và tu tập
an trú cho được thì con sẽ đạt được
kết quả
như ý muốn.
ĐỊNH SÁNG SUỐT
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Những lúc nào
con tu Định
Sáng Suốt. Khi ngồi trên xe buồn
ngủ, hoặc
đang may vá buồn ngủ, con tu Định
Sáng Suốt
có được không?
Đáp: Được,
khi buồn ngủ con nên tu Định
Sáng Suốt,
tu Định Sáng Suốt là con phải đi
kinh hành
hoặc ngồi ám thị hướng tâm mạnh,
phải gằn
giọng như ra lệnh: “Phải tỉnh thức
sáng suốt
như ban ngày, không được buồn
ngủ nữa
như ban đêâm!”. Tốt hơn hết khi
buồn ngủ
thì con nên đứng dậy đi kinh hành,
nhưng con
ngồi trên xe hoặc đang may vá buồn
ngủ thì
không thể đi kinh hành được vậy chỉ
còn có
cách dùng pháp hướng tâm đuổi ma hôn
trầm mà
thôi.
Định Sáng
Suốt là một loại thiền định để
thư giãn
khi làm việc cũng như tu tập quá sức nên sanh ra mỏi mệt lười biếng
hôn trầm thùy
miên, v.v..
Sau mỗi
thời gian tu tập các loại định
khác thì
lại xen kẽ Định Sáng Suốt vào để thư
giãn thân
tâm trở về trạng thái bình thường,
khiến cho
thân tâm bớt căng thẳng, bớt mỏi
mệt và
thoải mái dễ chịu hơn. Người tu tập
thiền định
mà không biết dùng Định Sáng Suốt
thư giãn
thì càng tu tâm trí càng u tối, đần độn
ai bảo sao
nghe vậy chẳng biết phân biệt thiền
nào của
Phật và thiền nào của ngoại đạo.
Phần đông
hiện giờ tu sĩ cũng như cư sĩ
đều chịu
ảnh hưởng của kinh sách phát triển,
ngồi tu
thì ức chế tâm cho hết vọng tưởng họ
nghĩ rằng
hết vọng tưởng là thành Phật hay là
chứng ngộ
hoặc triệt ngộ, do đó có nhiều trường
hợp xảy
ra:
1/ Nếu
người tu tập có hệ thống thần kinh
tốt thì
không bị rối loạn, còn người tu tập có
thần kinh
yếu thì bị rối loạn và điên khùng.
2/ Nếu
người tu tập có hệ thần kinh tốt
không bị
rối loạn không điên khùng, nhưng vì
quá tập
trung ức chế tâm không vọng tưởng
nên nặng
đầu, các cơ mặt bị căng khiến cho
đau nhức
khó chịu hoặc các cơ hoành hoặc ngực tức lói làm cho sự tu tập có lùi
chứ không có
tiến.
3/ Nếu
người tu tập hệ thần kinh tốt và
các cơ
mặt, cơ hoành đều tốt thì không bị rối
loạn, không
bị căng đau nên ức chế ý thức
ngưng hoạt
động, ý thức ngưng hoạt động thì
tưởng thức
thay vào hoạt động, giống như người
ngủ có
chiêm bao, nhưng ở đây vì tu tập ức chế
nên con
người vẫn hoạt động bình thường
nhưng lại
ý thức không hoạt động nên tưởng
thức hoạt
động với mức độ bình thường thì
đương nhiên
người này có nhiều lý luận mơ hồ
trừu tượng
siêu hình vô vi mà đức Phật gọi
những hạng
người này là những hạng người
sống trong
tưởng tri như các nhà học giả, các
nhà thần
học, các nhà Đại Thừa như Long Thọ,
Thế Thân,
Vô Trước, Mã Minh, v.v.. và các
Thiền Sư
Đông Độ.
Còn tưởng
thức hoạt động ở mức độ cao
thì họ
sống hoang tưởng, nhưng họ chưa hẳn
điên thật
gần giống như người điên.
Đó là
những trường hợp xảy ra cho những
người tu
thiền ức chế tâm mà khôn g có phương
pháp thư
giãn, còn ngược lại thiền xả tâm của
đức Phật
tu hành không ức chế tâm mà còn có một loại định thư giãn như quý
vị đã biết, đó là
Định Sáng
Suốt.
Cách thức
tu tập Định Sáng Suốt có hai
giai đoạn:
- Giai đoạn
một:
Ví dụ,
lúc 7 giờ sáng bắt đầu chúng ta tu
Định Niệm
Hơi Thở đến 7g 30’ chúng ta xả ra
nghỉ, xả
nghỉ tức là thư giãn, thư giãn tức là tu
Định Sáng
Suốt. Muốn tu Định Sáng Suốt thì
chúng ta
phải ngồi tựa lưng, buông thõng hai
tay hai
chân, các cơ trong thân cũng phải đều
buông thõng
xuống hết rồi chúng ta hướng tâm
nhắc: “Các
cơ trong thân buông xuống hết,
thần kinh
trong thân đều thư giãn hết,
thân tâm
phải thoải mái, nhẹ nhàng,
thanh thản,
an lạc và vô sự”, khi nhắc như
vậy xong
thì ta buông thõng các cơ xuống
không được
gồng một cơ bắp nào cả và tâm thì
không được
tập trung vào một đối tượng nào,
để tự
nhiên cho thân tâm tự do một cách dễ
chịu.
- Giai đoạn
hai:
Ví dụ: khi
thân tâm thoải mái dễ chịu thì
chúng ta
hướng tâm nhắc: “Thân tâm phải thanh thản, an lạc và
vô sự, tâm
phải sáng suốt như ban ngày,
như ánh
sáng mặt trời”.
Trong thời
gian thư giãn, thỉnh thoảng
chúng ta
lại nhắc câu pháp hướng như trên, cứ
như vậy để
giúp cho thân tâm nhẹ nhàng thoái
mái cho
đến hết giờ thư giãn
Trong lúc
tu Định Sáng Suốt thư giãn như
vậy và
thân tâm cảm giác tỉnh táo nhẹ nhàng
thanh thản
an lạc và vô sự thì đó là tu đúng
bằng ngược
lại là tu sai.
Khi thư
giãn xong cơ thể phục hồi lại sức
khoẻ cảm
giác tỉnh thức và siêng năng ham tu,
còn ngược
lại thì tu sai, bây giờ tiếp tục tu
Định Chánh
Niệm Tỉnh Giác vừa đi kinh hành
vừa hướng
tâm tỉnh thức theo bước đi mà cũng
vừa hướng
tâm ly tham đoạn ác pháp.
Khi đi kinh
hành xong khoảng độ 30’
chúng ta
ngồi lại xả nghỉ và thư giãn như
trước, cứ
như vậy chúng ta tiếp tục tu tập suốt
ngày đêm
không biết mỏi mệt và càng tu càng
thấy tiến
bộ rõ rệt tức là thấy thân tâm an lạc,
thanh thản,
vô sự giải thoát rõ ràng. Riêng về
phần pháp
hướng thì thấy hiệu quả, cụ thể rõ
ràng hơn,
cứ ra lệnh là thân tâm làm theo như
ý muốn
của mình. Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
KHI TU XONG,
CỊN
THAM, SÂN,
SI NỮA KHƠNG?
Hỏi:Kính
thưa Thầy! Câu “vì vô minh
nên ta sống
viễn ly” có phải người sống viễn ly
như vậy tu
toàn pháp quán, tưởng, Định Vô
Lậu, tu
không có đối cả nh để buông xả, ly dục
ly ác
pháp…. nhưng khi ra giữa chợ, họ còn
thèm ăn, ai
chửi mắng họ còn có tức giận và
tham, sân,
si nữa hay không?
Đáp: “Vì
vô minh ta sống viễn ly”, Vô
minh là
không hiểu rõ, viễn ly là xa lìa.
Câu này
không có nghĩa bỏ cuộc đời sống
một mình
trong rừng núi như các nhà Yoga,
ông Nguyễn
Bỉnh Khiêm mà phải hiểu “Vì
thông hiểu
rõ các pháp nên các pháp đến
ta đều bỏ
xuống không cho dính mắc trong
tâm”.
Tu không
đối tượng không bao giờ có giải
thoát chỉ
là một dạng người yếm thế tiêu cực
trốn đời,
lánh khổ. Đạo Phật không chấp nhận
điều này
nên pháp môn hành thiền của Ngài,
Thiền Thứ
Nhất “ly dục ly ác pháp” diệt ngã xả
tâm quét
sạch ngũ triền cái, đoạn dứt thất kiết sử, chỉ khi nào tâm không
còn tham, sân, si,
mạn, nghi
nữa, thì mới sống độc cư trong rừng
núi một
mình để thực hiện những thiền định
sau cùng. Xưa
đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã
trải qua
nhiều kiếp tu hạnh “Nhẫn nhục”, “Tứ
vô lượng
tâm” (tu có đối tượng) đến kiếp cuối
cùng Ngài
mới thành Phật. Tu có đối tượng tức
là “Hoa sen
nở trong lò lửa”.
Người
tránh cảnh, tu để tiêu dao, thảnh
thơi an lạc
không ai quấy rầy là người yếm thế
như Lão
Trang (Tiên Đạo). Khi đụng đến đối
tượng, bao
nhiêu tâm phiền não vẫn còn đầy
đủ.
Đạo Phật
không yếm thế, ngay cảnh
phiền não,
giải quyết tâm mình, buông xả hay
viễn ly,
tức bồ đề (giải thoát).
“Vì vô minh
ta sống viễn ly”, câu này
theo như
các con hiểu khi tâm chúng ta còn
tham, sân,
si thì nên sống tránh xa mọi người,
tìm nơi
thanh vắng yên tịnh, để tu tập thiền
định đến
khi nhập các định xong, nhờ các định
sẽ quét
sạïch tâm tham, sân, si, điều này là ảo
tưởng con
ạ! Con nên nhớ trong Bát Chánh
Đạo, Chánh
Định không bao giờ đi trước
Chánh
Kiến, Chánh Tư Duy và Chánh Ngữ,
v.v.. Các
con nên nhớ, khi sống trong rừng núi
một mình
tâm chúng ta không bao giờ chịu cô
đơn, nó sẽ
tìm mọi cách lý luận.
Cho nên, khi
vào trong rừng núi ở tu một
mình tâm
sanh ra nhiều thứ chướng ngại khiến
cho chúng
ta bỏ hạnh độc cư thường hay thỉnh
thoảng đi
tới đi lui như sư cô..., sư Thầy... Còn
ngồi lỳ
trong thất tu hành mà không xả tâm
lại ức
chế tâm, nén tâm đến khi có pháp
chướng
ngại thì tâm nổi lên sân ầm ầm như
Minh Tông mà
các con là những người đã trực
tiếp chứng
kiến sự tu tập từ đầu đến cuối hoàn
toàn sống
cách ly suốt gần năm năm, thế mà
tâm Thầy
vẫn còn phiền não và sân hận như
người bình
thường chưa tu, rất uổng công tu tập
gần năm năm
trời một thời gian quá dài bây
giờ trở
về với một số “không”, chỉ còn có hình
thức tu
hành mà thôi, chứ xét nghiệm lại đức
hạnh thì
cũng không có mà thiền định thì lại
rơi vào
thiền tà giáo ngoại đạo của kinh sách
phát
triển, cho nên năm năm trời tu hành
chẳng ích
lợi cho mình và cho người, bây giờ
chỉ còn
nói vọng ngữ lừa đảo với thiên hạ mà
thôi.
“Vì vô minh
ta sống viễn ly”, hiểu như
các con đó
là sai, vì hiểu sai như vậy đã biến đạo Phật trở thành đạo yếm
thế, nhưng để
chứng minh
cho các con thấy, các huynh đệ của
các con đã
để lại một kinh nghiệm sai lầm quá
lớn “Vì vô
minh ta sống viễn ly”.
Xưa, có một
vị Hòa Thượng ở trong rừng
núi, ông
xin một đứa bé hài nhi đem về núi
nuôi dạy tu
hành, khi đứa bé đến tuổi trưởng
thành ông
đưa về thành phố nơi phồn hoa đô
hội “Ngựa
xe như nước áo quần như nê m”. Khi
vào thành
phố đứa bé thấy mọi vật cái gì cũng
đẹp cũng
lạ và nhất là phụ nữ thì cậu ta lại
càng thích
hơn và hỏi Thầy: “đó là con vật chi
thưa
Thầy?”.
Vị Thầy
trả lời: “Đó là con cọp”.
Cậu bé
hỏi: “Con cọp có dữ không thưa
Thầy? Sao
con thấy nó dễ thương quá vậy”.
Vị Thầy
trả lời: “Con cọp dữ lắm con ạ!
Nó sẽ ăn
thịt con đó, con đừng nên lại gần nó”.
Sau chuyến
đi thành phố này trở về núi,
cậu bé
không còn vui đùa hồn nhiên như trước,
luôn luôn
lúc nào cũng có chiều suy tư. Một
hôm cậu
thưa với Thầy: “Kính bạch Thầy! Xin
Thầy cho
phép con mua con cọp đó về nuôi
được không?
Sao con ưa thích nó quá”. Vị Thầy làm thinh không trả lời và suy tư:
“Tu hành
theo đạo Phật không thể tránh
cảnh mà
tâm thanh tịnh được, trực tiếp
trong mọi
cảnh và phải thấu suốt cản h
vật, có
trực tiếp, có thấu suốt thì mới
buông xả
được”, còn cậu bé này được cách ly
thế giới
bên ngoài từ lúc sơ sinh cho đến 18
tuổi chuyên
ngồi thiền niệm Phật tụng kinh
bái sám,
nhưng ngồi thiền, niệm Phật, tụng
kinh, bái
sám chẳng giúp gì cho cậu buông xả
được mà
ngược lại khi trực tiếp vào cảnh thì
cậu bị lôi
cuốn ngay từ lúc đầu “ái dục”.
Cho nên, câu
nói “Vì vô minh ta sống
viễn ly”
đó là lời nói sai không đúng. Đừng
hiểu lầm
theo kiểu kinh sách phát, trí tuệ từ
thiền định
sanh ra, điều này không đúng, người
ta cứ nghĩ
rằng khi tọa thiền, ngồi im lặng
thân tâm
bất động tức là tâm hết vọng tưởng
thì trí
tuệ sanh, hiểu như vậy là hiểu sai. Trí
tuệ được
phát triển từ chỗ quán xét tư duy đúng
đạo đức
nhân quả không làm khổ mình, khổ
người, còn
ngược lại tọa thiền ức chế tâm, tâm
không vọng
tưởng, từ trong sự yên lặng đó
tưởng tuệ
phát sanh, khiến cho từ xưa đến này
mọi nguời
đều lầm tưởng rằng tưởng tuệ là trí tuệ, cho nên kinh sách của các
Tổ viết ra đều
do tưởng
tuệ, chứ không phải trí tuệ.
Cái sai
thứ nhất của kinh sách phát triển
và Thiền
Tông là: Khi tâm hết vọng tưởng do
sự tập
trung ức chế ý thức mà cho là định thì
đó không
phải định của đạo Phật, mà định của
ngoại đạo.
Cái sai
thứ hai là: Trong chỗ hết vọng
tưởng phát
sanh sự hiểu biết, mọi người đều
lầm tưởng
cho sự hiểu biết đó là trí tuệ, sự thật
đó là
tưởng tri chứ không phải trí tuệ. Đức
Phật đã
xác định trí tuệ ở đâu thì giới luật ở
đó, mà
giới luật tức là đức hạnh, cho nên người
có đức
hạnh là người có trí tuệ, người có trí tuệ
là người
có đức hạnh.
Trí tuệ
hiểu biết những tưởng pháp như
hiểu biết
trong kinh sách phát triển là tưởng
tuệä, sự
hiểu biết đó không ích lợi cho mình cho
người, sự
hiểu biết đó chỉ là một hý luận. Từ
xưa đến
giờ các thiền sư dựng lên trò hý luận
“công án”
nói Đông trả lời Tây, nói Nam trả
lời Bắc
và còn hơn thế nữa là la, hét, chỉ, trỏ,
v.v..
Vì hiểu
không đúng nên mọi người khi nói
đến tu
thiền định thì ai ai cũng nghĩ rằng phải
tìm nơi yên
tịnh vắng vẻ để tu tập thiền định, chừng nào đắc định thì trí tuệ
phát sanh, trí
tuệ phát
sanh sẽ quét sạch tâm tham, sân, si
và các
chướng ngại pháp, do sự hiểu lầm lạc mà
người ta
đẻ ra câu kinh này: “Vì vô minh ta
sống viễn
ly”.
Thuần Tâm
là một hành giả Yoga, ông
biên soạn
và viết về các loại sách này có câu:
“Có thiền
định mới có trí tuệ, ngoài thiền
định không
có trí tuệ”. Nếu không có bài
kinh
Sonadanda trong kinh Nguyên Thủy thì
lấy đâu
chỉnh đốn sự sai lầm này.
Đạo Phật
lấy đức hạnh làm thanh tịnh trí
tuệ, lấy
trí tuệ làm thanh tịnh đức hạnh, do
vậy mà
người tu sĩ lấy đối tượng các chướng
ngại pháp
của cuộc sống đẩy lui khỏi tâm mình
bằng sự
triển khai trí tuệ vô lậu, cho nên câu:
“Vì vô minh
ta sống viễn ly”. Muốn hết vô
minh ta
phải sống viễn ly các ác pháp chứ
không phải
sống viễn ly là tránh né trốn đời,
trốn ác
pháp.
Khi mà
tránh né trốn đời, trốn ác pháp,
tìm nơi yên
tịnh, thanh vắng tu tập thiền định
của Đại
Thừa và thiền Đông Độ, khi triệt ngộ
xong có
nghĩa là họ đã thành một thiền sư
chánh
thức, khi họ xuống núi va chạm vào cuộc
đời thì
tâm tham, sân, si họ vẫ n còn đủ và có thể còn nhiều hơn nữa, bằng
chứng các thiền sư
Trung Hoa,
Nhật Bản, Việt Nam sống phạm
giới, phá
giới, sống ăn uống phi thời, chùa to
Phật lớn,
và mỗi vị Hòa Thượng tịch đều xây
tháp vĩ
đại, khiến cho hao tài tốn của, mang nợ
của đàn na
thí chủ quá nhiều, mà họ có làm lợi
ích được
những gì cho ai đâu.
Vào đầu
thế kỷ thứ 20 làn gió Thiền Tông
từ Nhật
Bản thổi sang Tây Âu làm dậy sóng và
thức tỉnh
Á Châu, nhưng bước sang đầu thế kỷ
thứ 21
Thiền Tông bắt đầu tuột dốc, vì người ta
đã tìm
thấy thực chất của nó là một trò hý luận
ảo tưởng.
Hai vị Thiền Sư lớn nhất của Việt
Nam là Hoà
Thượng Nhất Hạnh và Hoà
Thượng
Thanh Từ đã bắt đầu quay hướng về
những lời
dạy Nguyên Thủy của đức Phật, gần
đây những
bài giảng của hai Ngài rất gần với ý
kinh Tứ
Chánh Cần.
Tóm lại,
tu hành thiền định của đạo Phật,
không phải
chỗ ngồi thiền, tụng kinh, bái sám,
niệm chú,
niệm Phật, v.v.. mà ở chỗ ngăn ác
diệt ác
pháp và đẩy lui các chướng ngại pháp
trong tâm,
thì đó mới chính là tu thiền của đạo
Phật.
PHIỀN
NÃO TỨC BỒ ĐỀ
Hỏi:Kính
Thưa Thầy! Người tu có đối
tượng và
người tu không đối tượng, vậy người
nào tu mau
kết quả hơn?
Đáp: Người
tu có đối tượng kết quả xả
tâm nhanh
hơn, còn người tu không có đối
tượng kết
quả chậm hơn, nhưng phải biết nhiều
khi có đối
tượng tức là có chướng ngại pháp
trong tâm
mà không xả, chỉ có kham nhẫn chịu
đựng, cho
nên trong lòng rất buồn phiền và đau
khổ, đó
là tu có đối tượng lại ức chế tâm thành
ra tạo khổ
thêm cho mình chứ không có giải
thoát. Tu
có đối tượng dễ nhận xét được tâm
mình xả
hay là ức chế rất rõ ràng, còn tu
không có
đối tượng, nên không biết mình có xả
được
chướng ngại pháp trong tâm không, lúc
nào cũng
thấy tâm hồn mình yên tịnh nhưng
sự yên
tịnh đó là sự yên tịnh không có đối
tượng.
Trong đạo
Phật lấy hạnh đi xin từng
miếng,
từng nhà để sống tức là tạo đối tượng
diệt ngã
xả tâm ly dục ly ác pháp, nhờ đi xin
ăn nên va
chạm với mọi giới trong xã hội, do
đó mới rõ
thấu được tâm mình có xả hay không xả, bất động hay bị động, vì thế
sự tu tập có
đối tượng
dễ tu tập hơn là không có đối tượng.
Hạnh đi xin
ăn là một pháp môn tu xả tâm có
đối tượng
rất tốt; hạnh đi xin ăn được mọi
người cung
kính khen tặng cũng nhiều, nhưng
chê bai
khinh bỉ cũng không ít.
Cho nên, tu
sĩ đạo Phật không thể sống
một mình
mà sống chung trong tập thể, sống
chung trong
tập thể nhưng lại sống một mình
vì phòng
hộ sáu căn nên ít tiếp duyên với mọi
người để
không tạo chướng ngại pháp trong
tâm của
người khác, còn những người khác
thường hay
tạo chướng ngại pháp trong tâm
của mình
thì mình phải quán xét tư duy quét
sạch những
chướng ngại pháp đó ra khỏi tâm
mình, hằng
ngày nên nhớ tu Tứ Niệm Xứ để
khắc phục
tham ưu, đó là tu trên bốn chỗ:
1/ Nơi thân.
2/ Nơi thọ.
3/ Nơi tâm.
4/ Nơi các
pháp.
Hiện giờ
các con tu tập quán xét về nơi
các pháp
nhiều nhất, pháp thiện và pháp ác,
pháp ác
luôn luôn dồn dập tới tấp nếu các con
không đủ
sức kham nhẫn, không đủ nghị lực chịu đựng, không đủ tri kiến giải
thoát và
không đủ
trí tuệ nhân quả, thì các con phải bỏ
cuộc tu
hành như các bạn của các con, trong
bốn nơi tu
tập này các con chỉ cần tu xả được
một nơi là
các con đã xả được tâm tham, sân, si
của mình
chứ không phải các con tu hết bốn
chỗ, hoàn
cảnh của các con là tu nơi các pháp.
Đẩy lui
chướng ngại pháp trong tâm của các
con là các
con đã chiến thắng các ác pháp bên
ngoài. Khi
các con chiến thắng các ác pháp bên
ngoài là
tâm các con bất động, đó là một loại
thiền định
mà đức Phật gọi là Bất Động Tâm
Định nó
còn có một cái tên nữa là Vô Tướng
Tâm Định.
Muốn chiến
thắng nơi các pháp thuộc về
Tứ Niệm
Xứ như ở trên Thầy đã dạy:
1/ Phải
đầy đủ sức kham nhẫn.
2/ Phải có
nghị lực dũng mãnh.
3/ Phải
đầy đủ tri kiến giải thoát.
4/ Phải có
trí tuệ nhân quả.
Khi các
pháp ác dồn dập tới tấp như bão
tố, sóng
thần nếu chúng ta không đủ sức kham
nhẫn thì
chúng ta sẽ bị bão tố và sóng thần
cuốn trôi
đi. Muốn có đủ sức kham nhẫn để
không bị
bão tố và sóng thần thổi cuốn trôi, thì hằng ngày chúng ta nên tu
tập pháp hướng
tâm: “Tâm
bất động như núi đá, khen
không mừng,
chê không buồn, chửi mắng,
mạ nhục
không giận phải trơ trơ như
tường đồng
vách sắt”, với những câu hướng
tâm này
các con cần phải thuộc lòng và phải
luyện tập
cho có lực, khi gặp các pháp ác đến
tới tấp
thì các con mới đủ sức kham nhẫn vượt
qua và
cuối cùng các con mới xả được.
Nếu là tu
pháp xả tâm mà tu không đúng
cách thức
xả tâm khi ở một mình thì lại bị ức
chế tâm mà
không biết, trường hợp như quý
Thầy và
quý Cô và quý cư sĩ thích sống độc cư
mà độc cư
không trọn vẹn, độc cư không đúng
cách, khi
độc cư không trọn vẹn, không đúng
cách trở
thành ích kỉ, lười biếng, ăn không
ngồi rồi,
tưởng là mình tu tập xả tâm, nhưng
không ngờ
lại ức chế tâm.
Các con nên
lưu ý điều này trên bước
đường tu
tập, khi tâm còn phóng dật mà vội
khép mình
độc cư một trăm phần trăm thì đó
là ức chế
tâm. Cho nên, có nhiều người nhập
thất chuyên
ngồi thiền, hoặc niệm Phật, hoặc
niệm chú,
tưởng thực hành như vậy là sẽ nhập
định và
khi có thiền định thì sẽ có trí tuệ,
nhưng không
ngờ sống một mình tu như vậy là ức chế tâm, ức chế tâm là rơi vào
tưởng tuệ, do
tưởng tuệ
phát sanh nên bản ngã càng lớn, bản
ngã càng
lớn thì tâm tham, sân, si càng nhiều,
như vậy là
tu sai pháp của đức Phật lọt vào tà
pháp của
ngoại đạo.
Khi tâm hết
phóng dật là tâm đã ly dục ly
ác pháp,
tâm đã ly dục ly ác pháp nên lúc nào
tâm cũng
định vào thân, nếu thân bất động thì
nó định
vào sự bất động của thân, nếu thân còn
động thì
nó sẽ định vào sự động của thân, do
đó khi nó
định vào thân, thân đi thì nó biết
thân đi,
thân làm thì nó biết thân làm, thân
ngồi thì
nó biết thân ngồi, thân thở thì nó biết
thân thở,
nó biết hơi thở ra và hơi thở vô, thân
nằm thì
nó cũng biết thân nằm.
Chỗ này
các con nên lưu ý phân biệt cho
rõ ràng,
khi tâm không phóng dật thì tâm
thanh tịnh,
tâm thanh tịnh thì tâm định trên
ba nơi:
1/ Nếu thân
đi hay làm việc gì thì tâm
định nơi
hành động đi hoặc nơi hành động việc
làm.
2/ Nếu thân
ngồi hay nằm thì tâm định
nơi hơi thở
vô, hơi thở ra. 3/ Nếu thân không hoạt động, không thở
vô thở ra
thì tâm định trên thân bất động của
nó chứ nó
không có phóng tâm chạy theo các
pháp bên
ngoài.
Cho nên,
người tu có đối tượng cũng như
người tu
không có đối tượng đều do sự tu tập
đúng hay
sai, có đối tượng mà nén tâm chịu
đựng, ôm
ắp đau khổ trong lòng mà không nói
ra được
tức là ức chế tâm, có đối tượng mà tu
như vậy
cũng không có kết quả chỉ là làm khổ
thân tâm
của mình mà thôi, tu có đối tượng mà
quyết tâm
tìm đường giải thoát, nhất định xả
bỏ các ác
pháp gây chướng ngại cho tâm thì
người ấy
tu mau, vì tâm như cục đất họ đã giải
thoát trong
mọi ác pháp, họ còn mang thân
người nhưng
tâm họ là tâm của bậc Thánh (bất
động).
Tu có đối
tượng dễ nhận được tâm mình
phàm hay
Thánh rất dễ dàng và cũng dễ nhận
ra mình có
ức chế tâm hay không rất cụ thể.
Tu không có
đối tượng rất khó nhận ra
tâm mình
phàm hay Thánh và cũng rất khó
nhận ra tu
có ức chế tâm hay không, khi mà
nhận ra
được thì thân tâm đã thành bệnh và
phí uổng
một cuộc đời tu hành. Hầu như những
người tu
không có đối tượng phần nhiều là tu sai đều bị ức chế tâm như kinh
sách phát triển
dạy.
Tóm lại,
tu có đối tượng, mà có nhiệt tâm,
quyết xả
bỏ các chướng ngại pháp, thường dẫn
tâm vào
chỗ thanh thản, an lạc và vô sự thì tu
rất nhanh,
cho nên kinh dạy: “Phiền não tức
bồ đề”,
nơi đâu có chướng ngại pháp thì nơi đó
có giải
thoát, nơi đâu có phiền não, có đau khổ
thì nơi đó
có giải thoát, có giải thoát tức là có
tu, còn nơi
đâu không có chướng ngại pháp thì
nơi đó
không có giải thoát, coi chừng bị ức chế
tâm, tu mà
muốn sung sướng nuông chiều, yên
tịnh an ổn
thì nơi đó chỉ là tránh né , trốn chạy
chướng
ngại pháp, người tu mà cầu mong như
vậy thì đi
tu chỉ uổng công mà thôi, phí một
đời chẳng
ích gì cho mình, cho người mà còn ăn
bám vào
người khác.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!