với một
pháp môn nào phù hợp với đặc tướng
của mình
rồi lấy đó thực hành áp dụng vào
cuộc sống
hằng ngày để xây dựng cho mình có
một đạo
đức làm người mà không làm khổ
mình, khổ
người, đây là niệm pháp bất hoại
tịnh.
Đây, chúng
ta hãy lắng nghe một đoạn
kinh mà
đức Phật đã dạy niệm Pháp: “Lại
nữa này
Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm
Pháp:
“Pháp được Thế Tôn khéo thuyết,
thiết thực
hiện tại, không có thời gian,
đến để mà
thấy, có khả năng hướng
thượng,
được những bậc trí tự mình giác
hiểu!”.
Này Mahànàma, trong khi vị
Thánh đệ
tử tùy niệm Pháp, trong khi ấy,
tâm không
bị tham chi phối, không bị sân
chi phối,
không bị si chi phối; trong khi ấy
tâm vị ấy
được chánh trực, nhờ dựa vào
Pháp. Và
này Mahànàma, Thánh đệ tử với
tâm chánh
trực, được nghĩa tín thọ, được
pháp tín
thọ, được hân hoan liên hệ đến
pháp.
Người có hân hoan nên hỷ sanh.
Người có
hỷ nên thân được khinh an. Với
thân khinh
an, vị ấy cảm giác lạc thọ.
Người có
lạc thọ, tâm được định tỉnh. Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử
này được
nói như sau: “Với mọi người
không bình
thản, vị ấy sống bình thản. Với
mọi người
có não hại, vị ấy sống không
não hại.
Nhập được pháp lưu, đó là vị ấy
tu tập
niệm Pháp”. (Kinh Tăng Chi tập 3 trang
18)
NIỆM TĂNG
Niệm Tăng
như thế nào?
Nếu theo
kinh sách của các nhà học giả Tổ
sư giáo
pháp phát triển dạy: “Nam Mô Tăng”
và cứ như
vậy mà niệm thì dù có tu trăm muôn
ngàn kiếp
thì thân tâm này cũng chẳng thanh
tịnh, Nam
Mô Tăng như vậy là một pháp ức
chế tâm
khiến cho tâm bị dồn nén tham, sân,
si, mạn,
nghi, càng tu thì tâm này càng tham,
sân, si dữ
tợn khi gặp chướng ngại pháp.
Muốn tu
pháp niệm Tăng cho đúng thì
trước tiên
phải chọn những vị Tăng nghiêm trì
giới luật,
Những vị Tăng nghiêm trì Giới luật
là những
vị sống thiểu dục tri túc, ba y một bát, sống không có chùa to Phật
lớn, sống xa
lìa những
vật chất tiện nghi đầy đủ, sống
không có ăn
mặc sang đẹp, sống thường đi xin
từng miếng
mà ăn, số ng không cất giữ tiền bạc
của cải
tài sản, thường lấy gốc cây làm giường
nằm, sống
ngày một bữa không có ăn uống phi
thời.
Chọn được
những vị Tăng như vậy chúng
ta tôn kính
những bậc này và xin họ làm Thầy.
Từ đây
chúng ta có ngọn đuốc soi đường, hằng
ngày ta
quan sát tư duy qua gương Thánh hạnh
đạo hạnh
của họ và chúng ta tập sống như họ,
để biết
nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, để
biết đẩy
lui các chướng ngại pháp trong tâm, để
biết thương
yêu hòa hợp với mọi người, để biết
chịu phần
thiệt về mình luôn luôn bắt chước
các đức
hạnh của chúng Tăng, sống theo gương
Thánh đức
của chúng Tăng. Ngược lại , những vị
Tăng phá
giới, phạm giới, bẻ vụn giới thì chúng
ta xem họ
như những tu sĩ Bà La Môn không
đáng cho
chúng ta cung kính và cúng dường.
Tư duy quán
xét những đức hạnh sống của
chúng
Thánh Tăng để lấy đó làm gương sống tu
tập ly dục
ly ác pháp, đó mới chính là chúng ta
niệm Tăng.
Niệm Tăng như vậy có ích lợi cho
mình, cho
người rất lớn sẽ không làm khổ mình, khổ người; niệm Tăng như vậy
thân tâm
mới thanh
tịnh; niệm Tăng như vậy mới gọi là
niệm Tăng
Bất Hoại Tịnh.
Đây là lời
đức Phật dạy chúng ta cách
thức niệm
Tăng: “Lại nữa này Mahànàma,
Thánh đệ
tử tùy niệm Tăng: “Diệu hạnh là
chúng đệ
tử Thế Tôn. Trực hạnh là chúng
đệ tử của
Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng
đệ tử của
Thế Tôn. Chánh hạnh là chúng
đệ tử của
Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám vị.
Chúng đệ
tử Thế Tôn này đáng được cung
kính, đáng
được tôn trọng, đáng được
cúng dường,
đáng được chấp tay, là vô
thượng
phước điền ở đời”. Này Mahànàma,
trong khi
Thánh đệ tử tùy niệm chúng
Tăng, trong
khi ấy, tâm không bị tham chi
phối, không
bị sân chi phối, không bị si
chi phối,
trong khi ấy tâm vị ấy được
chánh
trực, nhờ dựa vào tùy niệm chúng
Tăng. Và
này Mahànàma, một vị Thánh đệ
tử, với
tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ,
được pháp
tín thọ, được hân hoan liên hệ
đến chúng
Tăng. Người có hân hoan nên
hỷ sanh.
Người có hỷ nên thân được khinh
an. Với
thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc
thọ. Người
có lạc thọ tâm được định tỉnh. Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử
này, được
nói như sau: “Với mọi người
không bình
thản, vị ấy sống bình thản. Với
mọi người
có não hại, vị ấy sống không
não hại.
Nhập được pháp lưu, đó là vị ấy
tu tập
niệm chúng Tăng”. (Kinh Tăng Chi tập
3 trang 19)
NIỆM GIỚI
Niệm Giới
như thế nào?
Nếu chúng
ta theo cách dạy của kinh sách
phát triển
rồi niệm Giới bằng cách mỗi nửa
tháng một
kỳ ngày 14 hoặc ngày 30 tập trung
nhau lại
tụng Giới đó là cách thức của họ niệm
Giới, niệm
Giới như vậy dù một triệu kiếp tu
hành Giới
luật cũng không nghiêm trì thanh
tịnh được.
Họ đâu
biết rằng Giới luật là hành động
sống đạo
đức của một vị Thánh Tăng, Thánh
Ni, nếu họ
tụng Giới luật suông như vậy thì
không có ý
nghĩa và lợi ích gì cả, đó chỉ là hình
thức che
đậy sự phá giới của họ. Cho nên, hầu hết các Thầy hệ phái phát
triển niệm
Giới như vậy đều sống phá giới,
phạm giới,
bẻ vụn giới.
Họ hiểu
không đúng pháp Tứ Bất Hoại
Tịnh nên
thực hành sai, do thực hành sai mà
thân tâm ô
nhiễm không thanh tịnh, cuối cùng
tu Tứ Bất
Hoại Tịnh mà thành Tứ Hoại Tịnh,
không có
giải thoát chút nào. Vậy, niệm Giới
như thế
nào cho đúng?
Muốn niệm
Giới cho đúng thì phải học
giới luật
cho thông suốt, khi Giới luật đã học
thông suốt
thì chúng ta quán xét và tư duy
những đức
hạnh nào của giới dạy về đạo đức
làm Người
và những giới luật nào dạy về giới
đức làm
Thánh. Chúng ta đã hiểu rõ các đức
hạnh của
giới xong, thì từ đó hằng ngày chúng
ta quyết
tâm phải sống cho đúng những đạo
đức làm
Người và làm Thánh, nhờ có quán sát
và tư duy
như vậy nên sống đúng giới luật
nghiêm túc,
do sống đúng giới luật nghiêm túc
nên thân tâm
thanh tịnh ly dục ly ác pháp.
Người tư
duy quán sát và sống đúng giới
luật như
vậy nên gọi là niệm Giới Bất Hoại
Tịnh, niệm
như vậy mới gọi là niệm Giới chứ
không phải
niệm Giới theo kiểu hệ phái phát
triển tụng
một bài Giới là xong, niệm Giới như vậy, gọi là niệm Giới Đại
Thừa, chứ không phải
niệm Giới
Bất Hoại Tịnh.
Đây, chúng
ta hãy lắng nghe đức Phật dạy
niệm Giới:
“Lại nữa này Mahànàma, Thánh
đệ tử tùy
niệm các giới của mình: “Giới
không bị
bẻ vụn, không bị sứt mẻ, không
bị vết
chấm, không bị uế tạp, đưa đến giải
thoát,
được người trí tán thán, không bị
chấp thủ,
đưa đến thiền định”. Này
Mahànàma,
trong khi Thánh đệ tử tùy
niệm Giới,
trong khi ấy, tâm không bị
tham chi
phối, không bị sân chi phối,
không bị si
chi phối, trong khi ấy, tâm vị
ấy được
chánh trực, nhờ dựa vào Giới. Và
này
Mahànàma, một Thánh đệ tử, với tâm
chánh
trực, được nghĩa tín thọ, được pháp
tín thọ,
được hân hoan liên hệ đến giới
pháp.
Người có hân hoan nên hỷ sanh.
Người có
hỷ, nên thân được khinh an. Với
thân khinh
an, vị ấy cảm giác lạc thọ.
Người có
lạc thọ, tâm được định tỉnh.
Này
Mahànàma, về vị Thánh đệ tử
này, được
nói như sau: “Với mọi người
không bình
thản, vị ấy sống bình thản. Với
mọi người
có não hại, vị ấy sống không
não hại.
Nhập được pháp lưu, đó là vị ấy tu tập niệm Giới”. (Kinh Tăng Chi
tập 3
trang19)
Đây là một
trong những bài kinh, để xác
chứng lời
đức Phật dạy như vậy mà các Tổ dám
cả gan dạy
sai, khiến cho người đời sau tu tập
sai lạc,
đó là các Tổ dạy sai pháp của đức Phật,
còn những
pháp các Tổ bịa đặt ra cũng đều gán
cho là đức
Phật thuyết. Bởi vậy, từ 25 thế kỷ
nay người
ta tu theo đạo Phật chứ kỳ thật là
người ta tu
theo Đạo của các Tổ, cho nên hằng
triệu vạn
người tu hành mà chẳng có ai làm
chủ sanh,
già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Con nên
nhớ, nếu con quyết tâm tu hành
tìm cầu
sự giải thoát của đạo Phật, thì chỉ cần
tu Tứ Bất
Hoại Tịnh con cũng đã thành tựu
viên mãn
con đường tu tập có nghĩa là con sẽ
làm chủ
bốn sự khổ đau của kiếp người: sanh,
già, bệnh,
chết và chấm dứt luân hồi, thì cần gì
con phải tu
các pháp môn khác.
Còn nói
con tu Tứ Bất Hoại Tịnh câu hữu
với Định
Vô Lậu là vì con tư duy, quán xét, suy
ngẫm về
Phật, Pháp, Tăng và Giới để con thực
hiện sống
cho đúng như Phật như Pháp, như
chúng
Thánh Tăng và như Giới luật đã dạy, để
không hề vi
phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, đó là
cách thức
quét sạch lậu hoặc trong con nên mới
gọi là câu
hữu với Định Vô Lậu, chứ kỳ thực con không có tu Định Vô Lậu mà tu
Tứ Bất
Hoại Tịnh.
Tóm lại,
một người quyết tâm tu hành để
tìm cầu
sự giải thoát thì chỉ cần tu Tứ Bất Hoại
Tịnh thì
cũng đủ sự giải thoát rồi đâu cần gì
phải tu
nhiều thứ cho mệt.
Ví dụ:
mình quyết sống như Phật thì khi
gặp chướng
ngại pháp trong tâm, chúng ta
nhất định
không sân, không phiền não, không
đau khổ,
sống và làm y như Phật thì ngay đó
thân tâm
thanh tịnh hay nói cách khác là tâm
bất động
trước các ác pháp. Tu hành chỉ có như
vậy mà
thôi, thế mà chẳng ai làm được cả.
Pháp môn
Tứ Bất Hoại Tịnh là một pháp
môn hay
tuyệt vời, nếu một người quyết tử tu
tập thì
sẽ có kết quả ngay liền, không còn phải
chờ đợi
kéo dài từ năm này đến tháng kia hoặc
năm khác.
TU ĐỊNH HIỆN
TẠI AN LẠC TRÚ
Hỏi:Kính
thưaThầy! Định Hiện Tại
An Lạc
Trú, con chỉ tu 30’ thường hướng tâm:
“Sáu căn
phải tập trung tại tụ điểm nghe hơi thở và nhìn hơi thở”. Rồi con
lại tiếp tục hướng
tâm nữa:
“Hơi thở phải chậm và nhẹ”. Con thấy
hơi thở con
càng lúc càng chậm, càng nhẹ dần.
Nhờ con tu
ít lại nên hôn trầm cũng bớt nhiều,
tu như vậy
có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Đúng,
Định Niệm Hơi Thở con tu
như vậy
rất tốt. Khi hơi thở nhẹ và chậm, tâm
yên lặng
và bám chặt vào hơi thở thì con hãy
tiếp tục
hướng tâm vắng lặng. Thỉnh thoảng và
nhẹ nhàng
thoáng hướng tâm như lý tác ý:
“Nhĩ thức
hãy nghe vào trong và nằm yên
như ngủ,
không được nghe ra ngoài”.
Nếu khoảng
thời gian này con chỉ cần kéo
dài 30’ là
cao nhất, không nên kéo dài thêm
nữa, vì
kéo dài thêm nữa con sẽ rơi vào trạng
thái tĩnh
lặng và khi rơi vào trạng thái tĩnh
lặng thì
rất là nguy hiểm, vì từ trạng thái tĩnh
lặng sẽ
phát sinh sáu loại tưởng đầu tiên:
1- Xúc
tưởng hỷ lạc, là một cảm giác an
lạc thích
thú của xúc tưởng.
2- Sắc
tưởng là thấy ánh sáng hào quang
hoặc thấy
hình ảnh chư Phật chư Tổ, ma quỷ
v.v..
3- Thinh
tưởng là nghe âm thanh hoặc
tiếng nói
trong tai v.v.. 4- Hương tưởng là cảm giác mùi thơm bay
phảng
phất.
5- Vị
tưởng là cảm giác nước miếng ngọt
và đang
tiết ra trong miệng.
6- Pháp
tưởng là hiểu thông suốt 1700
công án
Thiền Tông và các loại kinh tưởng Đại
Thừa.
Khi hành
giả tu hành, gặp sáu loại tưởng
này thì
bản ngã to lớn vĩ đại, kiến chấp sâu
dày rất
khó bỏ.
Định Hiện
Tại An Lạc Trú là một tên gọi
chung cho
bốn loại Thiền Định Vô Thượng Tâm
của Phật
giáo là:
1- Sơ
Thiền.
2- Nhị
Thiền.
3- Tam
Thiền.
4- Tứ
Thiền.
Khi nhập
vào bốn loại thiền định này
trong hiện
tại có sự an lạc, cho nên gọi là Hiện
Tại An Lạc
Trú Định. Nhập vào bốn loại thiền
định này
là phải tu hai loại định Thân Hành
Niệm nội
(hơi thở) và Thân Hành Niệm ngoại
(hành động
bên ngoài của thân). Trong bốn loại thiền định này, có một loại
định rất
khó tu tập nhất, đó là Sơ Thiền. Sơ
Thiền là
một loại thiền xả tâm, nếu hành giả
tu hành
không biết chỉ cần sơ sót là rơi vào
thiền ức
chế tâm, thì chẳng bao giờ nhập Sơ
Thiền
được.
Người muốn
nhập Định Hiện Tại An Lạc
Trú này
thì phải nghiêm trì và sống đúng giới
luật không
hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt, luôn
luôn lúc
nào cũng phải phòng hộ sáu căn giữ
gìn mắt,
tai, mũi, miệng, thân và ý của mình
không cho
dính mắc sáu trần: sắc, thinh,
hương, vị,
xúc, pháp. Vả lại, còn phải chấp
nhận hạnh
thiểu dục tri túc, sống đúng đời
sống phạm
hạnh của một vị Thánh Tăng thì
mới thực
hiện được Hiện Tại An Lạc Trú Định.
Nếu không
sống đúng một đời sống Phạm
hạnh thì
khó mà nhập được các loại định này,
vì cánh
cửa Sơ Thiền đóng rất kín nếu kẻ nào
phạm giới,
phá giới, bẻ vụn giới thì chỉ còn
đứng ngoài
cửa chứ không được vào. Tại sao
vậy?
Tại vì
Giới luật còn vi phạm thì thân tâm
không thanh
tịnh, thân tâm chưa thanh tịnh
thì tâm
chưa ly dục ly ác pháp, tâm chưa ly dục
ly ác pháp
thì không thể nào vào cửa Sơ Thiền được, không vào cửa Sơ Thiền được
thì khó mà
nhập Nhị
Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền. Như
vậy Hiện
Tại An Lạc Trú Định khó mà bước
vào được.
Theo sự
trình bày tu tập của con là Định
Niệm Hơi
Thở, chứ không phải Định Hiện Tại
An Lạc Trú
đó là giai đoạn thứ nhất trong sự
tu tập
tỉnh thức của Định Niệm Hơi Thở để
tỉnh thức
xả tâm ly dục ly ác pháp, khi xả tâm
ly dục ly
ác pháp hoàn toàn thì đó mới bắt đầu
nhập vào
Định Hiện Tại An Lạc Trú. Ở đây,
con chỉ tu
mới được phân nửa thuộc về tỉnh
thức, còn
phân nửa thuộc về xả tâm thì hiện
giờ con
phải áp dụng vào phương pháp quán
xét Tứ
Niệm Xứ tức là tư duy suy ngẫm bốn
chỗ: Thân,
thọ, tâm và các pháp, xem trên bốn
chỗ này
có chướng ngại pháp hay không, nếu
không
chướng ngại pháp thì con nên để tâm tự
nhiên biết
hơi thở ra vào chứ đừng bắt buộc
hay ức chế
tập trung tâm vào hơi thở.
Định Hiện
Tại An Lạc Trú không khó
nhập, nếu
một người ngộ lý mười hai nhân
duyên, thông
suốt thế giới các pháp đều do
duyên hợp
mà thành, do đó trên thế gian này
không có
một pháp nào thường hằng vĩnh viễn,
dù cho ai
muốn giữ gìn cũng không được. Có vật chất càng nhiều thì càng khổ,
cho nên càng
xả bỏ ra
thì càng giải thoát, xả nhiều giải thoát
nhiều, xả
ít giải thoát ít, xả hết thì hoàn toàn
giải
thoát. Vì thế, đời sống phạm hạnh của một
vị Thánh
Tăng chỉ còn ba y một bát, sống
không nhà
cửa không gia đình, đó là giải thoát
hết, nên
đời sống của một vị Thánh Tăng là
đời sống
buông xả, đời sống giải thoát.
Phần nhiều
tu sĩ và cư sĩ thời nay sống
Phạm hạnh
bằng hình thức bên ngoài mà trong
tâm thật
sự chưa xả, có nghĩa là trong tâm
chưa nhàm
chán thế gian, chưa thấy mười hai
duyên hợp
thật sự nên còn ham thích cái này,
cái nọ.
Tâm chưa
nhàm chán các pháp thế gian
thì khó
mà nhập được Hiện Tại An Lạc Trú
Định. Tuy
rằng theo đường dây hơi thở mà
nhập các
loại định này, nhưng không nhàm
chán các
pháp thế gian thì không bao giờ nhập
được.
Định Hiện
Tại An Lạc Trú phải theo
đường dây
hơi thở mà vào, chúng ta hãy lắng
nghe đức
Phật dạy trong kinh Nikaya: “Này
các Thầy
Tỳ Kheo! Ta trước khi chưa giác
ngộ, chưa
chứng chánh đẳng giác, còn là
Bồ Tát.
Này các Thầy Tỳ Kheo! Do Ta tu tập
nhiều với
pháp môn này thân ta và con
mắt không
có mệt nhọc và tâm Ta được
giải thoát
khỏi các lậu hoặc không có
chấp thủ”.
Đoạn kinh
trên, đức Phật chỉ cho chúng ta
thấy, do
khéo tu Hiện tại An Lạc Trú Định,
thân và con
mắt không có mỏi mệt, tâm được
giải thoát
khỏi các lậu hoặc và không có còn
chấp thủ,
nhưng phải do đường dây hơi thở mà
tu tập,
đường dây hơi thở mà đức Phật còn gọi
là Định
Niệm Hơi Thở và pháp hướng tâm.
“Do vậy
này các Thầy Tỳ Kheo! Nếu các
Thầy muốn
rằng: “Thân và con mắt khỏi
bị mỏi
mệt và tâm được giải thoát khỏi các
lậu hoặc,
không có chấp thủ” thì Định
Niệm Hơi
thở vô, hơi thở ra cần phải khéo
tác ý”.
Cần phải
khéo tác ý hơi thở vô hơi thở ra
như thế
nào và thân và con mắt không có mỏi
mệt, còn
tâm thì được giải thoát khỏi các lậu
hoặc không
có chấp thủ, chấp thủ ở đây có
nghĩa là
ức chế vọng tưởng. Hầu hết mọi người
tu về Định
Niệm Hơi Thở đều không hiểu chỗ
này, cho
nên tu tập hơi thở thành ức chế tâm như pháp Sổ Tức Quán và Lục
Diệu Pháp Môn
của các
hệ phái phát triển.
Chúng ta
hãy trở về Định Niệm Hơi Thở
trong bài
kinh Xuất Tức Nhập Tức thuộc kinh
Nikaya Trung
Bộ: “Hít vô tôi biết tôi hít vô,
thở ra tôi
biết tôi thở ra”, đó là câu hướng
tâm theo hơi
thở để tâm không bị ức chế vọng
tưởng mà
được nhẹ nhàng tự nhiên hơn, cho
nên thân và
con mắt không có mỏi mệt, tâm
thì được
giải thoát khỏi các lậu hoặc, không bị
ức chế.
Đây, chúng ta nghe tiếp bài kinh Xuất
Tức Nhập
Tức: “Quán ly tham tôi biết tôi hít
vô, quán ly
tham tôi biết tôi thở ra”. Do sự
tu tập
khéo tác ý như vậy nên sự tu tập đạt
được theo
ý muốn của mình.
Nếu chúng
ta muốn cho tâm được thanh
thản, an
lạc và vô sự tức là đoạn tận vọng
tưởng không
còn xen vào trong tâm mà thân
tâm không
bị ức chế thì chúng ta cũng nương
theo hơi
thở và tác ý như vậy: “Do vậy này
các Thầy
Tỳ Kheo! Nếu các Thầy muốn
rằng các
niệm các tư duy được đoạn tận”
thì Định
Niệm Hơi Thở vô, hơi thở ra này
cần phải
khéo tác ý”.
Nếu trong
đời tu hành của chúng ta còn
dính mắc
một điều gì không buông xả được cũng như không nhàm chán các pháp
thế gian
tâm vẫn
còn ham thích thì chúng ta cũng nên
dùng Hiện
Tại An Lạc Trú Định mà tu tập theo
pháp hướng
tâm như lời đức Phật dạy: “Do
vậy, này
các Thầy Tỳ Kheo! Nếu các Thầy
muốn tu
tập với tưởng nhàm chán đối với
các pháp
không nhàm chán” thì Định
Niệm Hơi
Thở vô, hơi thở ra này cần phải
được tác
ý”.
Nếu muốn
tâm giữ gìn giới luật nghiêm
túc, tâm
không phóng dật, tâm ly dục ly ác
pháp thì
cũng phải tu Định Niệm Hơi Thở như
đức Phật
đã dạy: “Do vậy này các Thầy Tỳ
Kheo! Nếu
các Thầy mong rằng ly dục ly
ác pháp,
các Thầy sẽ chứng đạt và an trú
Thiền Thứ
Nhất một trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh
có tầm có tứ” thì Định Niệm
Hơi Thở vô,
hơi thở ra cần phải được khéo
tác ý”.
Nếu quý
vị muốn nhập Nhị Thiền thì quý
vị cũng
phải nương vào hơi thở của Định Hiện
Tại An Lạc
Trú và khéo tác ý như lời đức Phật
đã dạy:
“Do vậy này các Thầy Tỳ Kheo! Nếu
Tỳ Kheo
muốn rằng: “Mong rằng làm cho
tịnh chỉ
tầm tứ, tôi sẽ chứng đạt và an trú
Thiền Thứ
hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ nội tỉnh
nhất tâm,
thời Định Niệm Hơi Thở vô, hơi
thở ra này
cần phải tác ý”.
Nếu quý
vị muốn nhập Tam Thiền thì
cũng phải
theo đường dây hơi thở và hướng
tâm như lý
của Tam Thiền tác ý thì sẽ nhập
Tam Thiền
không mấy khó khăn như lời đức
Phật đã
dạy: “Do vậy, này các Thầy Tỳ
Kheo, nếu
các Thầy ước muốn rằng: “Mong
rằng ly hỷ
trú xả, Chánh Niệm Tỉnh Giác
cảm sự
lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả
niệm lạc
trú, tôi chứng đạt và sẽ an trú
Thiền Thứ
Ba, thì Định Niệm Hơi Thở vô
và hơi thở
ra này cần phải tác ý”.
Nếu quý
vị muốn nhập Tứ Thiền thì Định
Niệm Hơi
Thở vô, hơi thở ra cần phải được
khéo tác
ý như đức Phật đã dạy: “Do vậy này
các Thầy
Tỳ Kheo, nếu các Thầy ước muốn
rằng: “Mong
rằng đoạn lạc đoạn khổ,
chấm dứt
hỷ ưu đã cảm thọ trước, tôi
chứng đạt
và an trú Thiền Thứ Tư không
khổ, không
lạc, xả niệm thanh tịnh” thì
Định Niệm
Hơi Thở vô và hơi thở ra này
cần phải
được tác ý”. Định Hiện Tại An Lạc Trú tức là Bốn
Thiền Hữu
Sắc, nhưng muốn tu Bốn Thiền Hữu
Sắc thì
phải dùng Định Niệm Hơi Thở nhưng
phải luôn
luôn khéo tác ý đúng bốn trạng thái
ly, từ,
diệt, xả của Bốn loại thiền này.
Ví dụ: Sơ
Thiền muốn đạt được thì phải
ly dục ly
ác pháp. Nhị Thiền thì phải tịnh chỉ
tầm tứ hay
nói cách khác là diệt tầm tứ. Tam
Thiền thì
phải ly các loại hỷ tưởng hay nói
cách khác
là ly hỷ trú xả. Tứ Thiền thì phải
tịnh chỉ
hơi thở hay nói cách khác là xả lạc, xả
khổ, xả
niệm thanh tịnh.
Những điều
con đã trình bày ở trên là tu
tập tỉnh
thức trong Thân Hành Niệm nội và đã
được kết
quả như ý, nhưng con phải dùng sự
tỉnh thức
này tu Tứ Niệm Xứ tức là con quán
sát bốn
chỗ thân, thọ, tâm, pháp nếu có niệm
xảy ra trên
bốn chỗ này thì con dùng Định Vô
Lậu quán
xét đẩy lui các chướng ngại pháp đó,
nên trong
Tứ Niệm Xứ Đức Phật dạy:
1- Trên thân
quán thân để khắc phục
tham ưu.
2- Trên thọ
quán thọ để khắc phục tham
ưu. 3- Trên
tâm quán tâm để khắc phục tham
ưu.
4- Trên pháp
quán pháp để khắc phục
tham ưu.
Thầy xin
nhắc lại, muốn tu tập Tứ Niệm
Xứ thì
trước tiên phải tu tập Định Niệm Hơi
Thở như con
đã trình bày ở trên, sau khi tu tập
Định Niệm
Hơi Thở đã có sức tỉnh thức thì lấy
sức tỉnh
thức đó áp dụng vào Tứ Niệm Xứ để
khắc phục
tham ưu tức là ly dục ly ác pháp.
Bây giờ con
quan sát lại lộ trình tu tập có
ba giai
đoạn đi vào Định Hiện Tại An Lạc Trú:
- Giai đoạn
thứ nhất, con tu Định Niệm
Hơi Thở để
có tỉnh thức.
- Giai đoạn
thứ hai, con dùng sức tỉnh
thức của
Định Niệm Hơi Thở tu Tứ Niệm Xứ để
ly dục ly
ác pháp, tức là con hoàn chỉnh giới
luật thanh
tịnh.
- Giai đoạn
thứ ba, con dùng tâm ly dục ly
ác pháp
để nhập bốn loại thiền định hữu sắc đó
là Sơ
Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền
tức là con
đã hoàn chỉnh bốn thiền định Hữu
Sắc.
Như vậy, ba
giai đoạn này con đã tu được
hai phần ba
đường của đạo Phật, còn một phần nữa là xong nốt quãng đường giải
thoát đó là
Tam Minh.
Tóm lại,
con đã tu từ 5’- 30’ tỉnh thức
trong Định
Niệm Hơi Thở, kết quả ấy con đem
áp dụng
vào Tứ Niệm Xứ để quan sát thân, thọ,
tâm, pháp
có chướng ngại pháp thì con nên đẩy
lui. Con nên
hiểu giai đoạn này là giai đoạn tu
tập ly dục
ly ác pháp, giai đoạn cam go nhất
của người
tu hành theo đạo Phật và nó cũng là
giai đoạn
khó khăn nhất. Cho nên, phải tu tập
nhiếp tâm
cho được trong thân hành nội hay
ngoại. Khi
nhiếp tâm được chỉ trong khoảng
thời gian
30’ thì phải tập an trú cho được trong
thân hành,
còn nếu tập an trú chưa được thì
phải trở
lại tu tập Định Vô Lậu xả tâm cho
thật sạch,
có như vậy mới an trú được.
Sự tỉnh
thức của con tu đúng pháp khi áp
dụng vào
Tứ Niệm Xứ thì rất dễ đẩy lui các
chướng
ngại pháp, đẩy lui các chướng ngại
pháp tức
là con đã ly dục ly ác ác pháp dễ
dàng, không
có khó khăn, không có mệt nhọc,
còn sự
tỉnh thức chưa đúng pháp thì tu tập hay
quên; còn
đẩy lui chướng ngại pháp khó khăn
là pháp
hướng chưa có đủ lực, sự an trú chưa
vững chắc,
nhưng con hãy bền chí hướng tâm
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!