Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

đường về xứ phật - tập 2-4

với một pháp môn nào phù hợp với đặc tướng
của mình rồi lấy đó thực hành áp dụng vào
cuộc sống hằng ngày để xây dựng cho mình có
một đạo đức làm người mà không làm khổ
mình, khổ người, đây là niệm pháp bất hoại
tịnh.
Đây, chúng ta hãy lắng nghe một đoạn
kinh mà đức Phật đã dạy niệm Pháp: “Lại
nữa này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm
Pháp: “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết,
thiết thực hiện tại, không có thời gian,
đến để mà thấy, có khả năng hướng
thượng, được những bậc trí tự mình giác
hiểu!”. Này Mahànàma, trong khi vị
Thánh đệ tử tùy niệm Pháp, trong khi ấy,
tâm không bị tham chi phối, không bị sân
chi phối, không bị si chi phối; trong khi ấy
tâm vị ấy được chánh trực, nhờ dựa vào
Pháp. Và này Mahànàma, Thánh đệ tử với
tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ, được
pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến
pháp. Người có hân hoan nên hỷ sanh.
Người có hỷ nên thân được khinh an. Với
thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ.
Người có lạc thọ, tâm được định tỉnh. Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử
này được nói như sau: “Với mọi người
không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với
mọi người có não hại, vị ấy sống không
não hại. Nhập được pháp lưu, đó là vị ấy
tu tập niệm Pháp”. (Kinh Tăng Chi tập 3 trang
18)

NIỆM TĂNG
Niệm Tăng như thế nào?
Nếu theo kinh sách của các nhà học giả Tổ
sư giáo pháp phát triển dạy: “Nam Mô Tăng”
và cứ như vậy mà niệm thì dù có tu trăm muôn
ngàn kiếp thì thân tâm này cũng chẳng thanh
tịnh, Nam Mô Tăng như vậy là một pháp ức
chế tâm khiến cho tâm bị dồn nén tham, sân,
si, mạn, nghi, càng tu thì tâm này càng tham,
sân, si dữ tợn khi gặp chướng ngại pháp.
Muốn tu pháp niệm Tăng cho đúng thì
trước tiên phải chọn những vị Tăng nghiêm trì
giới luật, Những vị Tăng nghiêm trì Giới luật
là những vị sống thiểu dục tri túc, ba y một bát, sống không có chùa to Phật lớn, sống xa
lìa những vật chất tiện nghi đầy đủ, sống
không có ăn mặc sang đẹp, sống thường đi xin
từng miếng mà ăn, số ng không cất giữ tiền bạc
của cải tài sản, thường lấy gốc cây làm giường
nằm, sống ngày một bữa không có ăn uống phi
thời.

Chọn được những vị Tăng như vậy chúng
ta tôn kính những bậc này và xin họ làm Thầy.
Từ đây chúng ta có ngọn đuốc soi đường, hằng
ngày ta quan sát tư duy qua gương Thánh hạnh
đạo hạnh của họ và chúng ta tập sống như họ,
để biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng, để
biết đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm, để
biết thương yêu hòa hợp với mọi người, để biết
chịu phần thiệt về mình luôn luôn bắt chước
các đức hạnh của chúng Tăng, sống theo gương
Thánh đức của chúng Tăng. Ngược lại , những vị
Tăng phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới thì chúng
ta xem họ như những tu sĩ Bà La Môn không
đáng cho chúng ta cung kính và cúng dường.
Tư duy quán xét những đức hạnh sống của
chúng Thánh Tăng để lấy đó làm gương sống tu
tập ly dục ly ác pháp, đó mới chính là chúng ta
niệm Tăng. Niệm Tăng như vậy có ích lợi cho
mình, cho người rất lớn sẽ không làm khổ mình, khổ người; niệm Tăng như vậy thân tâm
mới thanh tịnh; niệm Tăng như vậy mới gọi là
niệm Tăng Bất Hoại Tịnh.
Đây là lời đức Phật dạy chúng ta cách
thức niệm Tăng: “Lại nữa này Mahànàma,
Thánh đệ tử tùy niệm Tăng: “Diệu hạnh là
chúng đệ tử Thế Tôn. Trực hạnh là chúng
đệ tử của Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng
đệ tử của Thế Tôn. Chánh hạnh là chúng
đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám vị.
Chúng đệ tử Thế Tôn này đáng được cung
kính, đáng được tôn trọng, đáng được
cúng dường, đáng được chấp tay, là vô
thượng phước điền ở đời”. Này Mahànàma,
trong khi Thánh đệ tử tùy niệm chúng
Tăng, trong khi ấy, tâm không bị tham chi
phối, không bị sân chi phối, không bị si
chi phối, trong khi ấy tâm vị ấy được
chánh trực, nhờ dựa vào tùy niệm chúng
Tăng. Và này Mahànàma, một vị Thánh đệ
tử, với tâm chánh trực, được nghĩa tín thọ,
được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ
đến chúng Tăng. Người có hân hoan nên
hỷ sanh. Người có hỷ nên thân được khinh
an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc
thọ. Người có lạc thọ tâm được định tỉnh. Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử
này, được nói như sau: “Với mọi người
không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với
mọi người có não hại, vị ấy sống không
não hại. Nhập được pháp lưu, đó là vị ấy
tu tập niệm chúng Tăng”. (Kinh Tăng Chi tập
3 trang 19)

NIỆM GIỚI
Niệm Giới như thế nào?
Nếu chúng ta theo cách dạy của kinh sách
phát triển rồi niệm Giới bằng cách mỗi nửa
tháng một kỳ ngày 14 hoặc ngày 30 tập trung
nhau lại tụng Giới đó là cách thức của họ niệm
Giới, niệm Giới như vậy dù một triệu kiếp tu
hành Giới luật cũng không nghiêm trì thanh
tịnh được.
Họ đâu biết rằng Giới luật là hành động
sống đạo đức của một vị Thánh Tăng, Thánh
Ni, nếu họ tụng Giới luật suông như vậy thì
không có ý nghĩa và lợi ích gì cả, đó chỉ là hình
thức che đậy sự phá giới của họ. Cho nên, hầu hết các Thầy hệ phái phát
triển niệm Giới như vậy đều sống phá giới,
phạm giới, bẻ vụn giới.
Họ hiểu không đúng pháp Tứ Bất Hoại
Tịnh nên thực hành sai, do thực hành sai mà
thân tâm ô nhiễm không thanh tịnh, cuối cùng
tu Tứ Bất Hoại Tịnh mà thành Tứ Hoại Tịnh,
không có giải thoát chút nào. Vậy, niệm Giới
như thế nào cho đúng?
Muốn niệm Giới cho đúng thì phải học
giới luật cho thông suốt, khi Giới luật đã học
thông suốt thì chúng ta quán xét và tư duy
những đức hạnh nào của giới dạy về đạo đức
làm Người và những giới luật nào dạy về giới
đức làm Thánh. Chúng ta đã hiểu rõ các đức
hạnh của giới xong, thì từ đó hằng ngày chúng
ta quyết tâm phải sống cho đúng những đạo
đức làm Người và làm Thánh, nhờ có quán sát
và tư duy như vậy nên sống đúng giới luật
nghiêm túc, do sống đúng giới luật nghiêm túc
nên thân tâm thanh tịnh ly dục ly ác pháp.
Người tư duy quán sát và sống đúng giới
luật như vậy nên gọi là niệm Giới Bất Hoại
Tịnh, niệm như vậy mới gọi là niệm Giới chứ
không phải niệm Giới theo kiểu hệ phái phát
triển tụng một bài Giới là xong, niệm Giới như vậy, gọi là niệm Giới Đại Thừa, chứ không phải
niệm Giới Bất Hoại Tịnh.
Đây, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy
niệm Giới: “Lại nữa này Mahànàma, Thánh
đệ tử tùy niệm các giới của mình: “Giới
không bị bẻ vụn, không bị sứt mẻ, không
bị vết chấm, không bị uế tạp, đưa đến giải
thoát, được người trí tán thán, không bị
chấp thủ, đưa đến thiền định”. Này
Mahànàma, trong khi Thánh đệ tử tùy
niệm Giới, trong khi ấy, tâm không bị
tham chi phối, không bị sân chi phối,
không bị si chi phối, trong khi ấy, tâm vị
ấy được chánh trực, nhờ dựa vào Giới. Và
này Mahànàma, một Thánh đệ tử, với tâm
chánh trực, được nghĩa tín thọ, được pháp
tín thọ, được hân hoan liên hệ đến giới
pháp. Người có hân hoan nên hỷ sanh.
Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với
thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ.
Người có lạc thọ, tâm được định tỉnh.
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử
này, được nói như sau: “Với mọi người
không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với
mọi người có não hại, vị ấy sống không
não hại. Nhập được pháp lưu, đó là vị ấy tu tập niệm Giới”. (Kinh Tăng Chi tập 3
trang19)
Đây là một trong những bài kinh, để xác
chứng lời đức Phật dạy như vậy mà các Tổ dám
cả gan dạy sai, khiến cho người đời sau tu tập
sai lạc, đó là các Tổ dạy sai pháp của đức Phật,
còn những pháp các Tổ bịa đặt ra cũng đều gán
cho là đức Phật thuyết. Bởi vậy, từ 25 thế kỷ
nay người ta tu theo đạo Phật chứ kỳ thật là
người ta tu theo Đạo của các Tổ, cho nên hằng
triệu vạn người tu hành mà chẳng có ai làm
chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.
Con nên nhớ, nếu con quyết tâm tu hành
tìm cầu sự giải thoát của đạo Phật, thì chỉ cần
tu Tứ Bất Hoại Tịnh con cũng đã thành tựu
viên mãn con đường tu tập có nghĩa là con sẽ
làm chủ bốn sự khổ đau của kiếp người: sanh,
già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi, thì cần gì
con phải tu các pháp môn khác.
Còn nói con tu Tứ Bất Hoại Tịnh câu hữu
với Định Vô Lậu là vì con tư duy, quán xét, suy
ngẫm về Phật, Pháp, Tăng và Giới để con thực
hiện sống cho đúng như Phật như Pháp, như
chúng Thánh Tăng và như Giới luật đã dạy, để
không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, đó là
cách thức quét sạch lậu hoặc trong con nên mới
gọi là câu hữu với Định Vô Lậu, chứ kỳ thực con không có tu Định Vô Lậu mà tu Tứ Bất
Hoại Tịnh.
Tóm lại, một người quyết tâm tu hành để
tìm cầu sự giải thoát thì chỉ cần tu Tứ Bất Hoại
Tịnh thì cũng đủ sự giải thoát rồi đâu cần gì
phải tu nhiều thứ cho mệt.
Ví dụ: mình quyết sống như Phật thì khi
gặp chướng ngại pháp trong tâm, chúng ta
nhất định không sân, không phiền não, không
đau khổ, sống và làm y như Phật thì ngay đó
thân tâm thanh tịnh hay nói cách khác là tâm
bất động trước các ác pháp. Tu hành chỉ có như
vậy mà thôi, thế mà chẳng ai làm được cả.
Pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh là một pháp
môn hay tuyệt vời, nếu một người quyết tử tu
tập thì sẽ có kết quả ngay liền, không còn phải
chờ đợi kéo dài từ năm này đến tháng kia hoặc
năm khác.

TU ĐỊNH HIỆN TẠI AN LẠC TRÚ
Hỏi:Kính thưaThầy! Định Hiện Tại
An Lạc Trú, con chỉ tu 30’ thường hướng tâm:
“Sáu căn phải tập trung tại tụ điểm nghe hơi thở và nhìn hơi thở”. Rồi con lại tiếp tục hướng
tâm nữa: “Hơi thở phải chậm và nhẹ”. Con thấy
hơi thở con càng lúc càng chậm, càng nhẹ dần.
Nhờ con tu ít lại nên hôn trầm cũng bớt nhiều,
tu như vậy có đúng không thưa Thầy?
Đáp: Đúng, Định Niệm Hơi Thở con tu
như vậy rất tốt. Khi hơi thở nhẹ và chậm, tâm
yên lặng và bám chặt vào hơi thở thì con hãy
tiếp tục hướng tâm vắng lặng. Thỉnh thoảng và
nhẹ nhàng thoáng hướng tâm như lý tác ý:
“Nhĩ thức hãy nghe vào trong và nằm yên
như ngủ, không được nghe ra ngoài”.
Nếu khoảng thời gian này con chỉ cần kéo
dài 30’ là cao nhất, không nên kéo dài thêm
nữa, vì kéo dài thêm nữa con sẽ rơi vào trạng
thái tĩnh lặng và khi rơi vào trạng thái tĩnh
lặng thì rất là nguy hiểm, vì từ trạng thái tĩnh
lặng sẽ phát sinh sáu loại tưởng đầu tiên:
1- Xúc tưởng hỷ lạc, là một cảm giác an
lạc thích thú của xúc tưởng.
2- Sắc tưởng là thấy ánh sáng hào quang
hoặc thấy hình ảnh chư Phật chư Tổ, ma quỷ
v.v..
3- Thinh tưởng là nghe âm thanh hoặc
tiếng nói trong tai v.v.. 4- Hương tưởng là cảm giác mùi thơm bay
phảng phất.
5- Vị tưởng là cảm giác nước miếng ngọt
và đang tiết ra trong miệng.
6- Pháp tưởng là hiểu thông suốt 1700
công án Thiền Tông và các loại kinh tưởng Đại
Thừa.
Khi hành giả tu hành, gặp sáu loại tưởng
này thì bản ngã to lớn vĩ đại, kiến chấp sâu
dày rất khó bỏ.
Định Hiện Tại An Lạc Trú là một tên gọi
chung cho bốn loại Thiền Định Vô Thượng Tâm
của Phật giáo là:
1- Sơ Thiền.
2- Nhị Thiền.
3- Tam Thiền.
4- Tứ Thiền.
Khi nhập vào bốn loại thiền định này
trong hiện tại có sự an lạc, cho nên gọi là Hiện
Tại An Lạc Trú Định. Nhập vào bốn loại thiền
định này là phải tu hai loại định Thân Hành
Niệm nội (hơi thở) và Thân Hành Niệm ngoại
(hành động bên ngoài của thân). Trong bốn loại thiền định này, có một loại
định rất khó tu tập nhất, đó là Sơ Thiền. Sơ
Thiền là một loại thiền xả tâm, nếu hành giả
tu hành không biết chỉ cần sơ sót là rơi vào
thiền ức chế tâm, thì chẳng bao giờ nhập Sơ
Thiền được.
Người muốn nhập Định Hiện Tại An Lạc
Trú này thì phải nghiêm trì và sống đúng giới
luật không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt, luôn
luôn lúc nào cũng phải phòng hộ sáu căn giữ
gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý của mình
không cho dính mắc sáu trần: sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp. Vả lại, còn phải chấp
nhận hạnh thiểu dục tri túc, sống đúng đời
sống phạm hạnh của một vị Thánh Tăng thì
mới thực hiện được Hiện Tại An Lạc Trú Định.
Nếu không sống đúng một đời sống Phạm
hạnh thì khó mà nhập được các loại định này,
vì cánh cửa Sơ Thiền đóng rất kín nếu kẻ nào
phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới thì chỉ còn
đứng ngoài cửa chứ không được vào. Tại sao
vậy?
Tại vì Giới luật còn vi phạm thì thân tâm
không thanh tịnh, thân tâm chưa thanh tịnh
thì tâm chưa ly dục ly ác pháp, tâm chưa ly dục
ly ác pháp thì không thể nào vào cửa Sơ Thiền được, không vào cửa Sơ Thiền được thì khó mà
nhập Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền. Như
vậy Hiện Tại An Lạc Trú Định khó mà bước
vào được.
Theo sự trình bày tu tập của con là Định
Niệm Hơi Thở, chứ không phải Định Hiện Tại
An Lạc Trú đó là giai đoạn thứ nhất trong sự
tu tập tỉnh thức của Định Niệm Hơi Thở để
tỉnh thức xả tâm ly dục ly ác pháp, khi xả tâm
ly dục ly ác pháp hoàn toàn thì đó mới bắt đầu
nhập vào Định Hiện Tại An Lạc Trú. Ở đây,
con chỉ tu mới được phân nửa thuộc về tỉnh
thức, còn phân nửa thuộc về xả tâm thì hiện
giờ con phải áp dụng vào phương pháp quán
xét Tứ Niệm Xứ tức là tư duy suy ngẫm bốn
chỗ: Thân, thọ, tâm và các pháp, xem trên bốn
chỗ này có chướng ngại pháp hay không, nếu
không chướng ngại pháp thì con nên để tâm tự
nhiên biết hơi thở ra vào chứ đừng bắt buộc
hay ức chế tập trung tâm vào hơi thở.
Định Hiện Tại An Lạc Trú không khó
nhập, nếu một người ngộ lý mười hai nhân
duyên, thông suốt thế giới các pháp đều do
duyên hợp mà thành, do đó trên thế gian này
không có một pháp nào thường hằng vĩnh viễn,
dù cho ai muốn giữ gìn cũng không được. Có vật chất càng nhiều thì càng khổ, cho nên càng
xả bỏ ra thì càng giải thoát, xả nhiều giải thoát
nhiều, xả ít giải thoát ít, xả hết thì hoàn toàn
giải thoát. Vì thế, đời sống phạm hạnh của một
vị Thánh Tăng chỉ còn ba y một bát, sống
không nhà cửa không gia đình, đó là giải thoát
hết, nên đời sống của một vị Thánh Tăng là
đời sống buông xả, đời sống giải thoát.
Phần nhiều tu sĩ và cư sĩ thời nay sống
Phạm hạnh bằng hình thức bên ngoài mà trong
tâm thật sự chưa xả, có nghĩa là trong tâm
chưa nhàm chán thế gian, chưa thấy mười hai
duyên hợp thật sự nên còn ham thích cái này,
cái nọ.
Tâm chưa nhàm chán các pháp thế gian
thì khó mà nhập được Hiện Tại An Lạc Trú
Định. Tuy rằng theo đường dây hơi thở mà
nhập các loại định này, nhưng không nhàm
chán các pháp thế gian thì không bao giờ nhập
được.
Định Hiện Tại An Lạc Trú phải theo
đường dây hơi thở mà vào, chúng ta hãy lắng
nghe đức Phật dạy trong kinh Nikaya: “Này
các Thầy Tỳ Kheo! Ta trước khi chưa giác
ngộ, chưa chứng chánh đẳng giác, còn là
Bồ Tát. Này các Thầy Tỳ Kheo! Do Ta tu tập
nhiều với pháp môn này thân ta và con
mắt không có mệt nhọc và tâm Ta được
giải thoát khỏi các lậu hoặc không có
chấp thủ”.
Đoạn kinh trên, đức Phật chỉ cho chúng ta
thấy, do khéo tu Hiện tại An Lạc Trú Định,
thân và con mắt không có mỏi mệt, tâm được
giải thoát khỏi các lậu hoặc và không có còn
chấp thủ, nhưng phải do đường dây hơi thở mà
tu tập, đường dây hơi thở mà đức Phật còn gọi
là Định Niệm Hơi Thở và pháp hướng tâm.
“Do vậy này các Thầy Tỳ Kheo! Nếu các
Thầy muốn rằng: “Thân và con mắt khỏi
bị mỏi mệt và tâm được giải thoát khỏi các
lậu hoặc, không có chấp thủ” thì Định
Niệm Hơi thở vô, hơi thở ra cần phải khéo
tác ý”.
Cần phải khéo tác ý hơi thở vô hơi thở ra
như thế nào và thân và con mắt không có mỏi
mệt, còn tâm thì được giải thoát khỏi các lậu
hoặc không có chấp thủ, chấp thủ ở đây có
nghĩa là ức chế vọng tưởng. Hầu hết mọi người
tu về Định Niệm Hơi Thở đều không hiểu chỗ
này, cho nên tu tập hơi thở thành ức chế tâm như pháp Sổ Tức Quán và Lục Diệu Pháp Môn
của các hệ phái phát triển.
Chúng ta hãy trở về Định Niệm Hơi Thở
trong bài kinh Xuất Tức Nhập Tức thuộc kinh
Nikaya Trung Bộ: “Hít vô tôi biết tôi hít vô,
thở ra tôi biết tôi thở ra”, đó là câu hướng
tâm theo hơi thở để tâm không bị ức chế vọng
tưởng mà được nhẹ nhàng tự nhiên hơn, cho
nên thân và con mắt không có mỏi mệt, tâm
thì được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không bị
ức chế. Đây, chúng ta nghe tiếp bài kinh Xuất
Tức Nhập Tức: “Quán ly tham tôi biết tôi hít
vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”. Do sự
tu tập khéo tác ý như vậy nên sự tu tập đạt
được theo ý muốn của mình.
Nếu chúng ta muốn cho tâm được thanh
thản, an lạc và vô sự tức là đoạn tận vọng
tưởng không còn xen vào trong tâm mà thân
tâm không bị ức chế thì chúng ta cũng nương
theo hơi thở và tác ý như vậy: “Do vậy này
các Thầy Tỳ Kheo! Nếu các Thầy muốn
rằng các niệm các tư duy được đoạn tận”
thì Định Niệm Hơi Thở vô, hơi thở ra này
cần phải khéo tác ý”.
Nếu trong đời tu hành của chúng ta còn
dính mắc một điều gì không buông xả được cũng như không nhàm chán các pháp thế gian
tâm vẫn còn ham thích thì chúng ta cũng nên
dùng Hiện Tại An Lạc Trú Định mà tu tập theo
pháp hướng tâm như lời đức Phật dạy: “Do
vậy, này các Thầy Tỳ Kheo! Nếu các Thầy
muốn tu tập với tưởng nhàm chán đối với
các pháp không nhàm chán” thì Định
Niệm Hơi Thở vô, hơi thở ra này cần phải
được tác ý”.
Nếu muốn tâm giữ gìn giới luật nghiêm
túc, tâm không phóng dật, tâm ly dục ly ác
pháp thì cũng phải tu Định Niệm Hơi Thở như
đức Phật đã dạy: “Do vậy này các Thầy Tỳ
Kheo! Nếu các Thầy mong rằng ly dục ly
ác pháp, các Thầy sẽ chứng đạt và an trú
Thiền Thứ Nhất một trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh có tầm có tứ” thì Định Niệm
Hơi Thở vô, hơi thở ra cần phải được khéo
tác ý”.
Nếu quý vị muốn nhập Nhị Thiền thì quý
vị cũng phải nương vào hơi thở của Định Hiện
Tại An Lạc Trú và khéo tác ý như lời đức Phật
đã dạy: “Do vậy này các Thầy Tỳ Kheo! Nếu
Tỳ Kheo muốn rằng: “Mong rằng làm cho
tịnh chỉ tầm tứ, tôi sẽ chứng đạt và an trú
Thiền Thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ nội tỉnh
nhất tâm, thời Định Niệm Hơi Thở vô, hơi
thở ra này cần phải tác ý”.
Nếu quý vị muốn nhập Tam Thiền thì
cũng phải theo đường dây hơi thở và hướng
tâm như lý của Tam Thiền tác ý thì sẽ nhập
Tam Thiền không mấy khó khăn như lời đức
Phật đã dạy: “Do vậy, này các Thầy Tỳ
Kheo, nếu các Thầy ước muốn rằng: “Mong
rằng ly hỷ trú xả, Chánh Niệm Tỉnh Giác
cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả
niệm lạc trú, tôi chứng đạt và sẽ an trú
Thiền Thứ Ba, thì Định Niệm Hơi Thở vô
và hơi thở ra này cần phải tác ý”.
Nếu quý vị muốn nhập Tứ Thiền thì Định
Niệm Hơi Thở vô, hơi thở ra cần phải được
khéo tác ý như đức Phật đã dạy: “Do vậy này
các Thầy Tỳ Kheo, nếu các Thầy ước muốn
rằng: “Mong rằng đoạn lạc đoạn khổ,
chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ trước, tôi
chứng đạt và an trú Thiền Thứ Tư không
khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh” thì
Định Niệm Hơi Thở vô và hơi thở ra này
cần phải được tác ý”. Định Hiện Tại An Lạc Trú tức là Bốn
Thiền Hữu Sắc, nhưng muốn tu Bốn Thiền Hữu
Sắc thì phải dùng Định Niệm Hơi Thở nhưng
phải luôn luôn khéo tác ý đúng bốn trạng thái
ly, từ, diệt, xả của Bốn loại thiền này.
Ví dụ: Sơ Thiền muốn đạt được thì phải
ly dục ly ác pháp. Nhị Thiền thì phải tịnh chỉ
tầm tứ hay nói cách khác là diệt tầm tứ. Tam
Thiền thì phải ly các loại hỷ tưởng hay nói
cách khác là ly hỷ trú xả. Tứ Thiền thì phải
tịnh chỉ hơi thở hay nói cách khác là xả lạc, xả
khổ, xả niệm thanh tịnh.
Những điều con đã trình bày ở trên là tu
tập tỉnh thức trong Thân Hành Niệm nội và đã
được kết quả như ý, nhưng con phải dùng sự
tỉnh thức này tu Tứ Niệm Xứ tức là con quán
sát bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp nếu có niệm
xảy ra trên bốn chỗ này thì con dùng Định Vô
Lậu quán xét đẩy lui các chướng ngại pháp đó,
nên trong Tứ Niệm Xứ Đức Phật dạy:
1- Trên thân quán thân để khắc phục
tham ưu.
2- Trên thọ quán thọ để khắc phục tham
ưu. 3- Trên tâm quán tâm để khắc phục tham
ưu.
4- Trên pháp quán pháp để khắc phục
tham ưu.
Thầy xin nhắc lại, muốn tu tập Tứ Niệm
Xứ thì trước tiên phải tu tập Định Niệm Hơi
Thở như con đã trình bày ở trên, sau khi tu tập
Định Niệm Hơi Thở đã có sức tỉnh thức thì lấy
sức tỉnh thức đó áp dụng vào Tứ Niệm Xứ để
khắc phục tham ưu tức là ly dục ly ác pháp.
Bây giờ con quan sát lại lộ trình tu tập có
ba giai đoạn đi vào Định Hiện Tại An Lạc Trú:
- Giai đoạn thứ nhất, con tu Định Niệm
Hơi Thở để có tỉnh thức.
- Giai đoạn thứ hai, con dùng sức tỉnh
thức của Định Niệm Hơi Thở tu Tứ Niệm Xứ để
ly dục ly ác pháp, tức là con hoàn chỉnh giới
luật thanh tịnh.
- Giai đoạn thứ ba, con dùng tâm ly dục ly
ác pháp để nhập bốn loại thiền định hữu sắc đó
là Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền
tức là con đã hoàn chỉnh bốn thiền định Hữu
Sắc.
Như vậy, ba giai đoạn này con đã tu được
hai phần ba đường của đạo Phật, còn một phần nữa là xong nốt quãng đường giải thoát đó là
Tam Minh.
Tóm lại, con đã tu từ 5’- 30’ tỉnh thức
trong Định Niệm Hơi Thở, kết quả ấy con đem
áp dụng vào Tứ Niệm Xứ để quan sát thân, thọ,
tâm, pháp có chướng ngại pháp thì con nên đẩy
lui. Con nên hiểu giai đoạn này là giai đoạn tu
tập ly dục ly ác pháp, giai đoạn cam go nhất
của người tu hành theo đạo Phật và nó cũng là
giai đoạn khó khăn nhất. Cho nên, phải tu tập
nhiếp tâm cho được trong thân hành nội hay
ngoại. Khi nhiếp tâm được chỉ trong khoảng
thời gian 30’ thì phải tập an trú cho được trong
thân hành, còn nếu tập an trú chưa được thì
phải trở lại tu tập Định Vô Lậu xả tâm cho
thật sạch, có như vậy mới an trú được.
Sự tỉnh thức của con tu đúng pháp khi áp
dụng vào Tứ Niệm Xứ thì rất dễ đẩy lui các
chướng ngại pháp, đẩy lui các chướng ngại
pháp tức là con đã ly dục ly ác ác pháp dễ
dàng, không có khó khăn, không có mệt nhọc,
còn sự tỉnh thức chưa đúng pháp thì tu tập hay
quên; còn đẩy lui chướng ngại pháp khó khăn
là pháp hướng chưa có đủ lực, sự an trú chưa

vững chắc, nhưng con hãy bền chí hướng tâm

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!