ĐƯỜNG VỀ
XỨ PHẬT – TẬP II
NHỮNG PHÁP
MƠN
CON GHI RA
ĐÂY CĨ ĐỦ CHƯA?
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Con ghi những
điều để
xả tâm và cách thức tu tập để xả như
vậy có đủ
không? Xin Thầy chỉ dạy thêm cho
con được
rõ.
Đáp: Về
việc xả tâm ly dục ly ác pháp,
con ghi như
vậy chưa đủ, để Thầy ghi thêm cho
được đầy
đủ hơn:
i. Định Vô
Lậu câu hữu Ngũ Uẩn.
ii. Định Vô
Lậu câu hữu Tứ Niệm Xứ.
iii. Định
Vô Lậu câu hữu Tứ Chánh Cần
(Thập
Thiện).
iv. Định Vô
Lậu câu hữu nhân quả quá khứ,
nhân quả
hiện tại và nhân quả vị lai.
v. Định Vô
Lậu câu hữu Khổ đế, Tập đế,
Diệt đế,
Đạo đế.
vi. Định Vô
Lậu câu hữu Tứ Vô Lượng Tâm.
vii. Định
Vô Lậu câu hữu Tứ Bất Hoại Tịnh.
viii. Định
Vô Lậu câu hữu Định Niệm Hơi
Thở. ix.
Định Vô Lậu câu hữu các pháp Bất Tịnh.
x. Định Vô
Lậu câu hữu các pháp duyên hợp
(Thập Nhị
Nhân Duyên).
I- ĐỊNH VƠ LẬU
CÂU HỮU NGŨ UẨN
Như thế
nào là Định Vô Lậu câu hữu
với Ngũ
Uẩn?
Định Vô
Lậu câu hữu với thân Ngũ Uẩn có
nghĩa là
quán xét tư duy phá chấp thân ngũ
uẩn như:
1- Sắc
Uẩn:
Quán xét
sắc thân do bốn đại đất, nước,
gió, lửa
hoà hợp tạo nên không có gì là của
mình, không
có gì là bản ngã của mình, không
có gì là
mình. Vậy, tại sao ta lại ngu si lầm
chấp cho
sắc thân này là của ta, thân này là ta,
là bản
ngã của ta, một ngày kia thân nà y hoại
diệt đất
phải trả về cho đất, nước phải trả về
cho nước,
gió phải trả về cho gió, lửa phải trả
về cho lửa
thì cái gì còn lại là của ta, là ta, là
bản ngã
của ta nữa đâu. Thế tại sao mỗi khi bị
người khen
chê, chửi mắng, xỉ vả sắc thân là chó, là trâu, là đồ tồi, đồ bẩn
thỉu thì ta lại
căm tức,
thù hận oán ghét họ. Sự căm tức , thù
giận, oán
ghét họ là vì ta không rõõ, chấp sắc
thân là có
thật, là của ta, là bản ngã của ta.
Từ đây, ta
hiểu rõ sắc thân không phải là
ta, của ta,
bản ngã của ta, mà là một khối
duyên hợp
do nhân quả tác thành hay nói cách
khác hơn
cho dễ hiểu là do môi trường sống tạo
nên theo qui
luật vô thường của nhân quả.
Khi quán
xét như vậy, ta không còn dính
mắc chấp
đắm vào sắc thân, nhờ đó ta đẩy lui
các chướng
ngại pháp trong tâm một cách dễ
dàng, các
chướng ngại pháp trong tâm ta được
đẩy lui
thì tâm ta vô lậu, do đó nó mớ i có tên
là Định Vô
Lậu câu hữu với Sắc uẩn.
2- Thọ
Uẩn:
Chúng ta
đã quán xét tư duy tu tập sắc
uẩn xong,
kế tiếp quán xét tu tập thọ uẩn, vậy
tu tập thọ
uẩn như thế nào, để đẩy lui chướng
ngại pháp
trong tâm?
Khi thân ta
bị đau nhức khổ sở vô cùng,
chúng ta tư
duy quán xét thọ uẩn. Vậy thọ uẩn
do duyên gì
hợp lại mà có?
Thọ uẩn
có là do duyên nhân ác tích lũy
tạo thành
do sắc uẩn hành, sắc uẩn hành ác nên sắc uẩn thọ khổ chứ không ai
tạo tác khổ
cho sắc
uẩn cả, nếu sắc uẩn không hành ác thì
thọ khổ do
đâu mà có được?
- Thọ uẩn
có ba trường hợp xảy ra:
a) Thọ khổ
b) Thọ lạc
c) Thọ
không lạc không khổ.
- Thọ uẩn
hoạt động hai chỗ:
+ Hoạt
động nơi sắc uẩn gọi là não, hay là
đau nhức.
+ Hoạt
động nơi tưởng uẩn tức là tâm uẩn
gọi là ưu
hay là buồn phiền tức giận, lo toan, sợ
hãi.
Nếu sắc
uẩn và tưởng uẩn không hành ác
pháp thì
không có thọ lạc, thọ khổ và thọ
không lạc
không khổ, không có ba thọ này sắc
uẩn và tâm
uẩn thanh thản, an lạc và vô sự,
còn ngược
lại sắc uẩn và tưởng uẩn hành ác
pháp thì
có ba thọ hiện tiền khiến cho con
người
phiền não đau khổ.
Cho nên, ba
thọ có là do duyên nhân quả,
nhân quả
có là do hành, vì vậy quán xét nhân
quả của
sắc uẩn là quán xét hành động nơi
thân,
miệng, ý. Nếu muốn ba thọ này không có thì phải thường xuyên nơi
thân, miệng, ý phải
cảnh giác
không làm, không nói, không suy tư
điều ác
luôn phải thể hiện điều lành tức là lúc
nào cũng
không làm khổ mình, khổ người.
Do quán
xét như vậy tâm chúng ta đẩy lui
các chướng
ngại pháp, đó là tu Định Vô Lậu
câu hữu
với thọ uẩn.
3- Tưởng
Uẩn:
Kế tiếp
chúng ta quán xét tưởng uẩn,
tưởng uẩn
tức là tâm uẩn. Tâm uẩn thuộc về
loại vô
hình nó không có hình sắc như sắc uẩn
nhưng chúng
ta cũng dễ nhận ra, nó thường
khởi niệm
tưởng, khi niệm có tức là tâm có, khi
không niệm
tức là tâm không, tâm không,
không có
nghĩa là không có tâm. Tưởng uẩn có
ba trạng
thái:
- Niệm
thiện.
- Niệm ác.
- Niệm
không.
Kinh sách
phát triển lấy niệm không làm
Phật Tánh
(Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm
hoặc chẳng
niệm thiện niệm ác bản lai diện
mục hiện
tiền). Trong khi tưởng uẩn chỉ là một
trong bốn
duyên kia kết hợp để tạo thành con
người theo
luật nhân quả, nói một cách khác để dễ hiểu hơn, tưởng uẩn là một
duyên trong
năm uẩn
được kết hợp lại theo môi trường sống
của luật
nhân quả. Khi năm uẩn này tan rã
hoại diệt
thì chẳng còn một vật gì trong năm
uẩn này
tồn tại. Người không có trí hiểu biết
thường
sống trong tưởng tri lầm chấp cho rằng
thân ngũ
uẩn này là ta, là của ta, là bản ngã
của ta.
Còn như trên chúng tôi đã nói kinh
sách phát
triển lấy tâm không niệm tức là
“tưởng
không” làm Phật Tánh thật là lầm chấp
sống trong
ảo tưởng mà tưởng là thật tướng
Niết Bàn,
rồi chấp chặt thành thân kiến kiết
sử mà
không biết, tu mãi từ đời Thầy Tổ đến
con cháu,
chít chắt mà vẫn chẳng có ích lợi gì,
chỉ toàn
dùng những ngôn ngữ lừa đảo những
người sau.
Tưởng uẩn
được kết hợp tạo thành bằng
nghiệp
thiện ác, nghiệp thiện ác được tạo
thành bởi
dục và ác pháp cho nên người tu sĩ
theo đạo
Phật phải tìm mọi cách ly dục ly ác
pháp, đó
là pháp đầu tiên mà họ cần phải tu
tập, ly
dục ly ác pháp tức là không tạo nghiệp
thiện
nghiệp ác mới nữa, không tạo nghiệp
thiện
nghiệp ác mới nữa tức là ly nghiệp thiện
nghiệp ác
mới, đó là khiến cho thân hành
thanh tịnh,
khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh. Còn muốn lìa nghiệp thiện
ác cũ
thì phải
ly hỷ tưởng đây là giai đoạn thứ ba
của bốn
thiền đạo Phật. Muốn lìa nghiệp thiện
ác cũ tức
là ly hỷ tưởng thì phải đóng tầm tứ
mà trong
kinh Phật dạy: “Diệt tầm tứ nhập
Nhị Thiền
hay tịnh chỉ tầm tứ nhập Nhị
Thiền”.
Khi diệt
tầm tứ xong ta ly hỷ tưởng mới
được, còn
tầm tứ chưa diệt chúng ta không thể
ly hỷ
tưởng được, ly hỷ tưởng tức là lìa nghiệp
thiện ác
cũ.
Ở đây xin
quý vị nên hiểu trong bốn thiền
có hai giai
đoạn ly, một giai đoạn diệt, một
giai đoạn
xả.
- Thiền
Thứ Nhất: Ly dục ly ác pháp
thuộc về
sắc uẩn (ly là chừa bỏ hẳn, lìa xa
cảnh giác
tâm tham dục và các ác pháp để nó
không còn
trở lại).
- Thiền
Thứ Hai: Diệt tầm tứ tức là
ngưng sáu
thức thuộc về sắc uẩn (diệt tức là
không còn
để nó trở lui, trở lại được).
- Thiền
Thứ Ba: Ly hỷ tưởng dục thuộc
về tưởng
uẩn (ly hỷ tưởng có nghĩa là lìa hỷ
tưởng, chứ
chưa diệt bỏ hẳn phải cảnh giác kẻo
nó sẽ còn
trở lại). - Thiền Thứ Tư: Xả lạc, xả khổ, xả niệm
thanh tịnh
thuộc về sắc uẩn và tưởng uẩn, xả
tức là bỏ
không còn lấy lại. Do sự tu tập quán
xét như
vậy, khiến cho tưởng dục không còn
sanh khởi,
tức là chúng ta đã đẩy lui chướng
ngại pháp
trong tâm, đó là tu Định Vô Lậu câu
hữu với
Tưởng uẩn.
4- Hành
Uẩn:
Hành uẩn
là sự hoạt động của sắc uẩn và
tưởng uẩn,
chúng ta tư duy thấy các hành là vô
thường, là
khổ. Thế nào các hành là vô thường,
là khổ?
Các hành
thường có lúc hành thiện, có lúc
hành ác,
nhưng cũng có lúc cũng không hành
thiện hành
ác, sự hoạt động của các hành thì
không
thường lúc như thế này lúc như thế
khác, nên
gọi là vô thường. Vì hành động có lúc
thiện, lại
có lúc ác nên tạo ra biết bao nhiêu là
nghiệp khổ
cho loài người nên kinh gọi các
hành khổ
là như vậy.
Một người
tọa thiền thân không động,
miệng không
nói và ý không tư duy thì giống
như cây đá,
đó là thiền của hệ phái phát triển,
ngược lại
thiền định của đạo Phật thân không
hành ác,
nhưng thân hành thiện, miệng không
nói lời
ác, nhưng miệng nói lời thiện, ý không suy nghĩ điều ác, nhưng ý suy
nghĩ điều thiện.
Cho nên,
đạo Phật không chấp nhận hành
không, không
chấp nhận hành ác, chỉ chấp
nhận hành
thiện, vì vậy tu theo đạo Phật
không trở
thành cây đá, mà trở thành một con
người hữu
ích cho mình, cho người, có nghĩa là
không làm
khổ mình, khổ người, tạo cảnh sống
thế gian
thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Khi
quán sát
hành uẩn như vậy chúng ta thấu rõ
phải sử
dụng hành uẩn nào cho đúng với Phật
Pháp để
mình và người được giải thoát.
5- Thức
Uẩn:
Trong bốn
uẩn đầu chúng ta đã học xong
và cũng
biết cách tu tập, rèn luyện mỗi uẩn
bằng giới
luật và bằng thiền định. Như vậy
chúng ta
đã rõ, giới luật giúp chúng ta tu tập
nhập Thiền
Thứ Nhất hay nói cách khác là giới
luật giúp
chúng ta tu tập làm cho thanh tịnh
sáu thức:
Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý thức, tức
là giúp
sắc uẩn và hành uẩn của chúng ta
thanh tịnh.
Còn ba
Thiền kia là: Nhị Thiền, Tam
Thiền và
Tứ Thiền được tu tập, được rèn luyện
giúp tưởng
uẩn và thọ uẩn của chúng ta thanh
tịnh. Thức
uẩn là một uẩn cuối cùng được tu
tập. Khi
bốn uẩn kia đã thanh tịnh thì chúng
ta phải
dùng pháp hướng đánh thức thức uẩn
để triển
khai trí tuệ Tam Minh, thức uẩn
thanh tịnh
có nghĩa là mầm mống lậu hoặc đã
được quét
sạch.
Tóm lại,
thân ngũ uẩn phải được tu tập
rèn luyện
đúng pháp Giới, Định, Tuệ thì mới
thanh tịnh,
bằng tu hành sai pháp, thì chính là
nuôi dưỡng
thân ngũ uẩn trong các ác pháp
thuộc về
tà giáo ngoại đạo thì đó một sự nguy
cơ cho loài
người trên hành tinh này không ít.
II- ĐỊNH VƠ
LẬU CÂU HỮU TỨ NIỆM XỨ
Như thế
nào là Định Vô Lậu câu hữu
Tứ Niệm
Xứ?
Như trong
kinh đức Phật đã dạy Tứ Niệm
Xứ, Tứ
Niệm Xứ có bốn chỗ:
- Thân
- Thọ
- Tâm -
Pháp
Vậy, chúng
ta tu tập Định Vô Lậu trên
bốn chỗ
này, nên gọi là câu hữu Tứ Niệm Xứ.
1- Thân
Niệm Xứ:
Trong Tứ
Niệm Xứ đức Phật dạy: “Này
các Thầy
Tỳ Kheo, ở đây Tỳ Kheo quán
thân trên
thân nhiệt tâm, tỉnh giác , chánh
niệm để
chế ngự tham ưu ở đời”. Chúng ta
nên lưu ý
lời dạy này: “Quán thân trên
thân”, quán
thân trên thân tức là xem xét
thân của
mình coi có lậu hoặc hay không? Nếu
có thì phải
khắc phục hay chế ngự không cho
lậu hoặc
tác động vào thân, vì vậy mà đức Phật
dạy: “Chế
ngự tham ưu”, tham ưu tức là lậu
hoặc.
Như vậy,
trên thân quan sát thân có
nghĩa là
xem thân coi có chướng ngại pháp hay
không, để
đẩy lui các chướng ngại pháp ra khỏi
thân không
cho các chướng ngại pháp tác động
làm khổ
cho thân, như vậy tức là tu Định Vô
Lậu câu
hữu với thân Tứ Niệm Xứ. Hằng ngày
chúng ta
ngồi hoặc đi hoặc nằm hoặc đứng đều
xem xét
thân của mình coi có chướng ngại pháp
thì đẩy
lui cho khỏi, đừng để chướng ngại pháp
trong thân
dù một phút giây nào cả thì đó là thân vô lậu mà thân đã vô lậu là
giải thoát.
Cho nên,
đức Phật thường ca ngợi pháp môn
Tứ Niệm
Xứ là đạo lộ đệ nhất pháp vô lậu.
“Này các
Thầy Tỳ Kheo, đây là con đường
độc nhất
đưa đến thanh tịnh cho chúng
sanh, vượt
khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu,
thành tựu
chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn.
Đó là Bốn
Niệm Xứ”.
2- Thọ
Niệm Xứ:
Đức Phật
dạy: “Này các Thầy Tỳ Kheo,
ở đây Tỳ
Kheo sống quán thọ trên các thọ,
nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm để chế
ngự tham ưu
ở đời”. Lời dạy này quý vị nên
lưu ý là
phải luôn luôn xem xét từng phút, từng
giây trên
các cảm thọ của thân và của tâm, nếu
các cảm
thọ này làm chướng ngại cho thân và
tâm thì
chúng ta tìm mọi cách đẩy lui không để
chướng
ngại pháp này trong thân tâm của
chúng ta
nữa thì đó là khắc phục sự đau khổ
giúp cho
thân tâm giải thoát, khi thân tâm
không còn
chướng ngại pháp là thân tâm vô
lậu, như
vậy trên thọ quán thọ để khắc phục
tham ưu tức
là tu tập Định Vô Lậu câu hữu với
thọ Niệm
Xứ.
3- Tâm Niệm
Xứ: Lời Phật dạy: “Này các Thầy Tỳ Kheo, ở
đây Tỳ Kheo
sống quán tâm trên tâm,
nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm để chế
ngự tham ưu
ở đời”.
Quý vị nên
lưu ý lời dạy này “Trên tâm
quán tâm”
tức là dạy quý vị hằng ngày quan
sát xem
xét tư duy nội tâm của quý vị nó đang
khởi những
niệm gì, đang nghĩ gì, đang lo sợ,
đang phiền
não bất toại nguyện, đang giận hờn
ganh ghét,
đang nghĩ suy những âm mưu thâm
độc để
hại người, đang tính toán những trò giải
trí không
lành mạnh, đang nghĩ những chuyện
tào lao
không ích lợi, đang khởi những niệm
tưởng không
đâu để độ người tu hành thiền
định bằng
những thần thông siêu việt, khiến
cho mọi
người quá kính nể phục lăn sát đất
hoặc đang
khởi những niệm làm thế này làm
thế kia để
cúng dường Phật, Pháp, Tăng v.v..?
Tất cả
những niệm khởi lên trong tâm được
quan sát
và xem xét cuối cùng phải được đẩy lui
tất cả
các niệm ra khỏi tâm không còn một
bóng dáng
nào cả. Khi tâm chúng ta chưa ly
dục ly ác
pháp thì tất cả những niệm được khởi
lên trong
tâm đều là niệm ác, đừng nghĩ rằng
chúng tôi
khởi niệm làm ích lợi chúng sanh
như: làm
từ thiện, phóng sanh, bố thí, giúp người bằng cách này hoặc bằng
cách khác trong
khi tâm dục
chưa lìa ác pháp, chưa đoạn thì
những hành
động đó chưa phải là thiện, đó là
hành động
làm danh, làm lợi khéo léo cho cá
nhân mình
bằng những lý luận lừa đảo của nó.
Theo Phật
giáo khi nào tâm thanh tịnh
tức là tâm
đã ly dục ly ác pháp thì niệm khởi
là niệm
thiện còn chúng ta còn phàm phu thì
niệm khởi
là niệm ác. Tại sao vậy?
Tại vì tâm
còn danh và lợi, cho nên tuy
việc làm
nhìn bên ngoài là thiện mà trong tâm
là ác
pháp. Việc làm thiện đó chẳng có phước
báo vì
cả, người làm việc thiện này thường hay
bị bệnh
tật khổ đau v.v..
Vì thế,
người tu Định Vô Lậu câu hữu Tâm
Niệm Xứ
luôn luôn quan sát tâm mình xem coi
có niệm
gì khởi ra thì mau mau tìm mọi các h
đẩy lui
niệm đó khỏi tâm, hướng tâm trở lại vị
trí thanh
thản, an lạc và vô sự của nó.
Tóm lại,
người tu Định Vô Lậu câu hữu
Tâm Niệm
Xứ, tức là trên tâm quán tâm khi
tâm có
niệm khởi thì phải đẩy lui niệm khởi đó
ra khỏi
nội tâm thì chỗ này đức Phật dạy:
“Nhiệt tâm,
tỉnh giác”, phải luôn cảnh giác
rất tỉnh
ở niệm vừa khởi khi thấy mặt nó ngay
liền đồng
thời mổ xẻ niệm này ra nên đức Phật gọi là quán tâm tức là xem xét
tư duy cho thấu
suốt niệm
đó, pháp môn này khác với pháp
môn tri
vọng, vì tri vọng là biết vọng liền
buông tức
là không cần phải hiểu vọng thuộc về
loại nào
trong lậu hoặc, cho nên pháp tri vọng
là pháp
ức chế tâm còn pháp trên tâm quán
tâm là
pháp xả tâm, vì những niệm, có niệm là
một chướng
ngại pháp cho tâm thì nên quán
xét đẩy
lui, còn có niệm không phải là chướng
ngại pháp
của tâm thì không cần đẩy lui.
Thưa quý
vị! Niệm không chướng ngại tâm
của quý
vị đó là niệm thanh thản, niệm an lạc
và niệm vô
sự. Tại sao chúng tôi lại bảo thanh
thản, an
lạc và vô sự là niệm?
Thưa quý
vị! Nếu tâm không niệm thì tâm
không, nhưng
ở đây nó biết rõ ràng là có tâm
thanh thản,
an lạc và vô sự, vì thế mà chúng
tôi bảo
niệm thanh thản, niệm an lạc và niệm
vô sự, quý
vị cứ suy ngẫm có đúng không? Niệm
ấy có
chướng ngại tâm không?
Vì nó
không chướng ngại cho tâm nên
chúng ta
không đẩy lui nó.
4- Pháp
Niệm Xứ:
Bây giờ
chúng ta tu tập tới Định Vô Lậu
câu hữu
với Pháp Niệm Xứ. Đây là pháp thứ tư của Tứ Niệm Xứ, pháp này coi
vậy chứ không
đơn giản,
nếu chúng ta không biết rõ nó thì rất
khó tu
tạâp vô cùng và chúng ta sẽ bị nhận ra
tâm thanh
tịnh sai lầm. Từ chỗ các pháp tác
động khiến
tâm sanh ra niệm thiện ác, từ chỗ
các pháp
tác động tâm sanh ra các cảm thọ cho
thân và tâm
khiến ra vô lượng vô biên chướng
ngại pháp,
vì chính các pháp mà tạo cho tâm
của chúng
ta bất an và nếu chúng ta không chủ
động điều
khiển được tâm thì tâm sẽ sanh ra
muôn ngàn
ác pháp khác để tạo thành nghiệp
lực và
nghiệp lực này sẽ tiếp tụ c tái sanh luân
hồi mãi
mãi trong muôn kiếp, muôn đời của
chúng ta.
Nghiệp lực này không phải một sanh
ra một, mà
một sanh mười, mười sanh trăm,
trăm sanh ra
vạn, vạn sanh ra triệu, v.v..
Hằng ngày
trong bốn oai nghi đi, đứng,
nằm, ngồi
của chúng ta, chúng ta đều quan sát
thân, thọ,
tâm, pháp xem coi có chướng ngại
pháp hay
không? Như trên đã dạy, nếu trên
bốn chỗ
này không có chướng ngại pháp thì
chúng ta
xem tâm đang phóng dật ở chỗ nào?
Thường tâm
không phóng dật là tâm định trên
thân, mà
tâm định trên thân thì tâm luôn biết
hơi thở ra
hơi thở vô một cách rất tự nhiên,
chứ không
bị ức chế hay bị bắt buộc phải tập trung trong hơi thở ra vô như các
loại thiền
khác. Đức
Phật đã xác định khi nào tâm
không phóng
dật là tâm định trên thân, tâm
định trên
thân tức là tâm định trên hơi thở,
tâm định
trên hơi thở là tâm chỉ biết có hơi
thở mà
thôi. Nơi đây chúng ta phải lưu ý, khi
tâm không
khởi niệm thì tâm hay phóng dật
theo các
pháp bên ngoài.
Ví dụ: Khi
tâm không có niệm thì tâm
thanh thản,
an lạc và vô sự, nhưng tâm không
định trên
hơi thở (Thân Hành Niệm nội) mà
lại phóng
tâm chạy theo các sắc pháp bên
ngoài thân,
như tâm cảm nhận cỏ, cây, trời,
mây, nước,
núi, sông, v.v.. nói chung là tâm
đang phóng
dật theo tất cả các hình ảnh của
sắc pháp.
Người tu Thiền Đông Độ đến chỗ
này họ
cảm thấy như tâm mình phủ trùm vạn
hữu, cho
nên Bàng Long Uẩn nói: “Dễ dễ dễ,
ý Tổ sư
trên mỗi đầu ngọn cỏ”, ngược lại
đức Phật
bảo chỗ này tâm còn phóng dật theo
các pháp
nên chưa được định.
Người tu
Định Vô Lậu câu hữu với Pháp
Niệm Xứ
thì phải lưu ý điều này, nếu để tâm
phóng ra
ngoại cảnh lang thang trời, trăng,
mây, nước
theo âm thanh sắc tướng bên ngoài
như Thiền
sư Ba Tiêu của Nhật Bổn theo âm thanh tiếng con nhái kêu hay tiếng con
ếch
nhảy,
tiếng nước kêu, đó là tâm đang phóng
dật theo
pháp chứ không phải tâm định, vì thế
người tu
thiền định của đạo Phật phải cảnh
giác điều
này, khi mà tâm đi lang thang phóng
dật như
vậy thì phải nhắc khéo cho tâm trở về
hơi thở như
đức Phật dạy: “Hít vô tôi biết tôi
hít vô,
thở ra tôi biết tôi thở ra”, nhưng
không được
ức chế nó mà phải để nó tự nhiên
định vào
hơi thở, chỗ này khi chúng chỉ cần
biết là
tâm đang phóng dật theo pháp trần thì
tâm định
ngay liền trên hơi thở, bởi vì tâm
không còn
khởi niệm nữa nên nó đã ly dục ly
ác pháp,
như chưa quen định trên hơi thở. Chỗ
này đức
Phật đã dạy: “Thì Định Niệm Hơi
Thở khéo
tác ý”.
Tóm lại,
Định Vô Lậu câu hữu với Tứ
Niệm Xứ
là một pháp môn thiền định dễ tu
nhất hơn
tất cả các pháp môn khác vì nó
không ức
chế tâm, không tập trung tâm vào
một chỗ
nó luôn luôn quan sát trong bốn chỗ
thân, thọ,
tâm, pháp, nếu có chướng ngại pháp
xâm chiếm
vào bốn chỗ này thì nó dùng tất cả
mọi sự
hiểu biết của các pháp ngăn ác, diệt ác
pháp đẩy
lui khiến cho tâm ở trong trạng thái
thanh tịnh
an lạc giải thoát. Nếu hằng ngày cứ giữ gìn pháp này tu tạâp thì
luôn luôn lúc nào
cũng có
sự giải thoát, kéo dài một phút sẽ giải
thoát một
phút, một giờ sẽ giải thoát một giờ,
một ngày
sẽ giải thoát một ngày, một tháng sẽ
giải thoát
một tháng. Sự giải thoát ấy tức là
tâm ly dục
ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp là
tâm thanh
tịnh, tâm thanh tịnh tức là tâm
thiền
định, cho nên thiền định mà không ức
chế tâm,
không tập trung tâm mà lại có thiền
định. Tu
chỉ có mục đích xả tâm tham, sân, si
mà lại có
thiền định thì thật là tuyệt vời, thiền
định lại
làm chủ sự sống chết và chấm dứt được
sự tái
sanh luân hồi.
Cho nên,
trong kinh Nguyên Thủy đức
Phật
thường nhắc đi nhắc lại nhiều lần để
chúng ta
lưu ý pháp môn này: “Này các Thầy
Tỳ Kheo,
đây là con đường độc nhất đưa
đến thanh
tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi
sầu não,
diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh
trí, chứng
ngộ Niết Bàn. Đó là Bốn Niệm
Xứ”. (Kinh
Niệm Xứ (Satipatthanasutta) trong
kinh Trung
Bộ tập 1 trang 131 thuộc tạng kinh
Pali).
Hầu hết
các nhà học giả không có kinh
nghiệm tu
hành trong Tứ Niệm Xứ nên dựa
theo sự
dẫn giải của đức Phật trong kinh mà không hiểu ý nghĩa của Phật
muốn nói gì trong
chín giai
đoạn quán thân trên thân như:
1/ Quán
niệm thân hành tướng nội (hơi
thở), tỉnh
thức trong hơi thở.
2/ Quán
thân hành tướng ngoại như đi,
đứng, nằm,
ngồi, nói, nín, co tay, duỗi tay ngó
tới, ngó
lui, mang bát, mặc y, v.v.. đó là tỉnh
thức trong
hành tướng ngoại thân.
3/ Quán
niệm thân hành tướng ngoại và
tướng nội
như: đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín,
hơi thở, v.v..
và tất cả các cảm giác xảy ra toàn
thể nội
ngoại thân hành, tỉnh thức trong mọi
hành động
thân nội ngoại tướng sanh diệt.
4/ Quán
thân bất tịnh để phá ngã chấp
thân là
của chúng ta.
5/ Quán
thân tứ đại duyên hợp để phá
chấp thân
là vật thường hằng.
6/ Quán
thân tử thi chết trương phồng hôi
thúi để
phá chấp thân là đẹp xinh thơm tho để
nhàm chán
sắc dục.
7/ Quán
thân tử thi bỏ trong nghĩa địa bị
các loài
cầm thú xé ăn và loài côn trùng dòi đục
khoét để
nhàm chán thân xa lìa sắc dục. 8/ Quán bộ xương còn nối với những
sợi
gân để
nhàm chán các pháp thế gian chẳng có
gì là bền
chắc.
9/ Quán bộ
xương trắng để tránh tâm sắc
dục và
nhàm chán các pháp thế gian.
Các nhà
học giả dựa theo chín pháp quán
thân trên
thân trong kinh Tứ Niệm Xứ mà hiểu
theo kiến
giải của mình rồi dạy người tu tập đã
biến pháp
môn Tứ Niệm Xứ thành một pháp
môn ức chế
và tập trung tâm quá căng thẳng,
khiến cho
mọi người tu tập thành bịnh các cơ
mặt và
thần kinh.
Các nhà
học giả đâu hiểu rằng Tứ Niệm
Xứ là bốn
nơi để cho hành giả quan sát tư duy
suy ngẫm
để đẩy lui tất cả các chướng ngại
pháp tức
là những pháp làm cho tâm bất an,
làm cho tâm
khởi ham muốn. Chín pháp quán
thân trên
thân thì có ba pháp tập tỉnh thức,
còn sáu
pháp xả các chướng ngại pháp để tâm
hoàn toàn
sống trong chánh niệm.
Người tu
Định Vô Lậu câu hữu Tứ Niệm
Xứ tức là
quan sát bốn chỗ thân, thọ, tâm,
pháp có
chướng ngại pháp liền tìm mọi cách
đẩy lui để
lúc nào tâm cũng thanh thản, an lạc
và vô sự
như trên đã dạy, đó là sự giải thoát.
Còn nếu
giải thích vòng vòng theo kinh Tứ Niệm Xứ thì chỉ có người tu chứng
mới hiểu
được ý
của đức Phật, còn người không tu chứng
sẽ lý
giải sai pháp khiến cho người đời sau tu
hành chẳng
có giải thoát mà còn rơi vào trạng
thái có
thể điên khùng bệnh tật, các sư một số
hệ phái
tưởng giải ra tu tập cho nên ông nào
cũng không
nhập định được chết một cách rất
là đau
khổ, không có vị nào làm chủ sự sống
chết được,
đó là kinh sách Nguyên Thủy mà các
Sư tu hành
còn như vậy, huống là kinh sách
phát
triển, Thầy nào Thầy nấy tu hành đến
khi sắp
chết đều nhe răng méo miệng khổ sở
vô cùng,
thật đáng thương! Đáng thương vô
cùng, lúc
còn mạnh tay khỏe chân thì luận
đông luận
tây dạy người tu hành tưởng mình
như là
Phật sống, không ngờ sự tu hành của
mình chưa
ngả về tới đâu mà vội mưa pháp
vọng ngữ
để giết hằng loạt người ham tu thiền,
ham tu có
thần thông, cuối cùng Thầy trò dẫn
nhau xuống
địa ngục mà không biết.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!