sẽ định
trên thân, còn khi có chướng ngại pháp
thì con nên
dùng Định Vô Lậu quán xét mà đẩy
lui nó như
trên đã dạy, đẩy lui nó cho đến khi
tâm như
đất, tâm con được như đất thì con đã
hoàn toàn
giải thoát.
Một người
đệ tử quyết tâm tu hành để tìm
cầu sự
giải thoát, dù có gian nan khó khổ đến
đâu cũng
không lìa thiện hữu tri thức của
mình, mặc
dù nghịch cảnh có thử thách đuổi xô
thậm tệ đi
chăng nữa cũng chỉ để tạo đối tượng
cho con xả
tâm như đất mà thôi. Chính lúc bây
giờ con áp
dụng Định Vô Lậu quán xét nhân
quả của
mình để buông xả cái tâm oán ghét,
giận hờn
đó, chứ không nên như người thế tục
có những
gì trái ý nghịch lòng thì ôm lòng thù
oán ghét
giận, bằng chứng như con đã thấy,
biết bao
nhiêu người khi đến sống với Thầy để
học tu
hành đều bị thử thách, trắc nghiệm xem
có xả tâm
được hay không, tức là có sống đúng
đức hạnh
nhân bản làm người không làm khổ
mình, khổ
người hay không? Khi mà mọi người
được Thầy
hướng dẫn và dạy tu tập rèn luyện
những đức
hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng
lòng, nhưng
cuối cùng mọi người nhẫn nhục,
tùy thuận,
bằng lòng ngoài mặt mà trong lòng
thì oán
hận, cho nên thường tìm cách nói xấu thiện hữu tri thức của mình
với mọi người để
hạ nhục
cho hả cơn hận thù và khi rời khỏi tu
viện lại
còn nói xấu hơn. Các con là những
người xa
lạ từ những phương trời xa đến đây tu
học, có
thù có oán nhau đâu, cớ sao lại có
những điều
này xảy ra, những điều này xảy ra
là do duyên
nhân quả để rồi gặp nhau, gặp
nhau để xả
tâm, để ly dục ly ác pháp, để được
giải
thoát, để làm chủ được tâm hồn của mình,
để làm
chủ cuộc sống của mình, để học được
những đạo
đức không làm khổ mình, khổ
người, để
trở thành những bậc Thánh nhân.
Một người
Thầy dạy đạo đức giải thoát cho
đệ tử
thật là khó vô cùng, lòng thương yêu của
vị Thầy
ấy phải bao la như đất trời, tâm vị ấy
như đất,
như nước thì mới dám đem đạo đức
này dạy
người. Tại sao vậy?
Vì đạo
đức này con người chưa bao giờ
được nghe,
được thấy, được học. Từ khi đức
Phật ra
đời chỉ có một khoảng thời gian quá
ngắn 100
năm thì được Ngài dạy đạo đức này
cho những
người đệ tử của mình rồi từ đó về
sau này
không còn ai nhắc đến nữa, cho nên
bây giờ đem
đạo đức này ra dạy là một việc
làm rất
khó, khó vô cùng. Một đạo đức giải thoát thật sự không làm
khổ mình,
khổ người đem đến cho mọi người
một cuộc
sống an vui và hạnh phúc bằng những
đức hạnh
cao thượng nhẫn nhục, tùy thuận,
bằng lòng
khiến cho mình vui, người khác vui.
Nhưng khi
áp dụng những đức hạnh cao thượng
này vào
những người đệ tử của mình, Thầy đã
được trả
một ơn quá lớn…, nhưng đối với học trò
của mình
thì Thầy rất thương yêu và tha thứ,
nếu người
học trò quyết tâm trở lại tu tập thì
Thầy sẵn
sàng hướng dẫn từng phương cách xả
tâm để
thực hiện đạo đức làm người, không làm
khổ mình,
khổ người, vì Thầy nghĩ rằng cần
phải có
những người đầy đủ đạo đức nhân bản
– nhân quả
làm gương cho những người khác
thì sau
này dạy đạo đức mới dễ dàng hơn.
Con người
trên hành tinh này đang cần có
một nền
đạo đức để đối xử và đem lại cho nhau
những sự
an vui và hạnh phúc. Thầy nghĩ rằng
tại tu viện
Chơn Như mới bắt đầu nhen nhúm
một ngọn
lửa đạo đức nhân bản - nhân quả của
đạo Phật
ra dạy lần đầu tiên sau 100 năm đức
Phật nhập
diệt, Thầy là người áp dụng đạo đức
nhân bản -
nhân quả vào những tu sĩ và cư sĩ ở
đây trước
tiên, khiến cho quí vị ở đây chao đảo,
dao động
gần như không chịu nổi, các tu sĩ và cư sĩ nam cũng như tu sĩ và cư
sĩ nữ ở đây đều
muốn bỏ
cuộc.
Thầy là
người đã am hiểu rất rõ đường lối
tu tập
thiền định của đạo Phật, nhất là phải xả
tâm như đất
thì mới có thiền định, mà muốn
xả tâm
được như đất thì phải sống cho đúng ba
đức ăn,
ngủ, độc cư và ba hạnh nhẫn nhục, tùy
thuận,
bằng lòng, nhưng toàn bộ tu sĩ và cư sĩ
nam và nữ
ở đây không có một người nào sống
đúng ba
đức, ba hạnh. Nếu sống không đúng ba
đức, ba
hạnh thì làm sao tâm như đất được mà
tâm không
như đất thì làm sao sống đúng đạo
đức không
làm khổ mình, khổ người. Mà còn
làm khổ
mình, khổ người thì làm sao có giải
thoát
được.
Mỗi tu sĩ
và cư sĩ về đây tu hành họ đều
phạm vào
ba đức, ba hạnh này nên cuối cùng
họ phải ra
đi, nhưng tâm nguyện của người
Thầy thầm
ước nguyện một ngày nào đó họ
tỉnh ngộ,
nhận ra ba đức, ba hạnh là một đạo
đức cao
thượng tuyệt vời không làm khổ mình,
khổ người
để trở về rèn luyện đức hạnh làm
gương sáng
cho mọi người soi, để mọi người
nương vào
ánh sáng đạo đức đó mà sống không
làm khổ
mình, khổ người đem lại cho thế gian
này thành
cõi Thiên Đàng, Cực Lạc. Một vị Thầy luôn luôn tâm niệm có những
người đệ
tử tu tập không phải vì mình mà vì
mọi người
thì mới có đủ nghị lực kiên cường
sống đúng
ba đức, ba hạnh, hầu hết tất cả tu sĩ
và cư sĩ
về đây tu tập, tu cho cá nhân chứ chưa
có người
nào có nguyện ước tu vì mọi người.
Bởi con
đường tu hành của đạo Phật rất
khó, nếu
nghĩ tu cho cá nhân mình thì chẳng
bao giờ
sống đúng đạo đức không làm khổ
mình, khổ
người được.
Vì thế,
mỗi khi có một người đệ tử ra đi là
lòng của
vị Thầy xót xa thương tưởng cho người
đệ tử của
mình đang đi vào bước đường cùng
trong đêm
đen u tối, bởi vì vị Thầy đã biết duy
nhất chỉ
có một con đường Giới, Định, Tuệ của
đạo Phật
sẽ đưa họ đến nơi giải thoát hoàn
toàn và
chấm dứt đau khổ của kiếp làm người,
ngoài ra
không còn giáo pháp nào hơn nữa.
Nếu họ bỏ
Giới, Định, Tuệ mà đi tìm một giáo
pháp khác
là họ đã tự mở cửa bước vào địa
ngục.
Cho nên,
những người học trò của Thầy ra
đi là lòng
Thầy bồi hồi thương tiếc một kiếp
người vô
duyên với Phật pháp, vô duyên với sự
giải
thoát, đáng thương nhất là những người đệ
tử theo
Thầy tu hành mà đắm mê thần thông, sau thời gian theo Thầy tu tập chỉ
mong Thầy
thể hiện
thần thông, nhưng họ thất vọng vì
Thầy không
thể hiện thần thông, từ đó họ nghi
Thầy không
có thần thông, nên lầ n lượt họ bỏ
ra đi, nhìn
những người đệ tử này ra đi mà
Thầy bùi
ngùi xót xa. Tại sao người ta vô minh
quá vậy?
Tu có thần thông để làm gì? Để khoe
khoang làm
trò ảo thuật cho thiên hạ xem chơi,
để được ca
ngợi, tán thán, chứ có ích lợi gì cho
mình cho
người đâu. Phải không các con?
Tâm tham
vọng của những người này quá
cao, muốn
cho mình trở thành siêu nhân hơn
tất cả
mọi người trong thế gian này. Hơn tất cả
mọi người
trong thế gian này để làm gì? Để
làm bá
chủ toàn cầu. Nếu muốn trở thành siêu
nhân như
vậy thì nên qua Tây Tạng tu tập với
các vị
Lạt Ma chứ theo đạo Phật thì không có
dạy điều
đó mà chỉ dạy cho chúng ta làm người
có đạo
đức không làm khổ mình, khổ người,
được như
vậy thế gian này là Thiên Đàng thì
chúng ta
đã mãn nguyện lắm rồi.
Hỡi các
người đệ tử của Thầy! Các con có
hiểu nỗi
lòng của Thầy chăng? Thầy chỉ mong
các đêï tử
hãy tin nơi Thầy, Thầy sẽ dẫn dắt các
con trên con
đường đạo đức nhân bản – nhân
quả làm
người, thoát ra khỏi bản chất của loài cầm thú để trở thành thật
sự là con người thật,
con người
có một tâm hồn cao thượng không
làm khổ
mình, khổ người, các con theo Thầy
quyết tìm
con đường thoát khổ, cớ sao các con
không chịu
buông xả những thói đời thường
tình của
mình, để làm chi ôm ấp sự đau khổ
trong lòng;
cớ sao các con không chịu buông xả
những kiến
chấp thần thông của Mật Tông, lý
luận mơ hồ
trừu tượng ảo giác của Thiền Tông
và mê tín,
dị đoan của Tịnh Độ Tông mà chính
những điều
Thầy dạy đạo đức nhân bản – nhân
quả lợi
ích cho mình cho người thì các con lại
xem thường,
lại bỏ đi, để đi tìm những cái cao
siêu, cái
cao siêu đó là cái mà các con đang bị
các tôn
giáo lừa đảo.
Nhìn những
người đệ tử ngu si của mình
đang lầm
lạc trên đường tu tập, hầu hết mọi
người đều
bị các tôn giáo ru hồn vào cõi mộng
siêu hình
và thần thông. Một vị Thầy rất đau
lòng và
thương yêu những người đệ tử của
mình, nhưng
biết làm sao hơn khi họ đã gieo
hạt giống
đắng thì phải gặt lấy quả đắng, luật
nhân quả
quá khắc nghiệt, nếu những người đệ
tử ấy
không biết thay đổi hạt giống thì muôn
đời ngàn
kiếp phải chịu lấy quả cay đắng mà
thôi, dù
cho Thầy có thương yêu các con bao nhiêu cũng không thể làm gì được cho
các con
mà chính
các con phải thương yêu cá c con, các
con phải
biết từ bỏ những cái sai và nhận lấy
những cái
đúng, cái sai cái đúng này không ai
bỏ giúp
cho các con được mà phải chính các con
tự bỏ
lấy.
Lòng thương
yêu vô bờ bến của một vị
Thầy các
con đâu hiểu được, khi các con đến
xin Thầy tu
học, Thầy biết thói thường tình đời
các con
khó bỏ, nhưng trước lòng tha thiết của
các con
Thầy không nỡ nhẫn tâm từ chối, nhận
rồi thì
phải có trách nhiệm, nhưng những lời
Thầy dạy
mà các con vâng theo làm không sơ
sót thì
lòng Thầy vui sướng biết bao, nhưng khi
các con
làm không đúng lời dạy thì lòng Thầy
đau xót vô
cùng và biết rằng một ngày nào đó
các con sẽ
rời khỏi vòng tay của Thầy, vòng tay
thương yêu
tận tình đưa đường dẫn lối cho các
con đi được
an toàn và đến nơi đến chốn đạo
đức nhân
bản – nhân quả làm người không làm
khổ mình,
khổ người. Điều này không làm thỏa
mãn ước
vọng của các con, vì tâm các con còn
tham đắm
một điều cao hơn.
Thế rồi
các con lần lượt ra đi, đi với một
lòng oán
hận chỉ vì Thầy cấm không cho các
con nói
chuyện tào lao, phóng tâm phóng dật và cấm không cho các con tu theo
những pháp
tà giáo
ngoại đạo, nhưng làm sao cấm được
lòng
người, chỉ các con phải biết tự giác ý thức
pháp nào
đúng, pháp nào sai.
Rồi những
buổi chiều hoàng hôn khi tắt
nắng, Thầy
nhìn ra cổng chùa như hướng về
một chân
trời xa thẳm nơi ấy có nhữ ng người
đệ tử của
mình đang tu hành sai pháp, rồi đây
chúng sẽ
chôn vùi cuộc đời chúng trong biển
khổ muôn
đời muôn kiếp.
Lòng thương
yêu của một vị Thầy vô bờ
bến lúc
nào cũng sẵn sàng tha thứ những lỗi
lầm bất
nghĩa và thương yêu những người đệ tử
của mình
đến hơi thở cuối cùng.
“Những
buổi chiều tà mưa phủ trắng
Thầy cười
tha thứ kẻ vong ân”.
TỨ BẤT HOẠI
TỊNH
Hỏi:Kínhthưa
Thầy! Khi tâm còn
tham, sân,
si, mạn, nghi, con tu Tứ Bất Hoại
Tịnh thì
tâm con được giải thoát rồi, thì con
khỏi tu
Định Vô Lậu được không? Đáp: Được, muốn tu Tứ Bất Hoại Tịnh thì
con phải tu
Định Vô Lậu, tu Định Vô Lậu tức là
thể hiện
pháp môn Tứ Niệm Xứ, thể hiện Tứ
Niệm Xứ
tức là trên thân, thọ, tâm và pháp mà
tu tập,
sống và làm việc giống như thân, thọ,
tâm, pháp
của đức Phật nhưng muốn tu tập cho
được tốt
thì con phải tù y theo đặc tướng thân,
thọ, tâm
và pháp của các con mà niệm Phậ t,
niệm Pháp,
niệm Tăng và niệm Giới được triển
khai mạnh,
quét sạch tất cả các lậu hoặc, diệt
ngã, xả
tâm, ly dục, ly ác pháp.
Tu như vậy
gọi là tu Định Vô Lậu câu hữu
(kết hợp)
với pháp Tứ Bất Hoại Tịnh, tức là tu
Định Vô
Lậu thân, thọ, tâm và pháp để sống
và làm
đúng như đức Phật đang sống và đang
hành. Đúng
như pháp mà đức Phật đã dạy
không được
làm sai lời dạy của pháp. Đúng như
đời sống
chúng Thánh Tăng đang sống đang
hành và
đúng như giới luật đã dạy không hề vi
phạm một
lỗi nhỏ nhặt nào cả.
Tứ Bất
Hoại Tịnh là bốn pháp hay là bốn
đối tượng
gương hạnh thanh tịnh của đạo Phật,
để làm
bốn chỗ chúng ta lấy Thân, thọ, tâm và
pháp của
mình nương theo đó giữ gìn tu tập ,
sống đúng
đời sống giải thoát của bốn chỗ này,
khiến cho
thân tâm chúng ta thanh tịnh, nên đức Phật gọi pháp môn này là Tứ Bất
Hoại
Tịnh.
Tứ Bất
Hoại Tịnh có nghĩa là bốn pháp tu
tập giúp
cho thân tâm thanh tịnh, thân tâm
thanh tịnh
tức là sự giải thoát của đạo Phật, sự
giải thoát
của đạo Phật có nghĩa là tâm ly dục
ly ác
pháp, tâm ly dục ly ác pháp có nghĩa là
không làm
khổ mình, khổ người. Không làm
khổ mình,
khổ người là một đạo đức nhân bản
của đạo
Phật, một đạo đức tuyệt vời biến cảnh
thế gian
này thành cảnh Cực Lạc, Thiên Đàng.
Trong kinh
sách Nguyên Thủy Đức Phật
dạy tu Tứ
Bất Hoại Tịnh là có bốn cách niệm :
1. Niệm
Phật
2. Niệm
Pháp
3. Niệm
Tăng
4. Niệm
Giới
NIỆM PHẬT
Niệm Phật
như thế nào? Các kinh sách Đại Thừa và các nhà học
giả Phật
giáo dạy niệm Phật là niệm danh hiệu
Phật như:
- Nam Mô
Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
hay Nam Mô
Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân
Sư, Phật,
Thế Tôn.
Niệm Pháp
như thế nào?
Kinh sách
Đại thừa dạy niệm Pháp là
tụng kinh,
tụng chú v.v..
Niệm Tăng
như thế nào?
Kinh sách
Đại thừa dạy niệm Tăng là
cúng dường
trai tăng y áo, thực phẩm, tiền bạc
và tứ sự.
Niệm Giới
như thế nào?
Kinh sách
Đại Thừa dạy niệm Giới là mỗi
tháng tụng
giới hai ngày vào ngày 14 và ngày
30.
Cho nên
hiện giờ trong các chùa theo
tưởng giải
của các nhà học giả Tổ sư của Phật
giáo Đại
Thừa dạy Tăng Ni và các cư sĩ niệm
Phật rất
ồn náo, niệm tất cả các danh hiệu của
chư Phật
mà các nhà học giả tưở ng tượng ra vô
số tên
Phật. Thậm chí như bộ Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân tưởng tượng viết theo
kiểu tiểu
thuyết bốn
thấy trò Tam Tạng thỉnh kinh
Đông Độ đó
là những nhân vật giả tưởng,
không có
thật, thế mà bộ kinh Hồng Danh sám
hối lại
ghi những nhân vật đó vào để chư Tăng,
những ngày
14 và ngày 30 mỗi tháng đều niệm
và lạy
hồng danh chư Phật đó để xin sám hối
cho tiêu
tội. Trong kinh sám hối Hồâng Danh có
cái tên
Đấu Chiến Thắng Phậ t. Đấu Chiến
Thắng Phật
tức là Tôn Hành Giả, Tôn Hành
Giả còn
có tên là Tề Thiên Đại Thánh. Tề
Thiên Đại
Thánh là một con khỉ đột, nhà tiểu
thuyết
tưởng tượng ra chứ không có thật, thế
mà các Tổ
Sư Đại Thừa xem đó là có thật nên
biên soạn
kinh Sám Hối Hồng Danh ghi tên
thầy trò
Đường Tăng vào để bắt Tăng, Ni và
nam nữ cư
sĩ niệm Hồng danh các vị ấy và lạy
mòn đầu
gối. Thật là buồn cười cho quý Tăng,
Ni và cư
sĩ u mê, ngu si, bị lừa đảo mà không
hay biết
bị lừa đảo.
Niệm Phật
như kiểu này dù có niệm muôn
ngàn kiếp
thì thân tâm cũng không bao giờ
thanh tịnh,
một bằng chứng hiển nhiên mà ai
cũng thấy,
quý thầy và quý Phật tử trong các
chùa quanh
năm suốt tháng không có ngày nào
mà không
tụng kinh, niệm Phật, nhưng chúng ta xét lại xem số tu sĩ và cư sĩ
hiện giờ tụng
kinh, niệm
Phật thân tâm có thanh tịnh hay
không? Hay
tâm còn tham, sân, si như các
người
khác. Như vậy gọi là niệm Phật thân
tâm được
thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh chỗ
nào? Đó
là tưởng giải của các nhà học giả Tổ sư
Đại Thừa
dạy sai ý Phật nên người đời sau tu
mà không
có kết quả, biến cảnh chùa nơi tu
hành thanh
tịnh thành chỗ cúng tế, niệm danh
hiệu Phật.
Khi tụng kinh niệm Phật thì
chuông,
trống, mõ làm inh ỏi ồn náo, tụng kinh
như ca hát
ý ê, ý à… giọng cao giọng thấp, trầm
bổng nghe
như hát bộ. Kinh sách Đại Thừa
biến dần
Tứ Bất Hoại Tịnh thành pháp môn
tụng niệm,
nói cách khác là biến thành ca nhạc
Phật giáo,
để ru hồn tín đồ vào thế giới siêu
hình mê
tín, gây tinh thần tiêu cực tựa nương
vào thế
giới tưởng, khiến cho Phật giáo mất
hết ý
nghĩa tự lực giải thoát, cho nên tín đồ
hiện giờ
nghe vị Thầy nào tụng niệm ê a giọng
cao, giọng
thấp thì rất thích, nghe như nghe
âm nhạc
thế gian và còn thích hơn vì thỏa mãn
được tình
cảm thân thương của mình đối với
những
người thân đã khuất.
Từ cái
hiểu sai, dẫn đến sự tu sai, khiến
cho Phật
giáo suy thoái không còn người tu chứng đạo, chỉ còn là vọng ngữ
huyền thoại nói
láo chuyền
nhau.
Niệm,
người ta hiểu nghĩa của nó là lặp đi
lặp lại
một câu kinh, một danh hiệu Phật bằng
ý không
lời hoặc phát ra lời nói, họ còn hiểu
sai hơn nữa
là nhờ câu niệm Phật để ức chế
tâm không
vọng tưởng như trong kinh Di Đà
dạy:
“…Thất nhựt nhất tâm bất loạn chuyên
trì danh
hiệu A Di Đà Phật, dữ chư Thánh
chúng hiện
tại kỳ tiền ”, có nghĩa là niệm
Phật A Di
Đà từ một ngày cho đến bảy ngày
tâm không
loạn tức là không có vọng tưởng thì
thấy Phật
Di Đà và Thánh Chúng hiện ra trước
mặt, báo
cho biết trước khi lâm chung đức Phật
và Thánh
Chúng sẽ phóng hào quang rước về
cõi Cực
Lạc Tây Phương. Hiểu như vậy nên
Thầy Tổ
nào cũng có một xâu chuỗi, lúc nào
cũng lần
chuỗi niệm Phật.
Từ chỗ
hiểu sai Tứ Bất Hoại Tịnh, các nhà
học giả
Đại Thừa và Thiền Đông Độ đã biến
thành một
pháp môn ức chế tâm, pháp môn ức
chế tâm
chẳng giúp cho người tu giải quyết
được gì
cả mà còn thêm bệnh.
Niệm trong
Tứ Bất Hoại Tịnh có nghĩa là
tư duy,
quán xét, suy ngẫm về thân, thọ, tâm
và pháp
của đức Phật, sống như thế nào mà tâm hồn thanh thản, an lạc giải
thoát, cho nên
niệm có
nghĩa là tâm tâm niệm niệm về đời
sống của
đức Phật, Ngài sống như thế nào mà
tâm không
phóng dật? Ngài sống như thế nào
mà không
làm khổ mình, khổ người?
Khi mà tâm
niệm của chúng ta như vậy
khiến cho
tâm chúng ta đặt lòng tin trọn vẹn ở
đức Phật,
do đó đức Phật sống như thế nào thì
chúng ta
sẽ cố gắng sống như thế nấy, đức
Phật làm
như thế nào thì chúng ta sẽ cố gắng
làm như
thế nấy. Sống và làm đúng như Phật
thì tâm
chúng ta thanh tịnh, không còn phóng
dật tức
là tâm ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly
ác ác
pháp tức là tâm giải thoát hay nói một
cách khác
hơn là làm chủ cuộc sống, tâm bất
động trước
các pháp, như vậy mới gọi là niệm
Phật thân
tâm bất hoại tịnh.
Đây là một
bài kinh dạy cách thức chúng
ta niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm
Giới rõ
ràng, chỉ vì các nhà Đại Thừa chẳng
chịu nghiên
cứu kinh sách Nguyên Thủy tự
kiến giải
rồi dạy niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng và
niệm Giới theo tưởng giải, khiến cho
người tu
tập ức chế tâm thành bệnh. Niệm
Phật cầu
vãng sanh Cực Lạc đâu không thấy
mà chỉ
thấy bệnh đau quá hiểm nghèo. Hòa Thượng Thiền Tâm là người xương
minh pháp
môn Tịnh
Độ chuyên ròng niệm Phật, không
biết Ngài
niệm Phật ức chế tâm như thế nào
mà trước
khi chết Ngài đã ói ra máu, chúng tôi
cũng có
một người đệ tử cũng tu ức chế tâm để
tịnh chỉ
hơi thở cũng khạc ra máu đống đống.
Muốn niệm
Phật cho đúng thì chúng ta nên
lắng nghe
đức Phật dạy niệm Phật: “Ở đây,
này
Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm
Như Lai,
trong khi ấy, tâm không bị tham
chi phối,
tâm không bị sân chi phối, tâm
không bị si
chi phối; trong khi ấy, tâm vị
ấy được
chánh trực, nhờ dựa vào Như
Lai”. Đoạn
kinh trên đây đức Phật đã xác định
cách thức
niệm Phật rất rõ ràng “Tuỳ niệm
Như Lai” có
nghĩa là tâm Như Lai không
tham, không
sân, không si thì người sống
(niệm
Phật) như Phật không nên để tham, sân,
si chi
phối. Khi tâm không bị tham, sân, si chi
phối thì
tâm được chánh trực. Danh từ “chánh
trực” ở
đây chúng ta phải hiểu nghĩa cho rõ
ràng.
Chánh trực có nghĩa là tâm ngay thẳng,
tâm ngay
thẳng tức là tâm thanh thản, an lạc
và vô sự
là tâm không phóng dật.
Chúng ta
hãy lắng tai nghe tiếp đức Phật
dạy: “Và
này Mahànàma, một vị Thánh đệ tử, với tâm chánh trực, liền được
nghĩa tín
thọ, được
pháp tín thọ, được hân hoan liên
hệ đến
pháp. Người ấy có hân hoan nên hỷ
sanh. Người
có hỷ, nên thân được khinh
an. Với
thân khinh an, người ấy có cảm
giác lạc
thọ. Người có lạc thọ, tâm được
định
tỉnh”.
Đoạn kinh
trên đây đã xác định cho
chúng ta
thấy kết quả cách thức sống như Phật
sẽ hiện ra
những trạng thái gì?
Khi sống
như Phật tâm được thanh thản,
an lạc và
vô sự thì liền có một niềm tin nơi
Phật trong
ta khởi lên trong ta, vì thế kinh xác
định trạng
thái bằng những danh từ ngắn gọn:
“liền được
nghĩa tín thọ” nhưng rất đầy đủ ý
nghĩa cho
những ai thực hiện đúng lời dạy, còn
những
người sống không đúng như Phật thì
chẳng
hưởng được những kết quả này. Vì thế
Phật dạy:
“Pháp ta không có thời gian đến
để mà
thấy”.
Khi trong ta
có trạng thái lòng tin Phật
khởi lên,
nếu ai có thực hiện được mới biết
trạng thái
này, một trạng thái tuyệt vời của
người có
lòng tin như thật. Còn bây giờ chúng
ta chưa có
trạng thái này nói tin Phật chứ
chúng ta
chưa có tin như thật. Khi nhận được cảm thọ lòng tin này thì ngay đó
tâm hân hoan
thích thú
pháp niệm Phật. Vậy hân hoan thích
thú pháp
niệm Phật là gì? Nghĩa là chúng ta
luôn luôn
thích sống như Phật , có nghĩa là tâm
không còn
ham muốn một vật gì hết ngay cả
cũng không
còn ham muốn ăn uống gì cả. Tâm
sân cũng
vậy, không còn một pháp ác nào tác
động vào
thân tâm, làm ta nổi sân được và si
cũng vậy
lúc bây giờ không còn ham thích lười
biếng ưa
ngủ nghỉ, có nghĩa là trong trạng thái
tín thọ
không còn hôn trầm, thuỳ miên, vô ký
nữa mà
rất siêng năng sống như Phật. Cho
nên, đoạn
kinh dạy: “Được hân hoan liên hệ
đến pháp”.
Cụm danh từ này có nghĩa là vui
mừng thích
thú sống như Phật.
Khi trong
tâm có trạng thái thích sống
như Phật
thì một trạng thái khác hiện lên, đó
là trạng
thái niềm vui mừng khởi lên trong ta
như kinh
dạy: “Người ấy có hân hoan nên
hỷ sanh”.
Niềm vui mừng hiện rõ trong ta thì
cơ thể ta
an lạc và nhẹ nhàng như không còn
trọng
lượng bước đi rất thoải mái, thân không
còn đau
nhức hay mệt mỏi gì cả, một trạng thái
của thân an
lạc vô cùng nên kinh dạy: “Người
có hỷ, nên
thân được khinh an”. Đúng vậy,
người có
niềm vui thì thân được nhẹ nhàng an lạc. Khi thân được nhẹ nhàng an
lạc thì toàn
bộ thân tâm
có một cảm giác thọ lạc một cách
kỳ lạ mà
không thể nói ra được vì không có
danh từ
nào để diễn tả chỉ có người tu tập đến
những
trạng thái đó mới cảm nhận được như
người uống
nước nóng lạnh tự biết, người ngoài
cuộc không
thể biết được. Đoạn kinh đã xác
định rõ
ràng: “Với thân khinh an, người ấy
có cảm
giác lạc thọ”. Trong trạng thái lạc
thọ này
hành giả mới xác định được tâm định
tỉnh. Từ
lâu mọi người ai cũng nói tâm định
tỉnh, nhưng
chưa ai biết được trạng thái tâm
định tỉnh
như thế nào? Trải qua bao nhiêu
trạng thái
mới thấy được tâm định tỉnh. Với
tâm định
tỉnh này các bạn sẽ nhập thiền định
không có
khó khăn, không có mệt nhọc, không
có phí
sức. Tu tập được tâm định tỉnh không
phải dễ
đâu các bạn ạ!
Sống như
Phật cuối cùng chúng ta mới có
được trạng
thái tâm định tỉnh như trong kinh
dạy:
“Người có lạc thọ, tâm được định
tỉnh”. Nếu
tâm bạn chưa có lạc thọ thì không
bao giờ
bạn có được tâm định tỉnh.
Sau khi
được tâm định tỉnh thì các bạn
mới có
một cuộc sống bình thản trước mọi ác
pháp và
mọi cảm thọ; chừng đó chúng ta mới không làm khổ mình, khổ người
và khổ tất cả
chúng sanh
như thật; chừng đó tâm chúng ta
mới bất
động thật sự trước các ác pháp và các
cảm thọ.
Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:
“Này
Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này,
được nói
như sau: “Với mọi người không
bình thản,
vị ấy sống bình thản. Với mọi
người não
hại, vị ấy không não hại. Nhập
được pháp
lưu, vị ấy tu tập niệm Phật là
vậy”. (Kinh
Tăng Chi tập 3 trang 16)
Đến đây
các bạn đã thấy rõ phương pháp
niệm Phật
của Phật giáo Nguyên Thuỷ không
giống
phương pháp niệm Phật của kinh sách
Đại Thừa.
Niệm Phật của kinh sách Đại Thừa
là phương
pháp niệm Phật ức chế tâm nhằm
chế ngự
vọng tưởng “Thất nhựt nhất tâm bất
loạn…”. Đó
là một phương pháp niệm Phật của
ngoại đạo,
chúng ta tu theo Phật hãy ném bỏ
nó, vì đó
là phương pháp tu tập sai. Xin các
bạn cần
lưu ý để tránh sự lừa đảo của ngoại
đạo.
Trên đây là
một trong những bài kinh đã
xác định
đức Phật dạy niệm Phật rõ ràng “dựa
vào Như
Lai” có nghĩa là sống giống như Như
Lai thì đó
là niệm Phật đúng nghĩa.
NIỆM
PHÁP
Niệm Pháp
như thế nào?
Niệm Pháp
không phải theo kiểu các Nhà
học giả
Tổ sư Đại Thừa dạy: “Nam Mô Pháp”,
niệm Pháp
như vậy dù cho có niệm đến 1.000
năm,
1.000.000 năm, thân tâm của quý vị cũng
không thanh
tịnh.
Niệm Pháp
có nghĩa là tư duy suy nghĩ
những pháp
mà đức Phật đã dạy.
Ví dụ:
đức Phật dạy: “Ngăn ác diệt ác
pháp, sanh
thiện tăng trưởng thiện pháp”,
theo lời
dạy này, ngày ngày tâm tâm niệm
niệm luôn
luôn cảnh giác giữ gìn và ngăn ngừa
các pháp
ác, nếu lỡ có các pháp ác sanh ra thì
mau mau tìm
cách diệt nó không được để trong
tâm kéo
dài sự khổ đau giận hờn phiền toái bất
toại
nguyện, khiến cho tâm thanh thản an lạc
nhẹ nhàng
thoải mái yên ổn, đó chính là chúng
ta niệm
Pháp, niệm Pháp như vậy có kết quả
giải thoát
ngay liền khiến cho tâm thanh tịnh
nên gọi là
niệm Pháp thân, tâm bất hoại tịnh.
Pháp của
đức Phật có 37 phẩm trợ đạo,
chúng ta
nên chọn trong 37 phẩm trợ đạo này
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!