Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

đường về xứ phật - tập 2-7

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP II
III- ĐỊNH VƠ LẬU CÂU HỮU TỨ CHÁNH CẦN
Trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp của
con, hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng
ngày, hằng tháng, hằng năm lúc nào con cũng
phải quan sát bốn chỗ này và cảnh giác giữ gìn
không cho các ác pháp tấn công vào bốn căn cứ
này, nếu vô ý để chúng tấn công thì mau mau
phải diệt chúng không để chúng sống trên các
cứ điểm này dù là một giây một phút nào.
Nếu con siêng năng tu tập chỉ một pháp
môn này con cũng làm chủ sự sống chết, chẳng
cần phải tu những pháp khác. Bởi vì pháp môn
này là pháp môn tu thiền định đầu tiên của
đạo Phật, đó là thứ thiền xả tâm giúp cho tâm
con ly tham, đoạn ác pháp đem lại một nguồn
giải thoát an vui cho mình cho người, khiến
cảnh thế gian thành Thiên Đàng Cực Lạc.
“Khi cưsĩVisakahỏiNiSư
Diandinama:
- Tu thiền phải lấy pháp gì tu?
Ni Sư Trả lời:
- Tu thiền phải dùng pháp Định Tư
Cụ”. Định Tư Cụ là Tứ Chánh Cần. Vậy chúng
ta tu Định Vô Lậu câu hữu Tứ Chánh Cần tức
là tu pháp thiền đầu tiên của đạo Phật như
trên chúng tôi đã dạy, đó là một loại thiền rất
lợi ích cho chúng sanh khi tu là có kết quả giải
thoát ngay liền như đức Phật đã xác định:
“Pháp Ta thiết thực cụ thể không có thời
gian, đến để mà thấy”. Ngăn ác, diệt ác pháp
trên Tứ Niệm Xứ tức là chúng ta ly dục ly ác
pháp, ly dục ly ác pháp là không làm khổ
mình, khổ người, đó là một sự tu tập để xây
dựng mình có một đạo đức nhân bản. Một pháp
môn thiền định tu tập để làm chủ bốn sự đau
khổ của cuộc đời sanh, già, bịnh, chết, thế mà
nó cũng là một pháp môn để cho con người rèn
luyện tu tập trở thành một con người có đạo
đức, một đạo đức cao thượng làm người không
làm khổ mình, khổ người.
Tóm lại, Định Vô Lậu câu hữu với Tứ
Chánh Cần là pháp môn có lợi ích rất lớn quét
sạch lậu hoặc khiến cho người tu hành giải
thoát hoàn toàn, sống trong thế gian mà tâm
bất động, đó là một pháp môn cần thiết cho
cuộc sống mọi người trên hành tinh này.

 ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP II
IV- ĐỊNH VƠ LẬU CÂU HỮU NHÂN QUẢ
Hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng
ngày, hằng tháng, hằng năm lúc nào chúng ta
cũng quan sát xem xét tư duy suy ngẫm trên ba
chỗ xuất phát nhân quả thân hành, khẩu hành
và ý hành.
Bất kỳ lúc nào cũng phải cẩn thận ý tứ
cảnh giác và giữ gìn không để thân hành ác,
khẩu hành ác, ý hành ác, luôn luôn phải thể
hiện thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý
hành thiện.
1- Thân hành thiện: Là thân không giết
hại chúng sanh, không ăn thịt chúng sanh,
không làm đau khổ chúng sanh và phải ý tứ để
thân không vô tình giẫm đạp làm đau khổ
chúng sanh.
Thân hành thiện là thân không lấy của
không cho dù là vật nhỏ mọn như cây kim sợi
chỉ, trái cà, trái ớt, cũng không được lấy.
Thân hành thiện là thân không tà dâm,
đối với người cư sĩ, nghĩa là khi có vợ con hoặc
có chồng con thì không được dâm dục với người
khác, dâm dục với người khác sẽ làm đau khổ gia đình mình và đau khổ gia đình người khác,
còn người tu sĩ thì không nên dâm dục vì dâm
dục tức là thân hành ác pháp tạo ra sự khổ cho
mình cho người và làm cho Phật Pháp suy đồi.
2- Khẩu hành thiện: Là miệng không
nói dối, luôn luôn phải nói lời chân thật, thấy,
nghe sao nói vậy không được nói sai sự thật.
Khẩu hành thiện là miệng không được nói
lời thêu dệt, chuyện xấu nói tốt, chuyện tốt nói
xấu, chuyện sai nói đúng, chuyện đúng nói sai.
Lúc nào cũng phải tránh nói chuyện phiếm,
chuyện tào lao, chuyện vô ích.
Khẩu hành thiện là miệng không nói lật
lọng, không nói ngược ngạo, không vu oan giá
họa cho kẻ khác.
Khẩu hành thiện là miệng không nói lời
hung dữ, không chửi thề, không la mắng to
tiếng, nạt nộ, hù dọa, v.v..
3- Ý hành thiện: Là ý không khởi nghĩ
ham muốn một vật gì cả, ý không sân hận oán
thù, ganh ghét ai cả, ý không si mê thường
sáng suốt nhận rõ mọi hành động nhân quả
thiện ác để luôn luôn ý nghĩ đến điều thiện
không làm khổ mình, khổ người. Tóm lại, trên đây là tu Định Vô Lậu câu
hữu với nhân quả tức là tu tập vô lậu trên
đường đi lối về của nhân quả. Muốn cho các
chướng ngại pháp không tác động vào thân tâm
sanh ra lậu hoặc nên thường cảnh giác và giữ
gìn thân, miệng, ý không cho hành động ác
luôn luôn phải thực hiện hành động thiện để
tạo cảnh an vui cho mình cho người, để tạo sự
giải thoát cho mình và các pháp chướng ngại
không còn tác động được thân tâm, đó là sự
giải thoát của Định Vô Lậu câu hữu với Nhân
Quả thiện ác.
Định Vô Lậu câu hữu với nhân quả là một
pháp môn ngăn các ác pháp tuyệt vời, nếu
người nào siêng năng tu tập thì thân hành, ý
hành, khẩu hành không bao giờ làm khổ mình,
khổ người, đó là một hành động đạo đức cao
thượng nhất trên thế gian này.
 Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
V- ĐỊNH VƠ LẬU CÂU HỮU TỨ DIỆU ĐẾ
Quán Tứ Diệu Đế tức là quán khổ, tập,
diệt, đạo. Vậy quán khổ, tập, diệt, đạo như thế
nào?
Đây là bốn chân lý của đạo Phật, từø khi
bắt đầu có đạo Phật cho đến nay, chưa có ai
dám thay đổi chân lý này, vì nó là chân lý nên
nó xác định đời sống của con người rất logique
và khoa học nên giáo lý này mới được gọi là
chân lý.
Cách đây mấy trăm năm có một số người
muốn làm Sư Tổ của Phật giáo bài bác bốn
chân lý này để sản sanh ra một chân lý mới
trừu tượng và mơ hồ, đó là chân lý Bát Nhã Ba
La Mật của Tổ Long Thọ là “Chân Không” để
đả phá chân lý của đạo Phật “Vô khổ, tập, diệt,
đạo”, kế tiếp có Vô Trước, Thế Thân, Mã Minh,
v.v.. xúm nhau để xương minh chân lý này,
nhưng nó chỉ là một chân lý ảo tưởng, nó
không nói lên được sự thật của cuộc sống loài
người thì làm sao là chân lý được của thế giới
hành tinh này.
Cho nên, các nhà tôn giáo và các nhà
triết học đã đưa ra nhiều triết thuyết về chân lý, nhưng tất cả đều nằm trong những triết
thuyết chân lý ảo tưởng của tưởng tri con
người, vì thế, những triết thuyết chân lý đó, chỉ
sống trong một thời gian ngắn ngủi rồi chết đi,
chỉ vì nó không thiết thực lợi ích cụ thể đối với
đời sống của con người, nó chẳng giống như
triết thuyết chân lý của đạo Phật. Vậy, chúng
ta hãy lắng nghe chân lý của đạo Phật đối với
con người trên hành tinh này như thế nào? Mà
nó được gọi là chân lý của loài người?

CHÂN LÍ THỨ NHẤT “KHỔ ĐẾ”
Khế kinh có câu: “Nước mắt chúng
sanh nhiều hơn nước biển”, lời nói này có
quá đáng chăng? Chúng ta chưa vội xác định
câu nói này mà hãy dùng Định Vô Lậu quán
xét tư duy chân lý thứ nhất, rồi mới xác định
sau. Người không hiểu biết cho rằng đời là một
hạnh phúc, nhưng họ không ngờ những khoái
lạc của cuộc đời đều là giả dối, lừa phỉnh, chẳng
khác gì như người khát nước mà cứ uống nước
mặn, càng uống lại càng khát và càng khổ đau.
Cho nên, những sự vui của cuộc đời chỉ là tạm bợ, hào nhoáng như một lớp sơn bên ngoài mà
thôi. Bản chất của cuộc đời là khổ đau. Cõi đời
này là một biển nước mắt và mồ hôi của loài
người, trong ấy, mọi người đang bơi lội, hụp
lặn, chìm nổi, trôi lăn. Nếu ai đã từng nếm mùi
vị của cuộc đời thì không ai bảo rằng đời là
hạnh phúc, là sung sướng, người thấy rõ đời
sống là khổ không ai hơn đức Phật, nên chân
lý của Ngài đưa ra mọi người đều phải công
nhận, chỉ có một vài người mang tà kiến mới
cho nó là “vô khổ, tập, diệt, đạo”, như Long
Thọ, còn các Tổ sau này chỉ là những người hùa
theo, cho nên Thiền sư Thường Chiếu bảo:
“Một con chó sủa, một bầy chó sủa theo”.
Không ai có thể kể ra hết mọi sự đau khổ
trong thế gian, nhưng căn cứ vào lời dạy của
đức Phật thì có ba loại khổ:
1- Khổ khổ
2- Hoại khổ
3- Hành khổ
•Khổ khổ: Cái khổ chồng chất lên cái
khổ; bản thân đã là khổ mà hoàn cảnh chung
quanh lại đè lên bao cái khổ khác: đó là khổ
khổ. Chúng ta quán xét tự thân mình là nạn
nhân của bao nhiêu cái khổ, cái xấu xa đê tiện;
thân thể là một bao đựng đầy thịt xương dơ
bẩn hôi thúi bất tịnh, nếu một vài ngày không
tắm rửa chăm sóc, thì thối tha không chịu
được. Vả lại, cái thân của chúng ta rất giòn bở
mong manh; khát nước độ ba ngày, ngạt thở độ
năm phút, đứt một mạch máu, bị nhiễm vi
trùng độc… thế là mạng vong, không còn sống
được nữa. Lại nữa, cái khổ sống chết bất ngờ
mà không ai làm chủ, còn biết bao nhiêu cái
khổ khác nữa chồng chất lên nhau, không sao
tránh khỏi như: bệnh tật, tai họa đói khát, bão
lụt, chiến tranh, động đất, hỏa hoạn, chiến
tranh áp bức, sưu cao, thuế nặng, v.v.. đó là
khổ khổ.
•Hoại khổ: Thật vậy, vạn vật trong vũ
trụ có hình tướng đều phải bị hoại diệt vì luật
vô thường chi phối từng giây từng phút, nên
không có vật gì được tồn tại mãi, dù cho sắt đá
lâu ngày cũng phải mục nát, to lớn như đất trời
còn phải tan hoại. Yếu ớt nhỏ nhoi như thân
người thì mạng sống như bong bóng nước, như
mây nổi giữa trời, như hoa phù dung sớm nở tối
tàn, mỗi phút mỗi giây chúng ta đang sống là
mỗi phút mỗi giây đang hủy hoại, dù cho chúng ta có sức khỏe, có quyền thế, có giàu sang, tiền
của, châu báu, ngọc ngà, vàng bạc có chất đầy
cả không gian này thì cũng không cản ngăn,
chống đỡ không cho thời gian hủy diệt đời sống
của chúng ta được. Chúng ta hoàn toàn bất lực
trước sự vô thường của thời gian.
“Tấc bóng thời gian một tấc vàng
Tấc vàng tìm được không gì khó
Tấc bóng thời gian khó hỏi han”.
Thật là khổ sở, tủi nhục, đau đớn cho kiếp
sanh làm người.
•Hành khổ: Là chỉ cho mọi hành động
của chúng ta thương, ghét, giận, hờn, lo lắng,
ưa thích, ham muốn, v.v.. Vả lại, mỗi hành
động của chúng ta đều mang theo bản chất
thiện và ác; ác thì làm khổ mình, khổ người;
thiện thì không làm khổ mình, khổ người,
nhưng phần nhiều hành động thân, miệng ý
của chúng ta thường đem đến sự khổ đau cho
nhau hơn là đem đến sự an vui hạnh phúc. Bởi
vậy, đức Phật dạy: “các hành là vô thường,
là khổ”, lúc thì nó hành như thế này, lúc thì
nó hành như thế khác, nó không bao giờ đứng
yên lặng một chỗ. Nếu chúng ta chịu khó quan
sát và sẽ nhận thấy rõ ràng: thân thì chẳng lúc nào chịu im lặng, không đi thì ngồi, không ngồi
thì đứng, không đứng thì nằm, không nằm thì
làm việc này việc khác, lúc nào thân cũng động
đậy trừ ra lúc nằm ngủ.
Miệng lúc nào cũng muốn nói chuyện
không chuyện này thì nói chuyện khác, nếu
vắng một lúc không nói là đi tìm người để nói
chuyện, con người vốn thích động không thích
tịnh, sống độc cư trầm lặng một mình chịu
không nổi, cho nên các Tổ quở trách các đệ tử:
“Không chịu để miệng đóng móc meo”.
Ý thì lăng xăng nghĩ chuyện này sang
chuyện khác như con ngựa không cương, như
con vượn chuyền cây, không bao giờ dừng nghỉ.
Đó là ba chỗ hành của thân con người, ba nơi
đó nếu chúng ta không biết dừng nghỉ những
hành động ác thì sẽ mang lại cho mình và mọi
người biết bao nhiêu là muôn ngàn thứ đau khổ
xảy ra, cho nên đức Phật nói: “hành là khổ”
là vậy.
Ba thứ khổ này chia ra làm tám thứ khổ:
1/ Sanh khổ: Sanh ở đây có hai nghĩa đời
sống và sự sanh đẻ.
a) Khổ trong lúc sanh ra: Người sanh và
đứa bé được sanh đều khổ. Khi người mẹ mới mang thai đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn
oẹ, dã dợt, bần thần, người gầy ốm trong những
tháng đầu. Thai nhi mỗi ngày mỗi lớn, thì
người mẹ mỗi ngày mỗi mệt mỏi, nặng nề, đi
đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp. Khi gần
đến ngày sanh thì sự đau đớn không sao nói
hết được. Đến ngày hoa khai nở nhụy, nếu
thuận thai thì người mẹ cũng đau đớn thập tử
nhất sanh, khi sanh con ra mẹ phải chịu nhơ
uế nhiều ngày, yếu đuối nhiều tháng, vì máu
huyết hao mòn, ngũ tạng suy kém. Còn nghịch
thai thì người mẹ phải bị mổ xẻ, 100 phần chết
chỉ có một phần sống mà thôi, đôi khi giải
phẩu người mẹ và phải chịu bệnh tật suốt đời
khi sinh con.
Còn đứa bé từ khi chào đời cũng phải chịu
nhiều điều khổ sở. Chín tháng mười ngày trong
bụng mẹ sống trong cảnh tối tăm chật hẹp.
Đến kỳ sanh nở thì thân còn phải chen qua chỗ
chật hẹp như bị đá ép bốn bề, nên khi vừa
thoát ra ngoài vì khổ quá, vả lại còn bị móc
miệng đau đớn không cùng nên vội khóc thét
lên.
“Thảo nào lúc mới chôn nhao
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra!”. b) Khổ về đời sống: Khổ về đời sống có hai
phương diện vật chất và tinh thần:
- Khổ về vật chất: Cuộc sống của con người
đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như: món ăn,
thức uống, y phục, nhà ở, thuốc men. Muốn có
những nhu cầu ấy, con người phải lao động cần
cù quanh năm suốt tháng, vất vả, khổ sở mới
đổi lấy nó được, phải bằng mồ hôi nước mắt và
sức lực của mình. Nhiều khi, suốt đời làm lụng
cơm không đủ ăn, nhà ở không đủ ấm.
Chẳng những đợi đến cảnh đói khát mới
là khổ; ăn uống thất thường bữa đói bữa no,
thiếu thốn trước sau cũng đã là khổ. Chẳng lâm
vào cảnh màn trời chiếu đất, hay ăn lông ở lỗ
mới gọi là khổ; áo quần không đủ ấm, nhà cửa
không che được nắng mưa đó cũng là khổ lắm
rồi. Người nghèo đã khổ như thế thì người giàu
có khổ hay không?
Muốn có tiền bạc của cải tài sản, tất phải
thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần , đầu tắt
mặt tối trong công việc, mồ hôi nước mắt đổ ra
biết bao nhiêu mới có được, chứ đâu phải tiền
bạc, của cải, tài sản ở trên trời rơi xuống mà
phải bằng công sức và đầu óc tính toán, nhiều
khi phải quên ăn, mất ngủ, nhưng khi đã có
của cải rồi, đâu phải là sung sướng, phải lo giữ gìn bảo vệ nó, nếu một mai bị trộm cướp, nước
trôi, hỏa hoạn hoặc bị vua quan sung vào công
quỹ thì khổ sở vô cùng, có người vì của cải tài
sản mất mà điên, cũng có người vì của cải mất
mà phải buồn khổ đến chết, đó là khổ sở về vật
chất.
- Khổ về tinh thần: Thì không biết bao
nhiêu sự khổ kể ra làm sao cho hết. Chúng tôi
nêu lên một vài ví dụ như: thua kém mọi người
từ ăn mặc đến nhà ở là chúng ta đã khổ, thua
kém từ học thức đến địa vị trong xã hội là
chúng ta cũng khổ, khổ từ những lời nói khen
chê của kẻ khác, khổ vì bị lừa gạt, bị áp bức,
khổ vì những người thù oán, khổ vì bị kẻ khác
khinh bỉ, v.v..
Tóm lại, về vật chất lẫn tinh thần trong
cuộc sống của chúng ta có biết bao nhiêu là sự
khổ đau, mà làm con người phải gánh chịu, cho
nên chơn lý thứ nhất của đạo Phật là “Khổ
Đế”. Khổ Đế là chỉ cho đời sống của con người
khổ thật, khổ thật nhưng không phải biết khổ
để mà trốn khổ, để mà tiêu cực yếm thế bỏ đời.
đức Phật chỉ cho chúng ta thấy một sự thật
hiển nhiên của cuộc sống là khổ như vậy để mà
vượt lên trên những nỗi khổ đó, để xây dựng
cho mình, cho người có một nền đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người để biến
cảnh thế gian thành cảnh giới Cực Lạc Thiên
Đàng. Cho nên, kẻ nào thất tình thất vọng vào
chùa tu hành để nhờ câu kinh tiếng kệ mà
quên đi sự đau khổ của cuộc đời là kẻ hèn nhá t
không xứng đáng là đệ tử của đức Phật, còn kẻ
nào mượn Phật giáo kinh doanh làm giàu trên
mồ hôi nước mắt của tín đồ, ngồi mát ăn bát
vàng là kẻ ăn cướp của đàn na thí chủ, của mọi
người, bày ra nhiều trò mê tín lừa đảo, những
người còn vô minh, mang nặng lòng kiến chấp
những phong tục tập quán lạc hậu. Đó là những
loài ma vương đội lốt tu sĩ và cư sĩ Phật giáo để
diệt Phật giáo, chứ không phải là chấn hưng
Phật giáo.
2/ Lão khổ: Con người đến lúc già, thân
thể hao mòn, tinh thần suy kém nên thể xác
lẫn tinh thần đều khổ.
Càng già khí huyết càng hao mòn, ngày
càng mỏi mệt, hoạt động một cách yếu ớt, mắt
lờ tai điếc, tay chân run rẩy, đi đứng khó khăn
làm việc gì cũng phải nhờ đến kẻ khác, khi trời
trở tiết thì toàn thân đau nhức, đó là cơ thể già
là khổ như vậy.
Càng già thân thể càng suy yếu, trí tuệ
càng lu mờ, do đó sanh ra lẫn lộn , quên trước quên sau, hành động giống như kẻ ngây dại có
khi ăn dơ, uống bẩn mà không biết, nói năng
lặp đi lặp lại như người mất trí; ăn rồi bảo
chưa ăn, chưa ăn bảo ăn rồi, có khi nói nhảm
nhí một mình thật đúng là già khổ.
3/ Bệnh khổ: Bất luận thân của chúng ta
đau bệnh gì, từ cái đau lặt vặt như đau răng,
nhức đầu, mỏi tay, mỏi chân cho đến những
bệnh hiểm nghèo trầm trọng như ung thư, lao
phổi, hoặc cùi phong, đái đường, lên máu, sơ
gan cổ trướng, v.v.. đều làm cho con người phải
đau khổ, nhức nhối, rên xiết… Nhất là những
bệnh trầm kha thì lại hành hạ xác thân, đắng
cơm, nghẹn nước, cầu sống không được, cầu
chết cũng không xong, oan oan ương ương thật
là khổ não.
Thân bệnh đau mà tiền thì không, có
người sau khi lành bệnh tiền bạc không còn,
của cải tài sản bán sạch, chỉ còn hai bàn tay
trắng, sống một đời sống tràn đầy sự khổ đau
bất tận, cuộc sống là một màn đêm đen tối
hướng về tương lai.
Đó là về bản thân phải chịu lấy những
bệnh khổ, còn về những thân bằng quyến thuộc
thì buồn rầu lo sợ, cho nên, mỗi khi trong nhà
có người bị bệnh, thì cả gia đình đều rộn ràng bâng khuâng đứng ngồi không yên, quên ăn
mất ngủ, bỏ cả công ăn việc làm, thậ t đúng như
lời đức Phật dạy: “Bệnh là khổ”. Khổ về tinh
thần và khổ về thân xác vật chất, cho nên , ai
có thân bệnh đều sợ cả, không ai mà không sợ
bệnh khổ.
4/ Tử khổ: Trong bốn cái khổ của đời
người là sanh, già, bệnh, chết, nhưng chết thì
ai nghe nói đến cũng đều kinh hãi, nhất là ai
cũng biết rằng con người sớm muộn gì rồi cũng
phải chết, nhưng nghe nói chết thì ai cũng sợ,
sợ nhưng không ai tránh khỏi. Chết là khi cơ
thể tan rã, nhưng trước khi tan rã hoại diệt nó
đau đớn từng đốt xương lóng tay, da thịt như ai
đần, ai bầm rêm cả thân người, nằm không
yên, ngồi không được, người đời thường gọi đó
là lúc trăn trở để mà chết, nên trước khi chết,
mọi người ai cũng phải chịu sự đau khổ tận
cùng, sức chịu đựng thân mạng này, rồi mới
chết. Cho nên, đức Phật dạy: “chết là khổ chứ
không phải chết là hết khổ”.
Người đời thường nghĩ chết là hết khổ, sự
thật không phải vậy, chết là một sự nối tiếp sự
khổ. Hiện tượng người chết quá ư khổ thì khi
họ tái sanh cũng khổ và còn khổ hơn nữa, ngược lại, người chết không khổ thì tiếp tục tái
sanh không khổ.
Ở đây, chúng ta cần lưu ý, trong thế gian
có bốn hạng người:
 Hạng người thứ nhất: Chết khổ là hạng
người bị bệnh đau khổ sở vô cùng, ăn, ỉa, đái
một chỗ, chịu hôi, chịu thối của xác thân tứ đại,
cho đến khi chết phải đau nhức trăn trở khổ sở
tậân cùng, rồi mới chịu chết, đó là hạng người
chết khổ.
 Hạng người thứ hai: Chết ít khổ là
những hạng người bị bệnh mà không phát hiện
ra, đến khi thình lình đứt mạch máu não hoặc
rút tay giựt chân, méo miệng rồi ngã lăn ra
chết, những người này thời gian thọ bệnh khổ
rất ngắn, đó là hạng người chết ít khổ.
 Hạng người thứ ba: Chết không khổ là
hạng người không bị bệnh đau gì cả nằm ngủ
rồi ngủ luôn, đó là hạng người chết không khổ.
 Hạng người thứ tư: Làm chủ sự sống
chết, họ muốn sống là sống và muốn chết là
chết, chết lúc nào cũng tự tại dễ dàng, không
phải chờ bệnh đau tận cùng rồi mới chết, đó là
hạng người làm chủ sự sống chết như đức Phật
và các bậc Thánh Tăng A La Hán. Cho nên, trong đời sống của loài người có
bốn hạng người như vậy.
□Hạng người thứ nhất, chuyên làm ác
giết hại chúng sanh như những người làm nghề
đồ tể, săn bắn, chài lưới, v.v..và những hạng
người chuyên lừa đảo thiên hạ buôn thần bán
Thánh, v.v..
□Hạng người thứ hai, có làm ác có làm
thiện, nên chết ít khổ hơn.
□Hạng người thứ ba, sống chuyên làm
thiện không làm khổ mình, khổ người.
□Hạng người thứ tư, là những bậc tu
hành toàn thiện, toàn định, toàn tuệ đầy đủ
thần lực làm chủ nhân quả, chấm dứt luân hồi,
nên luật nhân quả không còn tác động họ được.
5/ Ái biệt ly khổ: Con người sanh ra ở đời
ai cũng có lòng yêu thương, loài thú vật cũng có
lòng thương yêu, chúng cũng biết buồn thương
và khóc, huống là con người như chúng ta, tình
thương giữa vợ chồng, con cái, anh em, chị em,
cha mẹ, quyến thuộc, bạn bè, thân hữu, v.v..
đang thương yêu mặn nồng thắm thiết mà bị
sự bắt buộc chia ly, thì thật không có gì đau
đớn hơn khi kẻ bắc người nam hoặc kẻ còn
người mất. Sự chia ly chia ra làm hai loại: a) Sanh ly khổ: Một gia đình đang sống
trong cảnh sum họp, đầm ấm, an vui, bỗng có
một hoàn cảnh bắt buộc hay vì một thiên tai,
giặc giã, v.v.. làm cho mỗi người bơ vơ, thất lạc
nhau, kẻ đông người tây, kẻ nam người bắc, kẻ
góc biển, người chân trời, nỗi nhớ mong,
thương xót không cùng. Sự sống mà chia ly
nhau là sự đau khổ không cùng nên người đời
khổ quá mới nói ra lời: “Thà lìa tử chứ ai nỡ
lìa sanh”.
b) Tử biệt khổ: Người ở đời mỗi lần chết là
một lần vĩnh viễn không còn gặp nhau nữa, dù
là ly biệt có khổ nhưng còn có ngày hy vọng
gặp lại nhau, chứ một khi đã chết rồi thì bao
thuở được sum vầy nữa. Cho nên, trước cảnh
chết, là một sự ra đi vĩnh viễn, làm người trước
cảnh ấy ai mà chẳng nức nở, khổ đau, vì thế
trước cảnh này đã có nhiều người xót thương
rầu rĩ không còn thích ăn thích ngủ, có người
quá đau đớn tuyệt vọng vì thương nhớ đến nỗi
phải toan chết theo người thân thương quá cố
của mình, có người ôm quan tài của người quá
cố lăn lộn nức nở nghẹn ngào nước mắt tuôn
rơi lả tả dường như ai cắt ruột cắt gan mình.
Đó là cái khổ của tử biệt, mà sanh ra làm người
ai ai cũng phải biết, và bao lần đứt ruột đứt gan nước mắt đổ xuống vì những người thân
thương ra đi vĩnh viễn. Chính bản thân chúng
tôi, khi người cha thân yêu của chúng tôi ra đi
vĩnh viễn, nước mắt của chúng tôi đã đổ xuống
chan hòa, cổ chúng tôi nghẹn ngào, chúng tôi
thầm ước nguyện: “Con nguyện sẽ tìm cha
cho bằng được dù bất cứ có gian khổ như
thế nào con cũng không chùn g bước trước
mọi gian nguy thử thách trừ ra con chết,
nếu còn một chút hơi thở dư tàn con cũng
quyết tìm cha cho bằng được”. Lời nguyện
ước này cộng thêm sự sách tấn của Hoà Thượng
Thanh Từ: “Đạo Phật còn là còn một người
tu chứng”. Những điều này đã tạo thành một
mãnh lực quyết liệt trong đời tu hành của
chúng tôi để chiến đấu và chiến thắng từng
tâm niệm ham muốn các ác pháp trong nội tâm
của mình. Cuối cùng, chúng tôi đã chiến thắng
và mãn nguyện.
Còn hiện giờ, mọi người tu chỉ tu danh, tu
lợi, tu mà sợ khổ, sợ cực nhọc, sợ đói, sợ khát,
sợ chết, sợ mất sức, sợ bỏ của cải tài sản, sợ bỏ
vợ bỏ con tọâi nghiệp, tu mà còn tham muốn
thần thông phép tắc hơn người, chưa tu được gì
mà vội muốn làm thầy thiên hạ, vay mượn
kinh sách của người xưa, nhai đi nhai lại những thứ bã mía lừa đảo người, cho nên tu
hành chẳng ra gì.
Tử biệât sanh ly là nỗi khổ của loài người,
thế mà đã đi tu, lại không lo giải quyết cho
xong, đã bao nhiêu lần nước mắt tuôn rơi vì
mất cha, mất mẹ mà còn không biết, không lo.
Cha mẹ còn hay mất ở nơi đâu, đi về đâu…? Vậy
mà dám vỗ ngực xưng tên là con hiếu. Cha mẹ
chết mặc cha mẹ, cứ mãi lo tiền bạc, danh
vọng, nhà cửa, chẳng còn ai hay biết gì, nhưng
tiền bạc danh vọng đó, chết rồi cũng không
mang theo được, chỉ còn lại nghiệp thiện ác mà
thôi, để rồi tiếp tục trên con đường khổ đau
như cũ, quanh quẩn trong vòng luân hồi muôn
đời muôn kiếp.
6/ Cầu bất đắc khổ: Người sanh ra ở đời,
ai cũng có sự hy vọng, sự hy vọng càng nhiều
thì sựï thất vọng càng to. Bất luận trong tất cả
mọi việc làm, số người làm được đạt như ý
muốn thì quá hiếm mà kẻ thất bại thì quá
nhiều, cho nên gặp thất bại không có người nào
là không khổ; có nhiều người thất bại quá tự tử;
có nhiều người thất bại bỏ vào chùa tu; còn
muốn đạt kết quả tốt đẹp, người ta phải vận
dụng không biết bao nhiêu là năng lực, lao tâm

tổn trí, quên ăn bỏ ngủ để đạt được kết quả như

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!