   biết   như  vậy  thì  mới   ngăn  chặn  được những  tà  sư ngoại  đạo  và  những  người  đi  tìm cơm ăn áo mặc, núp bóng và mượn danh nghĩa Phật  giáo  làm  danh,  làm  lợi  riêng  cho  cuộc sống cá nhân của mình.
Trách nhiệm và bổn phận của người đệ tử Phật, thì cần phải chỉnh đốn lại Phật giáo cho tốt  đẹp,  cho đúng  nghĩa  của  Phật  giáo.  Đừng nghe theo kinh sách phát triển và Bồ Tát Giới cấm các Phật tử không được nói sai, nói lỗi của các  vị  tỳ  kheo, ai  nói  sai,  nói  lỗi  của  các  vị  tỳ kheo sẽ bị đọa địa ngục.



Kinh sách này dạy như vậy, là  cốt  để  cho Phật giáo suy đồi, đó cũng là mục đích phá và diệt  Phật  giáo  tận gốc, đồng thời  để  bảo vệ  uy tín và  duy  trì những  thầy  tu  phá  giới,  phạm giới, tức là duy trì những tu sĩ Bà La Môn theo kinh sách phát triển.
Vậy  quý  Phật  tử  hãy  cảnh  giác  đừng  sợ hãi,  chỉ  vạch  thẳng  những  vị  tỳ  kheo làm  sai để xây dựng lại Phật giáo cho tốt. Và những kẻ gian  manh  đội  lốt  tu  sĩ  Phật  giáo,  như  Sư cô mà  con đã  gặp  trên  xe, hãy  báo  cho Công  an làm việc với họ. Có như vậy, họ mới không làm điều  xảo  trá,  nguy  hại  đến  thanh  danh  Phật giáo.  Người  Phật  tử  có  quyền  chỉnh  đốn,  chỉ vạch cho họ biết đừng giả danh tu sĩ Phật giáo làm điều lừa đảo. Chúng ta sẽ gọi Công an bắt họ.  Có  như  vậy  họ  mới  sợ  và  không  còn  lợi dụng Phật giáo nữa. Các con đừng có sợ tội nghiệp  cho những  người  lừa  đảo  gian  ác  này mà hãy thương cho đạo Phật. Những người này ra đường gặp  những người  Phật tử  chân chánh của đạo Phật, thì hãy lột mặt giả của họ xuống.
Nếu  quý  Phật  tử  thẳng  tay  khi thấy  một vị tỳ kheo Tăng hay Ni làm sai không đúng tư cách  giới  luật  của  Phật  giáo,  thì thẳng  tay  mà trừng  trị.  Có  như  vậy  Phật  giáo  mới  tốt  đẹp.



Còn nếu theo kinh sách phát triển và Bồ Tát Giới  thì ngàn  đời  Phật  giáo  sẽ  chìm  đắm  và mất  dần,  biến Phật  tử  thành  những  tín đồ  mê tín, lạc hậu, ngu si.
Quý Phật tử hãy mạnh dạn, cứ thẳng tay vạch  mặt,  có  tội  thì chúng  tôi  xin  chịu  thay cho. Quý  vị  làm  điều  tốt,  điều  phải  cho Phật giáo  thì quý  vị  có  tội  gì?  Ai bắt  tội?  Theo luật nhân quả quý Phật tử đừng sợ gì, đừng nhân nhượng những người gian manh xảo trá lường lận này đang làm hại Phật giáo khắp nơi.





GIÂI HÄN




Câu hỏi của Liễu Hương



Hỏi:  Kính thưa  Thầy,  ở  khu  vực  con có
một gia đình,  không hiểu  đi xem ở  đâu  có  ông thầy bảo: tháng năm bị một cái hạn, phải nằm bệnh  viện  thập  tử  nhất  sinh.   Đến  tháng  11 cũng bị  sao hạn như  vậy  nữa. Gia đình  này  sợ quá  mời  thầy  ấy  đến  cúng  sao giải  hạn.  Thưa Thầy như thế có giải hạn được không?



Cũng  ở  khu  vực  con, có  gia đình  đó  nghe được  như  vậy  rất  ân  hận  là  vì  bố  chị  ta ốm nặng phải nằm bệnh viện, mẹ chị không chịu mời  thầy  cúng  sao giải  hạn,  nên  bố  chị  phải nằm bệnh viện khổ sở. Xin Thầy vui lòng giải tỏa cho chúng con những điều thắc mắc trên đây, chúng con xin được tri ân công đức.
Đáp: Như con đã biết: luật nhân quả, ai làm  ác  thì phải  thọ  lấy  quả  khổ,  ai  làm  thiện thì sẽ hưởng phước báo. Không thể có Thánh thần,  chư Phật,  chư Bồ  Tát  hoặc  sao hạn  nào cứu khổ hoặc giải hạn cho các con được.
Như trong sách ngoại đạo dạy người nào gặp sao La Hầu, Kế Đô, Thái Bạch v.v.. Vào tháng giêng, tháng ba, tháng bảy, tháng chín, tháng năm, tháng mười một thì sẽ gặp tai nạn hoặc bệnh tật thập tử nhất sinh.
Loại  kinh  sách  này  là  loại  kinh sách  phi đạo  đức,  dạy  người  làm  điều  mê  tín lạc  hậu. Làm sao cúng bái, sao hạn mà giải hạn tai ách được?  Nếu  giải  hạn  tai  ách  được  thì thế  gian này còn gì là công bằng công lý?  Kẻ làm ác  cứ việc cầu cúng nhiều thì tiêu tai giải hạn không còn khổ đau nữa, và họ tha hồ làm ác, giết hại người  vô  tội  được  sao?  Một  người  bị  bệnh  tật khổ đau hoặc tai nạn, đâu phải ngẫu nhiên mà



có, chính do hành động bất thiện làm khổ kẻ khác, loài vật khác mà phải trả quả. Do hành động làm ác của mình,  thời tiết nhân duyên đủ thì phải  thọ  quả  khổ,  chứ  đâu  phải  có  ai  làm cho họ khổ mà phải cầu cạnh kẻ khác giải hạn, giải  khổ  cho. Những  loại  kinh  sách  mê  tín do những  kẻ  gian  xảo  viết  ra, lừa đảo  kẻ  khác  để làm tiền một cách bất chính. Người hiểu luật nhân quả thì những ông thầy cúng sao giải hạn không lừa đảo được. Ngược lại, không hiểu luật nhân  quả  dễ  bị  kẻ  khác  lừa  đảo  bằng  nhiều hình  thức mê tín khác nhau.
Quý Phật tử là đệ tử của Phật phải sáng suốt,  đừng  để  những  tà  sư ngoại  đạo  đội  lốt  tu sĩ Phật giáo làm mất uy tín Phật giáo, hãy chỉ thẳng cho mọi người biết không ai giải hạn tiêu tai,  tiêu  nạn  mà  chính  tự  mình  giải  nó,  nghĩa là mình  đừng làm khổ mình,  khổ người và khổ chúng sanh khác thì chẳng có tai nạn gì xảy ra thì cần gì phải giải hạn.
Quý  Phật  tử  hãy  tu  tập  tâm  bất  động trước  các  pháp,  tâm  bất  động  trước  các  pháp thì không  ai  lừa  đảo  quý  vị  được  và  quý  vị  sẽ không  còn  bị  ảnh  hưởng  mê  tín của  những  tà sư ngoại đạo bịa ra sao hạn.



Muốn tiêu tai giải hạn thì quý Phật tử hãy nghe  đức  Phật  dạy:  ‚Các  pháp  ác  chớ  làm, nên  làm  các   pháp   thiện‛.  Nếu  người  nào nghe  lời  Phật  dạy như  vậy  mà  sống  thì người ấy sẽ  tiêu  tai  giải  hạn tất  cả, cuộc  sống không còn đau khổ nữa.





BÀ LA MÔN

Câu hỏi của Liễu Hương


Hỏi: Kính thưa Thầy, ở miền Bắc chúng con có một số cư sĩ chuyên làm nghề thầy cúng, khi  nhà  nào  có  vận  hạn  xấu  mời  các  cư sĩ  đó đến  tụng kinh,  các  cư sĩ  đó  bảo  phải  thổi  xôi nấu chè để khi làm lễ phải thỉnh Phật. Thưa Thầy Phật cũng còn ăn chè xôi nữa là sao?
Đáp:  Tất  cả  những  người  cư sĩ  làm  nghề tụng  niệm  đều  là  những  vị  Bà  La  Môn  mang danh là Phật giáo cũa kinh sách phát triển. Sự thật  Phật  giáo  theo  kinh sách  phát  triển  hiện nay là Bà La Môn mượn danh Phật giáo, còn Phật giáo chánh gốc thì không giống Phật giáo Bà  La Môn  chút  nào.  Phật  giáo  Bà  La Môn  tự



đặt cho mình  cái tên là Đại Thừa có nghĩa là chiếc  xe  lớn  chở  được  nhiều  người,  còn  Phật giáo chính  gốc thì mang một cái tên Tiểu Thừa có nghĩa là xe chở một người, vì vậy hiện giờ người ta gọi nó là Phật giáo của kinh sách phát triển,  còn  Phật  Giáo  Nguyên  Thủy  chánh  gốc thì các  Bà  La Môn dìm xuống gọi  là  Phật giáo
Tiểu Thừa3.

Khi Phật Giáo của kinh sách phát triển truyền sang đến Trung Hoa, thì một lần nữa nó được thay tên đổi họ do các vị đạo sĩ Tiên Đạo (Lão Giáo), lại biến Phật Giáo Nguyên Thủy chính   gốc  xuống  hàng  thứ  ba  và  Phật  Giáo phát triển Bà La Môn xuống hàng thứ nhì,  còn Phật  Giáo  Tiên Đạo  (Lão  Giáo)  đứng hàng thứ nhất   gọi   là   Phật   giáo  Tối   Thượng  Thừa  có nghĩa là chiếc xe lớn nhất thiên hạ.
Cho nên, chúng ta phải hiểu Thiền Tông không  gì  khác  hơn  là  Lão  Giáo  và  trở  thành
Phật  Giáo  Tối  Thượng  Thừa  (Trung  Hoa),  Bà



3   Hòa  Thượng  Nhất  Hạnh,  trong  quyển  sách  mới  xuất bản, vào tháng 5 - 2001  “Sen  Nở  Trời Phương Ngoại”  đã nói rằng “Phật giáo Đại Thừa xuất hiện sau  thời kỳ Phật giáo  Bộ  Phái,  và  những  người  tự  nhận  là  Đại  Thừa  cho tất cả các bộ phái khác Thượng Tọa Bộ, phái Nguyên Thủy, v.v..  cùng một loại Tiểu Thừa” (trang 6).



La  Môn  trở  thành  Phật  Giáo  Đại  Thừa  (Ấn Độ), còn Phật Giáo Nguyên Thủy chánh gốc thì trở thành Phật Giáo Tiểu Thừa.
Các  vị  cư sĩ  tụng  niệm  là  những  thầy  Bà La Môn chứ không phải cư sĩ đệ tử Phật. Cư sĩ đệ  tử  của  Phật  không  có  tụng  niệm,  chỉ  lo  tu tập  và  trau  dồi  thân  tâm  để  có  một  đời  sống đạo  đức,  không  làm  khổ  mình,  khổ  người,  để đem lại  cho mình,  cho người  một  đời  sống  an lạc và hạnh phúc.
Hiện giờ các chùa tổ chức ban hộ niệm do cư sĩ  tụng  niệm  đều  là  ảnh  hưởng  của  Bà  La Môn mà  trong  kinh phát  triển  dạy tụng niệm, cúng bái, tế lễ, cúng vong, cúng linh, cúng sao, giải  hạn  v.v..  Tất  cả  những  sự  mê  tín đều  do kinh sách  phát  triển  tạo  ra, tức  là  của  Bà  La
Môn4.

Có lần, Thầy đến dự một đám tang của người  Trung   Quốc,  không  thấy  có  ông  Thầy chùa  nào  tụng  kinh cả,  chỉ  có  một  người  cư sĩ
mặc  áo  dài  kiểu  nhà  sư ngồi  rung chuông tụng



4  HT Thanh  Từ trong thời pháp tại quận Cam, vào tháng
11, năm 2000 đã nói kinh A Di Đà xuất hiện vào thế kỷ thứ  sáu sau Tây lịch  (xem bài Tùy Duyên Nhi Bất Biến, trang 20 tập san Đất Lành Bộ mới, số 3&4, năm 2001)



niệm. Như vậy Phật giáo Bà La Môn đã truyền qua Trung Quốc, Việt Nam, Đại Hàn và Nhật Bản. Nên hình thức cúng bái tụng niệm đều giống nhau.
Trong  kinh Nguyên  Thủy  có  nhắc  đến  sự cúng tế của đạo Bà La Môn. Mỗi lần đạo Bà La Môn cúng bái, tế lễ phải giết hằng trăm ngàn loại thú vật để cúng tế. Ở đây, các vị này đòi cúng chè  xôi  đó  là  quá  ít. Cúng tế  như vậy chỉ có  đấng  giáo  chủ  Bà  La  Môn  về  thọ  dụng  chứ đâu  phải  cúng  Phật.  Và  đạo  Phật  đâu  có  thọ dụng   thực   phẩm   thế   gian.   Kinh  Phật   dạy:
‚Thiền  duyệt  vi thực,  pháp  hỷ  sung mãn’’, chứng tỏ Phật dùng thiền để sống chứ không phải dùng thực phẩm để sống như chúng ta tưởng.





CÚNG KEM

Câu hỏi của Liễu Hương


Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Có  một  gia đình bệnh nhân ốm nặng nằm lâu ngày, trên giường bệnh, mời các cư sĩ đến làm lễ cúng bái, các cư



sĩ bày thêm phần mua hoa quả, bánh, kẹo để cúng tế kem (kem tức là cái miệng của bệnh nhân lúc còn trẻ vì hoàn cảnh gia đình  nghèo túng, không có tiền mua thức ăn đầy đủ nên thường nói dối là đã ăn rồi, ngày nay lúc sắp chết phải cúng kem là vậy).
Kính  thưa  Thầy, đây có phải là hình  thức mê tín dị đoan không?
Đáp:  Đúng  vậy,  đây  là  những  trò  mê  tín dị đoan của một số thầy phù thủy Bà La Môn.
Người ta đâu nghĩ rằng: thân tứ đại này là thân vô thường, liên tục thay đổi không lúc nào ngừng nghỉ. Do sự thay đổi mà thân nay bệnh, mai đau, chứ đâu phải do quỷ thần bắt hoặc giáng  họa  làm  cho bệnh  tật  khổ  đau, mà  cúng bái làm gì?
Thân tứ đại là thân từ nhân quả sinh ra, nên khi có thân này, khó có ai tránh khỏi bệnh tật khổ đau hoặc tai nạn v.v.. đâu. Vì nhân đời trước  chẳng  thiện,  thì đời  nay  phải  chịu  khổ đau. Đó là nhân quả trả vay, vay trả chứ đâu có ai quở trách gây cho ta đau khổ.
Những thầy phù thủy Bà La Môn lợi dụng sự  sợ  hãi  và  không  hiểu  biết  được  nhân  quả nên  bày  ra cúng  tế,  tụng  niệm,  cầu  khẩn,  van



xin. Đó là những người lừa đảo để kiếm tiền sống  bằng  cách  vô  lương  tâm.  Quý  Phật  tử  là đệ  tử  của  Phật  hãy  cảnh  giác  đừng  để  những thầy  cúng  lường  gạt,  đừng  nghe  theo.  Sống chết, bệnh tật, tai  nạn đều  do nhân quả, mình đã   gieo  nhân  nào  thì phải  gặt  quả  nấy,  chứ đừng có sợ hãi, đừng cầu cạnh, không ai phò hộ quý  vị  được  bằng  chính  quý  vị.  Cố  gắng  đừng làm khổ mình,  khổ người khác thì bệnh tật tai nạn  sẽ  lần  lần  chuyển  sạch,  chừng  đó  quý  vị làm chủ sự sống.
Những việc làm mê tín dị đoan này đạo Phật không bao giờ dạy, chỉ có kinh sách phát triển Bà La Môn giáo mới có mà thôi. Các Phật tử  cần  phải  đề  cao cảnh  giác,  đừng  để  họ  lợi dụng.





LÀM LỄ NHẬP NHÀ MỚI

Câu hỏi của Liễu Hương


Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Có  gia đình  mới cất nhà mới, ăn khánh thành một số bạn đạo hữu  đến  tụng kinh  làm  lễ  về  nhà  mới.  Người



chủ nhà lại mời thêm một ông thầy cúng, ông đến  bảo  mua  một  con ngựa  bằng  giấy  thật  to. Khi  tụng kinh   cầu  nguyện  xong, lấy  38 đồng tiền chinh  để cắt giải rồi ông thầy ấy cưỡi ngựa giấy phi quanh nhà.
Thưa Thầy, gia chủ này không phải là không  hiểu  đạo  pháp,  thường  đi đây  đi đó  để hoằng  dương  Phật  pháp,  thế  mà  làm  những việc  như  vậy  có  gọi  là  cuồng  tín  không  thưa Thầy.  Hay  tại  vì  lòng  tham  muốn  giàu  sang, phúc  lộc  hơn  nữa  mà  làm  việc  không  đúng chánh pháp?
Đáp:  Khi cất  được  ngôi  nhà  mới,  ăn  tân gia,  mời  bạn  bè  thân  hữu  đến  ăn  mừng  thì đúng, nhưng bày ra tụng niệm thì không đúng. Tại sao vậy? Tại vì đó là mê tín dị đoan. Trong Kinh Bát  Dương  (thuộc  kinh sách  phát  triển) có  dạy  điều  mê  tín này.  Dùng  38  đồng  tiền chinh và một con ngựa giấy cưỡi phi quanh nhà đó  là  kinh sách  của  ngoại  đạo  dạy  những  điều mê tín lạc hậu.
Vì lòng tin không đúng của con người nên bị  kẻ  khác  lừa  gạt  bằng  những  hình  thức  tà kiến. Tại sao chúng ta theo đạo Phật mà không biết  cái  nào  là  chánh  kiến,  cái  nào  là  tà  kiến, để  lầm  lạc  biến  Phật  giáo  thành  tà  kiến, biến



Phật  giáo  thành  một  thứ  Phật  Giáo  mê  tín dị đoan lạc hậu?
Từ  đây  về  sau quý  Phật  tử  là  đệ  tử  của Phật  niềm  tin chánh  kiến  phải  sâu,  không  để kẻ  khác  lừa  đảo  và  thẳng  tay  chỉ  mặt.  Những sự  mê  tín dị đoan chẳng đem lại ích lợi  gì cho mình  và cho cả gia đình  mình.  Phải nói đây là một trò bịp bợm, gạt người bằng những hình thức mê tín dị đoan một cách xảo thuật. Chỉ có những người không hiểu, tham danh, tham lợi mới  đi  thỉnh  bọn  tà  sư  ngoại  đạo  làm  điều chẳng ích lợi gì như trẻ con cưỡi ngựa chuối.





TRIU LINH TIẾP LINH

Câu hỏi của Liễu Hương


Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Lúc  lâm  chung, theo chúng  con nghĩ,  vong linh vẫn  còn  trong nhà,  khi  mời  thầy  cúng  đến  làm  lễ  phải  triệu vong tiếp  vong rồi  mới  tụng kinh.  Như  vậy  có đúng không thưa Thầy?
Đáp:  Theo đạo  Phật  khi một  người  chết, tức là thân tứ đại tan rã, mà thân tứ đại tan rã



thì thân  ngũ  uẩn  cũng  không  còn  sót  một  thứ gì, nghĩa là tất cả đều hoại diệt sạch, không có vong  linh và  thần  thức  nào  còn,  chỉ  còn  lại hành  động  thiện  ác,   tức   là   “nghiệp   lực”   và nghiệp lực tiếp tục tái sanh luân hồi.
Cho nên,  đối  với  đạo  Phật  không  có  triệu linh và  tiếp  linh, vì  có  linh hồn  đâu  mà  triệu và tiếp. Cái không có người ta tưởng ra cho có, thì đó là mù quáng vô minh không hiểu biết. Người Phật  tử  không nên nghe theo lời  dạy vô minh này.
Tất  cả  thế  giới  hữu  hình  có  con người  và vạn  vật  cỏ  cây,  đất  đá  núi  sông,  dưới  đôi  mắt của đức Phật chỉ là những cảnh huyễn giả, những cảnh tưởng tri không có thật. Cảnh hữu hình  còn  như vậy  thì cái  thế  giới  vô  hình  làm sao có  thật  được  mà  cầu  mà  cúng,  mà  triệu linh, tiếp linh. Phải không quý vị?
Nếu  thế  gian  này  có  thật  thì phải  có  một vật  hằng  còn.  Nhưng   dòng  lịch  sử  của  loài người chưa chứng minh có một vật gì hằng còn, tất cả đều hoại diệt theo thời gian năm tháng.
Cho nên, những việc làm của các nhà phát triển kinh sách Bà  La Môn là  việc làm mê  tín dị đoan, lừa đảo con người. Vậy chúng ta là những  Phật  tử  đệ  tử  của  Phật,  mà  lại  đi  nghe



và làm theo những lời dạy không đúng sự thật, thì chúng  ta  có  xứng  đáng  là  đệ  tử  của  Phật nữa  không?  Người  tín đồ  của  Phật  giáo  không nên  nghe  và  làm  theo  những  việc  mê  tín dị đoan, ngu si  để  bị  người  khác  lừa  đảo  thì quá dại dột.





NGHE PHÁP KHÔNG ĐƯỢC TRANG ĐIỂM

Câu hỏi của Liễu Hương


Hỏi:  Kính bạch  Thầy!  Xưa người  cư sĩ đến  nghe đức  Phật  thuyết  giảng  pháp  đều  cởi bỏ đồ trang sức, có phải vậy không thưa Thầy?
Đáp:  Đúng  vậy,  khi đức  Phật  còn  tại  thế mọi người đến nghe pháp, nhất là giới phụ nữ, đều cởi bỏ đồ trang sức rồi mới vào được nghe Phật thuyết pháp. Bà Visakha khi đến nghe Phật  thuyết  pháp,  bà  quên  cởi  bỏ  xâu  chuỗi ngọc ở nhà, khi vừa đến Tịnh Xá bà mới nhớ ra và cởi bỏ ở hốc cây. Sau khi về bà quên lấy, khi ấy  ông  A  Nan  gặp  và  đem về  trao  cho Phật. Phật  bảo  hãy  đem  trả  lại  cho bà  và  bà  cúng luôn xâu chuỗi ngọc cho Phật.



Thế  mới  biết  hồi  Phật  còn  tại  thế,  người cư  sĩ  đi  nghe  thuyết  pháp  cũng  không  được trang  điểm.  Còn  thời  nay  thì không  được  như vậy. Tỳ kheo Tăng và Ni còn sửa sang làm đẹp, ăn mặc bằng vải loại tối ưu, xấu không thèm mặc. So sánh trong thời đức Phật, thì Tăng Ni hiện giờ còn thua cư sĩ thời đó. Cho nên, Thập Giới Sa Di Phật cấm không cho trang điểm, ăn mặc  vải  thô  xấu,  không  nằm  giường  cao rộng
lớn.

Thế  mà  những  giới  luật  cơ bản  này  Tăng Ni đều  vi phạm  hết. Ngày nay, tu sĩ trở thành phú  Tăng,  chứ  không  còn  là  bần  Tăng,  xả  bỏ thế tục.
Người cư sĩ trong thời đức Phật đi nghe Pháp không được trang điểm. Còn thời nay, người phụ nữ đi nghe pháp không những trang điểm  mà  còn  ăn  mặc  hở  hang,  bày  da hở  thịt thật  là  đau  lòng.  Vậy  mà  đi  nghe  pháp  giải thoát  mà  làm  gì?  Đi  xem, nghe ca, nhạc,  kịch thì còn thú vị hơn nhiều.





LINH HỒN BÁO MNG

Câu hỏi của Liễu Hương


Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Trong thời  gian từ lúc mới chết đến bốn mươi chín ngày, người trong nhà  thường  hay  nằm  mộng  thấy  người chết về. Vậy có phải linh hồn người chết về báo mộng hay không?
Đáp: Trong  nhà có người mới chết, không những 49 ngày mà còn nói rằng, có thể đến khi mãn  tang  2  năm,  vẫn  còn  nằm  mộng  thấy người chết. Đó không phải linh hồn về báo mộng, mà chính tưởng ấm của người thân trong gia  đình   nằm  mộng  biến  hiện  ra  hình   ảnh người chết. Vì tình cảm thương nhớ người mất, nên  tưởng  ấm  xuất  hiện  giấc  mộng  để  khiến cho  người   thân   thỏa   tình  nhớ   thương,   chứ không có linh hồn nào cả.
Giấc mộng do tưởng thức hoạt động mà thành, nó  thể  hiện tình cảm, tâm  lý  và  sự  ước ao của  người  sống  đối  với  người  chết.  Người thân thương nhớ người quá cố thì nằm mơ thấy người chết về.



Ước mong nằm mộng thấy thành tựu điều ao ước như: trúng vé số. Giao cảm nằm mộng thấy sự  việc  hoặc  tai  nạn xảy đến đều  có đúng như thật. Đó là tưởng giao cảm, biến thành mộng báo  trước  (trực  giác  qua mộng), trực giác qua thân (máy mắt, hồi hộp tim đập), trực giác qua tâm (tâm lo lắng nghĩ ngợi, bứt rứt).
Nói về mộng, thì quý Phật tử đừng nghĩ rằng có linh hồn người chết. Mà hãy biết đó là tưởng thức tự tạo ra bối cảnh theo tâm lý, tình cảm  của  con người  rồi  nó  tự  hiện,  chủ  khách đều là nó cả.
Trong  thân  ngũ  uẩn  nó  là  tưởng  uẩn,  còn gọi về thức thì nó gọi là tưởng thức; còn gọi về dục thì nó gọi là tưởng dục; còn gọi về vô minh nó được gọi là vô minh tưởng; còn gọi về trí tuệ thì nó  gọi  là  tưởng  tuệ;  còn  gọi  về  tri kiến  thì nó gọi là tưởng kiến; còn gọi về tri thì nó gọi là tưởng  tri;  còn  gọi  về  năng  lực  thì nó  là  tưởng
lực.

Cho nên, tưởng uẩn nó có rất nhiều tên khác nhau, khi nó ở phận sự nào thì nó  có một cái  tên  rất  xứng  hợp. Vì thế, sự  hoạt  động  của nó cũng không lường.
Tóm  lại,  linh hồn  không  có,  chỉ  có  tưởng thức biến hiện ra, khiến cho mọi người chưa có



trí vô  hạn  lầm  chấp  ‚có   sự   sống   sau  khi chết‛.





TÄO ĐIỀU KIỆN  CHO NGƯỜI CHẾT

Câu hỏi của Liễu Hương


Hỏi: Kính thưa Thầy! Trong nhà có người  chết  mọi  người  đều  làm  điều  thiện,  cố hồi  hướng  cho người  chết  để  được  siêu  thoát. Thưa   Thầy   người   chết   có   được   siêu   thoát không?
Đáp: Theo luật nhân quả ai làm thiện sẽ hưởng được phước, chứ không thể người khác làm thiện mà mình được hưởng phước. Được phước  như  vậy  là  không  công  bằng,  vì  công bằng thì phải tự người đó làm điều thiện thì người  đó  hưởng.  Nên  đức  Phật  dạy:  “Các  con tự  thắp  đuốc  lên  mà  đi, ta  không  đi  thay cho các con được‛.
Lời dạy như vậy, tức là đứng trên đạo lý công bằng của nhân quả. Mọi người muốn thoát khổ   thì  phải   tự   mình   làm   điều   thiện,   chứ không  ai  làm  điều  thiện  giúp  cho mình  được.



Như  vậy  các  Phật  tử  đã   biết.  Nếu  mình  làm điều  ác  thì tâm  mình  phải  chịu  khổ,  còn người khác làm điều thiện mà tâm mình  hết khổ sao được.  Chỉ  có  tự  mình  làm  điều  thiện  thì tâm mình  mới hết khổ.
Cho nên,  có  làm  điều  thiện  để  hồi  hướng cho người  chết  thì người  chết  vẫn thọ  khổ, mà người   sống   làm   điều   thiện   thì  người   sống hưởng, còn người chết thì không hưởng gì cả.
Đức Phật dạy trên con đường giải thoát ấy phải  độc  bộ,  độc  trình, không  ai  đi  thế  cho ai được. Cũng như cha mẹ đau bệnh, đứa con có thương cha mẹ cách gì cũng không đau thế cho cha mẹ được. Ngược lại, cha mẹ cũng vậy dù thương  con cách  mấy  cũng  không  thay  thế  sự đau  khổ  của  con  được.  Đó  là  định  luật  công bằng của nhân quả, mà không ai có thể chuyển hóa nghiệp của kẻ khác được.
Chỉ có mình làm thiện và ước muốn cho những người  thân còn sống hay đã  chết, để  họ đủ  duyên  làm  thiện,  sống  thiện,  thì sự  ước muốn đó, có thể thực hiện được, dù là người kia đã chết nhiều năm.





CHÚC THỌ

Câu hỏi của Liễu Hương


Hỏi:  Kính bạch  Thầy!  Khi  cha mẹ  đến tuổi 80, 90 gọi là thượng thọ, ngày ấy con cháu đến  chúc  thọ  và  in  kinh  sách  thiện  biếu,  làm như thế có được không thưa Thầy?
Đáp: Được! Khi cha mẹ hưởng thọ từ 80 đến 90 hoặc 100 tuổi con cháu làm lễ chúc thọ, ngày ấy ấn tống kinh sách đạo đức nhân bản - nhân quả giúp cho mọi người làm thiện, không làm khổ mình, khổ người, đó là điều tốt nhất, đúng với chánh pháp của Phật nhất.
Mọi  người  được  đọc  kinh  sách  của  đạo Phật họ sẽ làm điều lành, điều lành ấy mang đến cho mọi người sự bình an, yên vui. Chính nhờ đạo đức nhân bản - nhân quả của đạo Phật được phổ biến, khiến cho mọi người an vui và hạnh  phúc.  Chúc  thọ  như  vậy  đã   tạo  phước lành cho cha mẹ già lớn tuổi được phước báo ít bệnh  tật  khổ  đau, chết  còn  biết  ngày  giờ  chết vì thiện nghiệp.
Ngày  ấy,  gia  đình  ấn  tống  kinh sách  đạo đức làm người, khiến cho mọi gia đình  được an



vui và hạnh phúc. Ngoài xã hội có trật tự và an lạc.  Việc  làm  này  đem  đến  hạnh  phúc  chung cho  mọi  nhà  và  xã  hội.  Đó  cũng  là  tạo  một truyền  thống  tốt  đẹp  cho  quê  hương  xứ  sở:
‚Chúc  thọ  làm  thiện  nghiệp,  tạo  đạo  đức cho mọi người‛.





SỐNG CHẲNG CHO ĂN,
CHẾT LÀM VĂN TẾ RUỒI

Câu hỏi của Liễu Hương


Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Lúc  cha mẹ  còn sống không phụng dưỡng, đến khi  cha mẹ chết làm  ma chay thật  to để  lấy  tiếng  ở  đời  thì  có nghĩa lý gì. Thưa Thầy phải không?
Đáp: Lúc cha mẹ còn sống phải lo phụng dưỡng,  để  đền  đáp  ơn  sinh  thành  dưỡng  dục. Lúc cha mẹ chết chỉ làm ma chay đơn giản, giữ gìn sự im lặng trong những ngày mất mẹ, mất cha, nhớ  đến  công  lao  mẹ  cha lo  làm  ăn  nuôi con lớn khôn nên người hữu dụng cho xã hội. Công ơn ấy rất lớn không thể lấy gì sánh được.



Cha mẹ chết mà làm ma chay linh đình là báo hiếu hình  thức, làm như thế là để che mắt thế  gian.  Đạo  Phật  dạy  chúng  ta  làm  những điều chân thật; sống thích trầm lặng đơn giản (thiểu  dục  tri túc);  chết  an  táng  đơn  giản  rồi đem  thiêu  đốt,  không  cần  quan  quách  sang trọng,  không  cần  nhạc  lễ,  cúng  bái  tụng niệm, chỉ cần giữ vệ sinh chung đừng để ô nhiễm môi trường  sống.  Vì  thân  tứ  đại  do đất,  nước,  gió, lửa  hợp  thành,  chết  thì đất,  nước,  gió,  lửa  trở về đất, nước, gió, lửa, có vật gì quí báu đâu mà để  5, 7 ngày, để lâu càng làm mất vệ sinh gây môi  trường  sống  ô  nhiễm,  khiến  mình   khổ, người khác khổ.
Đức Phật nhìn  thân tứ đại là một pháp vô thường, bất tịnh, không có gì đáng quý và lưu giữ,  nên  khi chết  đem thiêu  đốt  bỏ.  Đức  Phật và  các  đệ  tử  của  Ngài  khi chết  đều  đem thiêu đốt  bỏ.  Trong  khi ấy  các  nhà  Phật  giáo  phát triển   theo   giáo   pháp   phong   tục   Tây   Tạng, Trung  Quốc, Việt Nam, Nhật Bản khi chết tìm mọi cách để lại nhục thân. Đó là một hình  thức quý  trọng  thân,  luôn  luôn  lúc  nào  cũng  muốn giữ lại bằng mọi cách (ướp xác).
Có lần về thăm miền Bắc chúng tôi có đến thăm nhục thân của Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc



Trường,  đó  là  hai  bộ  xác  khô,  do định  tưởng hoặc do khéo ướp xác bằng một loại thuốc, uống vào trước khi chết.
Phật giáo Tây Tạng muốn giữ xác thân phải móc bỏ ruột gan rồi mới ướp xác chết bằng thuốc. Trung  Quốc và Việt Nam thì lại ướp xác bằng  chất  thuốc  đặc  biệt  hơn,  trước  khi chết chỉ cần uống thuốc vào là xác thân không hôi thối như trên đã nói.
Gần đây, Trung Quốc và Việt Nam khai quật  một  số  mồ  mả  cổ  và  đã   nhận  được  rất nhiều  nhục  thân,  toàn  là  cung nữ,  quan  chức vua chúa,  như  trong  báo  Nguyệt  San Giác  ngộ số  35 ‚Di ấn  Phật  giáo  trong nền  văn  hóa mộ   táng   cổ   ở    Nhật‛.  Bài  báo  viết:  ‚Năm
1963-1965 vô tình các nhà khảo cổ đã khai quật được xác ướp của vua Lê Dục Tông từ thời Lê Trịnh, xác còn nguyên như  vua còn đang an tịnh  giấc nồng‛.
“Huyện  Đông  Anh ngoại  thành  Hà  Nội  vô tình  nhà máy thuốc lá đào được hai cái xác của hai vũ nữ đời nhà Lê. Xác ướp của bà Phan Thị Nguyên  Chân  vợ  thượng  thư  trụ  quốc  Đặng Đình,  tướng  thời  Lê  Trịnh  ở  Phủ  Lý,  Hà  Nam vào năm 1968”.



‚Tại  Xóm  Củi  quận  8  thành  phố  Hồ Chí  Minh   đã   khai  quật   lăng   mộ   Bà Nguyễn thị..., thi thể còn nguyên vẹn, thậm chí còn rất đẹp, cơ bắp còn co duỗi được. Các  nhà  y học  đã  cấy  vào  cơ thể  bà  nhiều lít nước  thuốc  dẫn  dần  hết  dưới  da  thịt như  chúng ta tưởng ở  bệnh viện vậy‛.
Gần đây như xác ướp Bác Hồ vẫn giữ nguyên  vẹn  như  nằm  ngủ.  Chúng  tôi  đi  đến đám tang vị bí thư tỉnh Tây Ninh, xác được tẩn liệm trong một  quan tài bằng kính  từ khi chết đến giờ phút đi an táng, xác vẫn như người ngủ không  thấy  hôi  thối  sình  chương,  chảy  nước vàng như các đám tang của dân sự.
Qua những nhục thân của quan vua và các thiền  sư để  lại,  thì chúng  tôi  có  một  xác  định rõ ràng:
Nếu  một  vị  thiền  sư muốn  giữ  xác  thân của  mình   mà  không  cần  phải  ướp  thuốc  thì thiền  sư ấy  phải  nhập  Diệt  Thọ  Tưởng  Định. Từ  trường của diệt  thọ tưởng định bảo  vệ thân xác  không có  một  vật  gì xâm  thực  phá  hoại  cơ thể  được  nên  xương  cốt  và  da  thịt  luôn  luôn tươi   nhuận   như   người   còn   đang   sống   (chứ không  phải  như  bộ  xương khô  Vũ  Khắc  Minh và Vũ Khắc Trường).



Báo  chí  có  đăng  tin bên  Đài  Loan,  người ta đã  khai quật mộ của một vị sư được an táng trong một cái lu và cơ thể còn nguyên vẹn, không  phải  như  bộ  xương  khô  của  nhục  thân của  Vũ  Khắc  Minh  và  Vũ  Khắc  Tường  ở  Việt Nam.
Qua  báo  chí,  tin tức,  đài,  chúng  tôi  có nhận được nhiều tin tức về nhục thân. Đến khi xem  các  bộ  nhục  thân  này  chúng  tôi  chẳng thấy có từ trường thiền định nào chung quanh nhục thân ấy. Do đó, chúng tôi xác định những nhục  thân  này  được  để  lại  có  nhiều  cách  ướp xác, hoặc để khô giữ không cho nước gió xâm thực thì cơ thể vẫn còn nguyên vẹn.
Tóm lại, đức Phật nhìn  cơ thể con người là một hợp duyên không có thật, bất tịnh và uế trược, nên chết là thiêu đốt không có giữ lại, không  coi  nó  là  một  vật  quí  báu.  Vì  thế,  khi chết đức Phật và các đệ tử của Ngài đều thiêu đốt, không có vị nào để lại nhục thân. Huyền thoại Ngài Ca Diếp ôm y bát vào núi Kê Túc nhập  diệt  thọ  tưởng  định để  chờ  đức  Phật  Di Lặc ra đời trao y bát cho. Đó là một câu chuyện bịa đặt  của các  Tổ  sau này.  Đức  Phật  nhìn  các pháp trong thế gian này là vô thường nên Ngài đâu  có  cần  gì  mà  trao  y  bát,  chỉ  có  di  chúc:



‚Nên   lấy  giới  luật  và   giáo  pháp  của  Ta làm thầy mà tu hành‛.
Đời  người  khổ  vì luôn chấp  mọi  thứ:  chấp thân, chấp tâm, chấp pháp, chấp hình  thức, để mà  chịu  khổ  với  những  lầm  chấp  đó.  “Sống chẳng cho  ăn, chết làm văn tế ruồi”. Đó cũng là một lầm chấp về hình  thức của kinh sách phát triển.
Từ những sự việc đó, Phật giáo do kinh sách phát triển triển khai thêu dệt ca ngợi những  nhục  thân  và  xá  lợi,  do  tu  tập  thiền định mới có. Còn người không tu tập thì chẳng bao giờ có. Đó là các nhà Bà La Môn phát triển kinh  sách  lấy  vải  thưa  che  mắt  mọi  người. Nhưng  không  ngờ  ngày  nay,  có  những  đoàn khoa  học  khảo  cổ  về  sử  học  đã  lật  tẩy  sự  lừa đảo  này.  Những  ngôi  cổ  mộ  đã  được  khai  quật để  nghiên cứu, xác  chứng kinh sách phát  triển và  kinh  sách  thiền  tông  không  còn  là  một chứng  tích  thiền  định  mà  là  một  sự  lừa  đảo, gian xảo.
Cho nên, có những bài táng tụng ma chay do các  Tổ  biên  soạn  ra để  hành  nghề  mê  tín lừa đảo người, như ngày nay chúng ta đã thấy khắp nơi. Sự lừa đảo này chỉ gạt những người không  hiểu, chứ  những  người  đã  am hiểu  Phật



giáo  chân  chánh  thì không  thể  gạt  họ  được. Hầu  hết  lối  tụng  niệm  ma chay của  kinh sách phát triển, đều là lối lừa đảo che mắt thế gian. Chứù  chẳng  có  ích lợi  gì mà  còn  làm  cho người sống hao tổn tiền của và vất vả trong những ngày  ma chay, cúng  tế.  Cầu  siêu  mà  chẳng  có linh hồn  thì lấy  cái  gì mà  siêu?  Thấu  rõ  được như vậy mới thấy Phật giáo phát triển là một giáo pháp vay mượn của mọi tôn giáo và phong tục  mê   tín  của  con  người,   để  thỏa  mãn  sự không hiểu của những người đang sống trong tưởng tri.





CHIẾM  ĐT CHÙA

Câu hỏi của Liễu Hương


Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Ở    miền  Bắc  có một  vị  tu  sĩ  xuất  gia  từ  thuở  ấu  thơ.  Sau khi bổn sư qua phần, để lại một ngôi chùa cho vị tu sĩ này, vị tu sĩ này khép mình  trong khuôn khổ giới luật, qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và  Mỹ  vị  này  không  bao giờ  bỏ  chùa  suốt  50 năm  liên  tục. Đến  năm  1990,  mắt  lòa  chân



chậm vì lo tu hành nên không giao du với ai, thân cô thế yếu. Do đó, có một số cư sĩ nam và cư sĩ nữ đưa một vị sư khác đến cướp chùa của vị này.
Vì thân cô, thế yếu vị  này đành phải  giao chùa, nhưng  quá buồn khổ chẳng biết than  thở cùng  ai,  nên  thắt  cổ  tự  tử,  may  có  người  hay được  cứu  thoát. Thưa  Thầy  đạo  Phật ngày  nay làm như vậy có đúng không?
Đáp: Tu sĩ đạo Phật ngày nay là tu danh, tu  lợi,  tu  chùa  to  tháp  lớn,  tu  ăn  tu  ngủ,  tu  xe cộ,  tu  quần  áo,  tu  cấp  bằng  v.v..  Vì  thế,  cướp chùa   người   khác   là   chuyện   thường,   không những ở ngoài Bắc mà cả trong Nam cũng có.
Khi có chức vụ trong Giáo Hội, tức là có quyền  hành,  chùa  nào  có  kinh  tế  dễ  dàng,  và nơi thị tứ thuận tiện giao thông là giúp sư thầy tìm cách  đuổi  vị  trụ  trì ấy  đi.  Nếu  là  thân  cô thế  yếu  thì bị  đuổi  đi như thường, còn chỗ  nào có thế lực thì không dám.  Đó là hình  ảnh tu sĩ Phật giáo phát triển hiện giờ là vậy. Họ không phải là những người tu giải thoát, mà là những người mượn chiếc áo tôn giáo làm ăn lớn.
Đối với  Phật giáo  phát triển chuyện đó là chuyện  thường.  Một  vị  thầy  bổn  sư chết,  đám đệ  tử  tranh nhau  chùa  và  tranh Phật  tử.  Biết



bao nhiêu cảnh đau lòng đã xảy ra trong các chùa Phật giáo mà chúng ta không thể kể hết được.
Nhưng chúng ta phải biết đạo Phật chân chính  đã  mất, mất đi giới luật đạo đức,  thì đạo Phật  phát  triển  vô  giới  luật,  làm  những  điều sai trái biết bao nhiêu là cảnh đau lòng, lại còn chuyện  mê  tín, lừa  đảo,  cướp  giật  tranh giành lẫn  nhau  trong  các  chùa.  Nhìn  Phật  giáo  thời nay  qua  chiếc  áo  tu  sĩ,  trông  bệ  vệ  nghiêm trang mà bên trong thì chẳng có nghĩa gì là người tu cả, thật đau lòng. Phải không quý vị?





THẦY TỤNG

Câu hỏi của Liễu Hương


Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Các  cư sĩ  tại  gia ngày  nay học  hỏi  kinh  sách  phát  triển  dạy  về táng  tụng, cúng  bái  làm  Bồ  Tát  hạnh.  Các  vị ấy  tự  xem mình  tài  giỏi  hơn ai  hết, hơn cả  các thầy ở trong chùa nữa. Thưa Thầy như vậy có đúng không?



Đáp:  Kinh sách  phát  triển  chế  ra Bồ  Tát giới để cho hàng cư sĩ thọ giới Bồ Tát, làm việc từ  thiện,  giúp  mọi  người  cúng  bái  tế  lễ.  Đó  là một  hình  thức  của  Bà  La  Môn  giáo  ngày  xưa. Bà La Môn giáo chia làm ba giai đoạn:
1-   Bà  La  Môn  giáo  thiếu  niên,  thì phải học  tập  thông  suốt  kinh  điển  cúng  bái  tế  lễ, đây  là  giai  đoạn  học  tập  (giống  như  các  Thầy ứng phú của kinh sách phát triển).
2-   Bà  La  Môn  giáo  trung  niên,  chuyên cúng bái tế lễ, sống ăn mặc như người thế tục giống  như  cư sĩ  bây  giờ,  gọi  là  Phạm  chí. Đây là giai đoạn làm từ thiện (Bồ Tát Hạnh).
3-   Bà  La  Môn  Giáo  tuổi  già,  bỏ  nhà  cửa gia đình thân quyến xuất gia đi tu nhưng đầu không có cạo. Đây là giai đoạn tu hành của Bà La Môn giáo.
Người  cư sĩ  tụng  niệm,  cúng  tế,  làm  Bồ Tát Hạnh chính  là Bà La Môn tụng niệm. Cho nên hình  thức tổ chức của kinh sách phát triển là  của Bà La Môn giáo. Người cư sĩ hành nghề cúng  tế  tụng  niệm  là  một  Bà  La  Môn.  Họ không  phải  là  một  người  tu  mà  là  một  người bình  thường như thế tục, chỉ hơn người khác là có  đọc  kinh  sách  Vệ  Đà  và  các  nghi  thức  cúng tế. Thọ giới Bồ Tát rồi tự xưng mình  là Bồ Tát



(giới  Bồ  Tát  cũng  tự  họ  đặt  ra) nên  bản  chất ngã mạn tự kiêu của họ rất lớn. Những người này  chúng  ta  không  nên  trách,  vì họ  là  những cư sĩ Bà La Môn (khất thực).
Đáng  trách  là  trách  quý  vị  tỳ  kheo  đầu cạo,  mặc  pháp  y mà  đi làm  chuyện  mê  tín gạt người khác, chứ còn các vị cư sĩ Bà La Môn này họ  hành  nghề  của  họ, chứ  không  nên  trách  họ làm gì.





TỨ CHÚNG

Câu hỏi của Liễu Hương


Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Trong giới  luật của Phật nếu đệ tử của Phật giữ gìn giới luật nghiêm  chỉnh  và  khép  mình   trong  giới  luật triệt để thì  được xếp vào bốn hàng tứ chúng (cư sĩ  nam,  cư sĩ  nữ,  tỳ  kheo Tăng  và  tỳ  kheo Ni) như vậy có bằng phẩm Bát Bộ Thiên Long không?
Đáp:  Bốn  chúng  đệ  tử  của  Phật  là  Tăng, Ni, cư sĩ nam và cư sĩ nữ đều phải  giữ  gìn giới luật  nghiêm  chỉnh  mới  gọi  là  đệ  tử  Phật,  còn



Tăng, Ni và cư sĩ mà không giữ gìn giới luật nghiêm  chỉnh  thì gọi  là  đệ  tử  của  Bà  La  Môn giáo, tức là Phật giáo phát triển.
Bốn  chúng  đệ  tử  Phật  không  thể  gọi  là
Bát Bộ Thiên Long được.

Bát Bộ Thiên Long gồm có:

1-        Thiên Chúng gồm sáu cõi trời dục giới, bốn trời tứ thiền sắc giới, bốn trời vô sắc giới.
2-        Long   Chúng   (rồng)   gồm   có   tám   vị
Long Vương.

3-        Dạ Xoa là những quỷ thần.

4-        Càn  Thát  Bà  là  thần  âm  nhạc  ở  cõi trời Đế Thích.
5-        A Tu La  là  thần  quả  báo  (thích  đánh nhau).
6-        Ca Lâu La (Thần kim xí điểu)

7-        Khẩn  Na  La  là  giống  thần  đầu  người thường ca hát ở cõi trời Đế Thích.
8-        Ma Hầu La Già là thần mãng xà (thần

rắn).



Trong  kinh Nguyên Thủy đức Phật đã  xác

định  Bát   Bộ   Thiên   Long   là   tưởng   tri,   chớ không phải liễu tri. Vậy Bát Bộ chẳng phải là thế giới trời, người, quỷ, thần mà do tín ngưỡng



Ấn  Độ  đã   xây  dựng  từ  xưa  trước  khi có  đạo
Phật.





“CHẾT” LÀ MỘT SỰ NỐI TIẾP CÛA LUẬT NHÂN QUÂ VƠ THƯỜNG

Câu hỏi của Liễu Hương


Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Bên  kia  cõi  chết, tử thần đã cướp đi người bạn đời của con, hiện nay đời sống bỗng trở thành vô vị, cuộc đời đầy tẻ nhạt, chán chường, hạnh phúc đã mất đi không bao giờ trở lại. Người ấy đã đi xa đi mất, số phận duyên nợ chỉ có thế thôi. Nhưng  có lúc con cầu  mong cho họ  được  bình  an, nhưng  con lại thấy có cái gì không ổn đối với họ.
Thân tứ đại này do đất, nước, gió, lửa hợp lại rồi tan đi, đó là số phận phải không thưa Thầy? Xin  Thầy chỉ cho con biết.
Đáp:  Không  có  sự  sống  sau khi chết  mà chỉ có sự nối tiếp của luật nhân quả. Với trí hữu hạn của con người, không thể hiểu thấu được sự tiếp  nối  của  định luật  nhân  quả  luân  hồi,  nên



thấy có sanh và có tử. Sự thực sanh tử là một diễn biến của luật nhân quả, xác định sự vô thường của các pháp trong thế gian này.
Các pháp trong thế gian này đều chịu luật vô  thường,  sanh  diệt  của  nhân  quả.  Vì  thế, không có  pháp  nào  trong thế  gian này ra khỏi sự chi phối của luật nhân quả, nên các pháp thường sanh diệt theo chu kỳ tuần tự  của định luật và mỗi pháp phải chịu sự biến dịch.
Người bạn đời của con gặp nhau trong duyên  nhân  quả  để  trả  vay,  vay  trả.  Khi vay trả  xong thì phải theo  định luật nhân quả tiếp tục trả vay sự việc khác. Con không thấu hiểu điều đó, nên tạo thêm nhân quả thương nhớ, ràng rịt và trói buộc, không phải trói buộc với nhân quả của người đã mất mà trói buộc với nhân quả tương ưng.
Lòng thương nhớ của con sẽ gặp nhân quả tương  ưng  với  lòng  thương  nhớ  đó  để  mà  trả vay, vay trả. Còn nhân quả kia (người bạn đời của  con)  thì đã   trả  vay  xong  thì không  còn tương ưng với con nữa.
Cho nên,  con quá  không  hiểu  và  điên đảo đã  thương  nhớ  một  nhân  quả,  để  rồi  phải  gặt lấy một nhân quả khác đang trói buộc (kiết sử) để  kiếp  sống  đời  đời  chẳng  bao giờ  thoát  ra



khỏi biển khổ sanh tử luân hồi. Con muốn tu hành  giải  thoát  thì hãy  đoạn  dứt  sợi  dây  ái kiết sử này. Sợi dây ái kiết sử này là con đường tiếp tục sanh tử luân hồi đầy đau khổ mãi mãi.
Tình  cảm của con người là một sợi dây rất khó  bứt,  nếu  không  thấu  suốt  được  luật  nhân quả  thì không  bao  giờ  đoạn  sạch  được  “ái  kiết sử”. Người tu theo đạo Phật thấy ái kiết sử như là  thấy một  con rắn độc, nó  từng đem đến nọc độc  khổ  đau  cho  loài  người.  Con  là  một  con người đang bị nọc độc của ái kiết sử.
Một người vợ khóc chồng, một người chồng thương  vợ  là  ái  kiết  sử;  một  người  mẹ  thương con, một người con thương mẹ là ái kiết sử. Nói chung tất  cả  các  tình cảm  thương  yêu  nhau là ái kiết sử. Người nào đã  bi lụy vì tình cảm yêu thương ấy, trong đạo Phật  gọi là đã  bị nọc  độc rắn  nhân  quả  cắn.  Kẻ  nào  đoạn  dứt  được  nọc độc  này  là  kẻ  đó  làm  chủ  rắn  độc  nhân  quả. Nếu  không  làm  chủ  được  nhân  quả  thì đời  đời kiếp  kiếp  ta  sẽ  bị  nọc  độc  rắn  nhân  quả  làm cho ta sống trong cảnh khổ đau triền miên, bất tận, không những trong một đời mà nhiều đời nhiều kiếp.
Con cần phải thấu suốt luật nhân quả để không  còn  buồn  khổ  vô  ích.  Trong  luật  nhân



quả,  khi một  người  mất  đi  thì chỉ  còn  nghiệp lực của nhân quả tiếp tục tái sanh luân hồi, và người  bạn  đời  của  con  đâu  còn  cái  gì  gọi  là người bạn của con nữa. Thế nên, sự thương nhớ của con chỉ là  nhớ  lại  một  hình  bóng ảo  tưởng của con trong ký ức mà thôi.
Cũng  như  hiện  giờ  trong  kiếp  sống  này con có  bao giờ  nghĩ  đến  thương  người  bạn  đời trong kiếp quá khứ của mình  chăng? Chắc điều đó, không bao giờ có phải không con? Cũng như người bạn đời của con đã chết thì trong kiếp khác,  họ  đâu  có  còn  nhân  quả  để  mà  nhớ  đến con nữa. Trong  họ chỉ biết kiếp hiện tại của họ mà thôi. Cũng như con bây giờ cũng vậy, chỉ có không thông hiểu điên dại đi khóc nhân quả.
Nhân quả có nghĩa lý gì đâu? Nó chỉ là những hành động của con rắn độc ái kiết sử, nó đã   làm  khổ  loài  người  trên  hành  tinh này, khiến  cho nước  mắt  của  con người  còn  nhiều hơn nước biển.
Trên  hành  tinh này,  duy nhất  chỉ  có  đạo Phật mới dạy con người về lý nhân quả, không có một giáo phái nào mà dạy chúng ta làm chủ như vậy  được. Con đủ  phước  duyên tu  tập,  hãy dứt sạch ái kiết sử đó đi, đừng thương vay khóc



mướn  nhân  quả,  chẳng  có  ích gì mà  tự  con đã làm khổ lấy mình.





ĂN THỊT CHÚNG SANH VÌ SỨC KHỎE

Câu hỏi của Liễu Hương


Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Trong 5 giới  của người cư sĩ có:
1- Sát sanh.

2- Trộm cắp.

3- Tà dâm.

4- Vọng ngữ.

5- Uống rượu.

Năm  giới  này  con cố  gắng  giữ  gìn  đừng cho sai  phạm  nhưng  giới  không  sát  sanh  thì con có  giữ  nhưng  chưa trọn vẹn, vì còn ăn thịt chúng  sanh  (con chỉ  giữ  được  10  ngày  trong một  tháng).  Vì  sức  khỏe  con  còn  ăn  thịt  để sống, chứ không có cảm giác ngon lành gì cả. Nếu sức khỏe con tương đối tốt thì  con cố gắng ăn chay trường luôn để giảm bớt sự sai phạm giới luật của Phật.



Đáp: Giới luật  và  giáo  pháp của Phật chế ra là  để  mưu cầu  sự  an vui  hạnh  phúc  cho con người,  chứ  không  phải  chế  ra để  gò  bó  khắc khổ,  để  người  bắt  con  người  phải  sống  khổ hạnh ăn uống thiếu  chất làm cho tuổi thọ kém dần  sanh ra nhiều  bệnh  tật  và  mau đi  vào  cõi
chết.

Giới luật của Phật không phải là một giáo pháp khô khan, khi một người chấp hành đúng, sống  đúng  và  giữ  gìn  nghiêm  túc  thì chết  dần mòn trong sự hao hụt và thiếu dinh  dưỡng, hiểu như vậy là hiểu sai. Đạo Phật vốn không phải đạo khổ hạnh ép xác mà là đạo giải thoát, nên ai tu gặp chướng ngại pháp hoặc cảm thấy khó chịu khổ đau là tu sai.
Trí  vô hạn của một bậc tu chứng như Phật thì không thể nào không thấu suốt được. Khi chế giới luật, Ngài đã cân nhắc rất kỹ lưỡng, không  chấp  nhận  khổ  hạnh  và  không  chấp nhận lợi dưỡng. Cho nên, giới luật của Ngài chế ra là  đi  vào  trung  đạo.  Ngài  biết  rất  rõ:  ăn ngày một bữa không phải là khổ hạnh là ăn uống thiếu  chất  bổ, khiến cơ thể  sanh ra bệnh tật. Khi cơ thể sinh ra bệnh tật, tức cơ thể khổ đau, cơ thể khổ đau thì mất sức, thiếu dinh dưỡng, đó là khổ hạnh.



Ngược  lại,  ăn  ngày  một  bữa  và  không  ăn thịt  chúng  sanh,  tránh  tội  sát  sanh,  gây  nợ máu (gây nghiệp máu) làm đau khổ và đoản mạng chúng sanh. Chính  vì ăn thịt chúng sanh mà chúng ta tiếp tục mãi nhân quả đau khổ (thiếu  dinh  dưỡng,  bệnh  tật,  tai  nạn  v.v..).  Đó là luật nhân quả đang vay trả của những người thiếu tâm từ bi, còn nỡ tâm ăn thịt chúng sanh, không thấy sự  đau khổ trước  khi chết  và tiếng kêu  la  gào  thét  trong  đau  khổ  cùng  sự  ham muốn sống của loài chúng sanh.
Người tu theo đạo Phật phải thể hiện tâm từ  bi  rộng  lớn  với  muôn  loài  và  với  bản  thân mình.  Mình   không  muốn  khổ  thì há  lại  làm khổ kẻ khác loài vật khác sao.
‚Ăn để sống‛ không có nghĩa là ăn thịt chúng  sanh,  ‚Ăn  thịt  chúng  sanh‛ nghĩa  là ăn để đau khổ chết.






ƠNG TÁO




Câu hỏi của Liễu Hương



Hỏi:  Kính thưa  Thầy!  Sắp  đến ngày  23
Tết  Âm  lịch, năm  nào  cũng  vậy,  mọi  nhà  lo mua  ba bộ  mũ,  hia,  giày  và  một  con cá  chép sống để cúng tiễn đưa ông Táo về Trời và ông Táo sẽ tâu trình với Ngọc Hoàng việc làm ác và thiện của gia chủ. Như  vậy có không, xin  Thầy chỉ dạy? Có người còn bảo năm nào mà không mua  mũ  cho ông  Táo,  thì  đêm  đến  nằm  mơ thấy  ông  Táo  về  đòi.  Như  vậy  có  đúng  không thưa Thầy?
Đáp:  Ông  Táo  là  một  chuyện  mê  tín của dân gian, mục đích là để răn người làm điều ác, vì  làm  điều  ác  là  ông  Táo  sẽ  về  chầu  Trời  tố cáo tội ác trong năm, và Ngọc Hoàng sẽ cho giáng  họa  và  người  làm  ác  sẽ  chịu  biết  bao nhiêu  đau  khổ.  Mũ  hia  áo  mão  của  ông  Táo giống  như  mũ  hia  áo  mão  của  một  vị  quan phong kiến. Ông Táo không có thật mà chỉ là một tưởng tri của loài người để khiến cho người ta sợ mà không làm điều ác.



Từ  câu  chuyện  dân  gian  răn  nhắc  đừng làm ác, biến dần thành một phong tục đến cuối năm nhà nào cũng đều cúng ông Táo, để ông về tâu bớt những chuyện làm ác của mình,  để ông Trời  không  có  gieo  tai  họa.  Câu  chuyện  biến dần thành câu chuyện lo lót hối lộ. Từ câu chuyện răn nhắc đừng làm ác thì dần dần biến thành phi  công lý, đạo đức (hối lộ mũ hia giày, quần  áo,  cá  chép,  cúng  bái  thần  linh là  một hình  thức hối lộ).
Nằm  mộng  thấy  ông  Táo  về  đòi,  đó  là tưởng mộng chứ  ông Táo  đâu  có  thật. Người ta huyền  thoại  nhiều  câu  chuyện  về   Táo  quân “Một  bà  hai  ông”  bây  giờ  đã  thành  một  phong tục truyền thống dân tộc cứ đến ngày 23 tháng chạp nhà nhà đều cúng đưa ông Táo về trời.
Phật giáo phát triển cũng chịu ảnh hưởng, nhưng  lấy  ngày  đó  làm  ngày  lễ  đưa chư thiên về chầu trời, “Dân gian  thì đưa  Táo Quân, Phật giáo thì đưa  chư  thiên về trời”.
Qua câu chuyện ông Táo đã  chỉ cho chúng ta thấy được Phật giáo phát triển có trí tuệ hay không trí tuệ, điều này chắc ai cũng rõ. Câu chuyện  mê  tín dân  gian  mà  Phật  giáo  phát triển lại  biến thành Phật  giáo  mê  tín. Bởi  vậy Phật  giáo  phát  triển  có  đáng  cho chúng  ta  đủ



niềm  tin chăng?  Phật  giáo  phát  triển  đi  đến đâu  cũng  viên  dung và  viên  thông,  lấy  tất  cả các pháp của mọi tôn giáo và sự mê tín của dân gian  làm  giáo  pháp  của  mình.   Hay  nói  cách khác cho dễ hiểu hơn Phật giáo phát triển đi đến đâu đều gieo rắc mê tín đến đó.
Cho nên,  giáo  pháp  Phật  giáo  phát  triển là giáo pháp lượm lặt của các tôn giáo khác chỉ cần thay danh từ là biến thành giáo pháp của mình.  Khi dân gian mê  tín cúng Táo  Quân thì Phật giáo phát triển biến danh từ Táo Quân thành danh từ chư Thiên.
Nếu các nhà nghiên cứu Phật giáo phát triển  xét  kỹ,  đừng  kẹt  trong  danh  từ  thì thấy rất  rõ  giáo  pháp  đó là  bã  mía của các  tôn giáo khác. Đó là đứng về nội dung, còn đứng về hình thức  thì giáo  pháp  phát  triển  không  có  gì đặc biệt chỉ giống như chiếc áo nhiều mảnh vải kết lại mà thành.
Cho nên, câu chuyện Táo Quân là câu chuyện tưởng tượng, chứ không có thật Táo Quân, chỉ có người không thông hiểu mới tin rằng  có  thật.  Cúng  lễ  Táo  Quân  ngày  23  là phong tục mê tín dân gian.





MỜI NGƯỜI CHẾT VỀ ĂN TẾT

Câu hỏi của Liễu Hương


Hỏi: Kính thưa Thầy! Như  Thầy đã dạy cho chúng  con biết,  người  chết  khi  tắt  thở  là tiếp  tục  tái  sanh luân  hồi  (chết  đây  sanh kia), tức  là  chết  là  bắt  đầu  cho sự  sống.  Hàng  năm cứ đến ngày giỗ và đến ngày Tết lại ra mồ mả ông bà cha mẹ đã chết hàng 50 năm mời về ăn Tết với con cháu. Như  vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp:  Đây  cũng  là  một  tục  lệ  mê  tín dân gian, nhưng nói lên được tình nghĩa của con người (người sống đối với người chết). Bởi vì người ta không rõ người chết là mất hết, tan rã sạch chỉ còn lại những hành động nhân quả nghiệp  thiện  ác  tiếp  tục  tương  ưng  với  nhân quả  thiện  ác  mà  tái  sanh  luân  hồi  (có  thân mới).
Người  ta  tưởng  rằng,  người  chết  là  xác thân  chết,  còn  linh hồn,  tức  là  tâm  bất  diệt mãi luôn luôn sống dưới mồ ‚Sống cái nhà, thác  cái  mồ”.  Người  chết  linh hồn  sống  dưới mồ.



Ngôi mồ chỉ là một đống đất chẳng có ai ở trong đó cả. Di tích đời người cuối cùng là ngôi mộ, là một nắm đất hôi thối tàn tạ và khô cằn mà người sống dành cho người chết để gửi nắm xương tàn bất tịnh.
“Sống  cái  nhà  thác  cái  mồ”,  câu  tục  ngữ này  nói  lên  tình nghĩa  người  nhớ  ơn  người, nhất  là  tinh thần dân tộc  Việt  Nam:  “Chim  có tổ  người  có  tông”.  Đạo  thờ  phụng  ông  bà  Tổ tiên  cũng  từ  tình cảm  con người  mà  ra. Vì thế đến ngày tư, ngày Tết, ngày giỗ, những người còn sống  nhớ  công ơn ông  bà  Tổ  tiên,  cha mẹ, đến  mộ  mời  những  người  thân  ấy  về  ăn  Tết, như lúc họ còn đang sống với con cháu cho vui.
Tin  tưởng  như  thế  cũng  chẳng  có  hại  gì cho  ai,  miễn  là  không  có  gây  phiền  hà  cho người khác, và toàn gia đình họp mặt vui vẻ, nhắc  lại công hạnh, phước  đức của ông bà, cha mẹ  lúc  còn  sống,  để  con  cháu  nghe  mà  bắt chước.
Còn nếu tin rằng, có linh hồn ông bà, cha mẹ  đã  chết  về  ăn Tết  với  con cháu  thì điều  đó không  đúng,  điều  đó  là  một  điều  mê  tín cần phải bỏ. Là Phật tử các con phải sáng suốt, cái gì đáng  tin, là  cái  đó  phải  đúng  sự  thật,  phải thấy bằng mắt, phải hiểu bằng ý thức, đừng để



tưởng thức xen vào mơ hồ, trừu tượng. Cái gì không  đúng  sự  thật,  mơ  hồ,  trừu  tượng,  thì nhất định không tin, cái gì có lợi ích cho mình, cho người,  không  trừu  tượng,  mơ hồ  thì mình tin, còn  không  lợi  ích cho mình,  cho người  thì không tin.





NHỮNG LỜI TÂM HUYẾT CÛA
TRƯỞNG LÃO THÍCH  THƠNG LÄC


Thời gian trôi qua quá nhanh,  mới đó mà đã   hai  tháng  rồi,  giống  như  một  giấc  mộng. Nhìn  lại sự tu tập của các con Thầy rất lo lắng, vì  tu  tập  như  vậy  làm  sao chứng  đạt  chân  lí được. Phải không các con?
Muốn chứng đạt  chân lý là  phải  tu tập  xả tất  cả  chướng  ngại  pháp  trên  bốn  chỗ:  thân, thọ, tâm và pháp, chứ đâu tu tập ức chế ý thức để cầu không niệm.
Tu tập Tứ Niệm Xứ mà cứ như tu tập Tứ Chánh  Cần,  tu  như  vậy  làm  sao đi  đến  chỗ chứng đạo được! Chỗ này các con hãy lắng nghe và  tìm hiểu  nghĩa  lý  thực  hành  cho rõ  ràng từng pháp môn Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ, rồi từng giai đoạn tu tập của các pháp môn này.
Cùng  một  pháp  môn  nhưng  giai  đoạn  đầu tu tập khác; giai đoạn sau tu tập khác huống là hai  pháp  môn  khác  nhau  trong  hai  lớp  khác nhau của Bát Chánh Đạo như: lớp Chánh Tinh Tấn và lớp Chánh Niệm. Lớp Chánh Tinh  Tấn là  phải  tu  tập  pháp  môn  Tứ  Chánh  Cần,  còn



lớp Chánh Niệm là phải tu tập Tứ Niệm Xứ. Vì thế cần phải hiểu rõ nghĩa như sau:

1- Tu tập Tứ Chánh Cần là “ngăn” và “diệt” các ác pháp để luôn luôn “sinh” thiện tăng trưởng thiện pháp. Các con nên lưu ý những danh từ: “NGĂN” và “DIỆT”; “SANH” và “TĂNG TRƯỞNG”. Vậy ngăn và diệt; sanh và tăng  trưởng  là  nghĩa  như thế  nào?  Còn  tu  tập như thế nào? Thầy đã  dạy các con rồi. Các con có nhớ không?
“Ngăn” nghĩa là ngăn ngừa, ngăn chặn, ngăn cản không cho vào.

“Diệt” nghĩa là làm cho tiêu mất, làm cho chết, làm cho tiêu diệt, làm cho không còn, không tồn tại.

“Sinh” nghĩa là sinh ra, làm ra cho nhiều, sản xuất.

“Tăng  trưởng”  nghĩa là làm cho lớn, cho nhiều, cho mạnh.
2- Tu tập Tứ Niệm Xứ là trên thân quán thân  để  nhiếp  phục  tham  ưu; trên  thọ  quán thọ...; trên tâm quán tâm...; trên pháp quán pháp để nhiếp phục tham ưu. Các con nên lưu ý những  danh  từ:  “QUÁN,  NHIẾP  PHỤC,  THAM ƯU”.  Vậy  quán,  nhiếp  phục,  tham  ưu nghĩa  là


T

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!