Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

đường về xứ phật- tập 1- 2

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
CHƯƠNG I
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP I
duyen phat phap

Một người có đủ duyên được đọc kinh
sách của đạo Phật, thấy được chân lý của Đạo
rất thực tế và cụ thể, hướng dẫn con người cách
thức sống có đạo đức, tu tập và trau dồi thân
tâm để thoát khỏi kiếp sống đọa đày trầm luân
đau khổ của kiếp người, bằng sức tự lực của
chính mình nhất là điều khiển được sự sống
chết như ý muốn và còn chấm dứt được sự tái
sanh luân hồi.
Vì thế, khi bắt đầu đến với đạo Phật để
trở thành người đệ tử chân chánh, thì quý vị
cần phải thông hiểu những gì chân thật và
những gì không chân thật của đạo Phật. Quý vị
cần phải sáng suốt chấp nhận những gì đúng
và phải biết gạt bỏ những gì không đúng của
Phật giáo. Và cuối cùng, quý vị cần phải biết
kính trọng và không kính trọng những gì phải
và những gì không phải của đạo Phật.
Phần đông, Phật tử hiện giờ không cung
kính và tôn trọng chánh pháp của đạo Phật, họ
thường tôn kính giáo pháp phát triển của một
số hệ phái và luôn luôn tu hành theo giáo pháp
trừu tượng mê tín đó, mặc dù kết quả tu hành
chẳng ra gì. Nếu có ai mạnh dạn nói rằng, giáo
pháp phát triển của những hệ phái đó không
phải là của Phật thuyết, đó là giáo pháp mê tín
của ngoại đạo Bà La Môn, thì họ căm tức và
tìm mọi cách chống lại. Đôi khi, còn dùng
những lời lẽ xỉ vả, mạt sát, một cách hung tợn
và bảo thủ.
Khi một người chưa biết Phật Pháp, chưa
hiểu đạo Phật, một hôm có đủ duyên được đọc
một cuốn kinh Phật như trường hợp chúng tôi
đã nghe quý Phật tử thuật lại: “Con từ hồi nào
tới giờ chưa biết Phật Pháp, một hôm được
người bạn trao cho cuốn kinh Thủ Lăng
Nghiêm. Nhờ đọc kinh này, con thấu lý của đạo
Phật quá tuyệt vời, quá hay. Nên từ đó, con
hướng tâm đến đạo Phật, thường đi nghe
thuyết giảng trong các chùa và mua thêm
những loại kinh sách Phật để tham cứu đường
lối và cách thức tu tập của đạo Phật, càng đọc
kinh sách Phật con lại càng có ý muốn đi tu
hơn!!!”.
Đó là, những người hữu duyên may mắn
được đọc các bộ kinh như: “Thủ Lăng Nghiêm,
Kim Cang Kinh, Pháp Hoa Kinh, Phật Học Phổ
Thông và toàn bộ giáo lý A Hàm hoặc kinh
Nikaya”. Ngược lại, những người chưa đủ
duyên, chưa được đọc kinh sách Phật, chưa hiểu
đạo Phật ra sao, nên nhìn đạo Phật như một
tôn giáo mê tín, ông Phật như ông Thần
chuyên phò hộ và ban phước lành cho nhân
gian.
Hầu hết hiện giờ, mọi người hiểu đạo Phật
qua bốn hệ phái khác nhau:
1. Tịnh Độ Tông, biến Phật giáo thành
tôn giáo mê tín, cúng bái, cầu khẩn, niệ m Phật
cầu vãng sanh như Đạo Bà La Môn.
2. Thiền Tông, biến Phật giáo thành Tiên
Giáo.
3. Duy Thức Tông, biến Phật giáo thành
khoa tâm lý học.
4. Mật Tông, biến Phật giáo thành tôn
giáo huyền bí, linh thiêng.
Thật ra, Phật giáo không phải tâm lý học,
không phải cảnh giới siêu hình (Cực Lạc)
không phải bản thể của vạn hữu, cũng không
phải linh thiêng siêu phàm nhập thánh mà
chính là cuộc sống bình thường như mọi người
đang sống, nhưng họ đã lìa xa lòng ham muốn
và các ác pháp.
Người nào hiểu đúng và biết cách sống
đúng “ly dục ly ác pháp” sẽ có tâm hồn
thanh thản, an lạc và vô sự. Đó chính là, người
có hữu duyên với chánh pháp của đạo Phật,
bằng ngược lại thì đó là vô duyên hoặc gặp tà
pháp, hoặc có duyên với tà pháp như người
Phật tử đã nói ở trên.
Vô duyên không gặp chánh Phật Pháp,
còn hơn là những người hữu duyên mà gặp lại
tà pháp của ngoại đạo. Gặp tà pháp của ngoại
đạo thì lại sanh ra kiến chấp, kiến chấp rất là
khó bỏ. Con người vốn vô minh nên khi gặp
pháp nào cũng đều tin. Tin một cách mù quáng
nên dễ dính mắc tà pháp, nhưng dù biết đó
không đúng pháp của đạo Phật, nhưng rất khó
bỏ. Vì thế, trên thế gian này có rất nhiều tôn
giáo, nhưng tôn giáo nào cũng có người theo,
nhất là những tôn giáo có thần thông lại dễ
cám dỗ người theo hơn. Do đó, giáo pháp nào
có thần thông thì người theo càng ngày càng
đông, như kiến bu trên cục đường. Nghe thần
thông ai lại không mê, nhưng thần thông chỉ là
một loại tưởng lực, ảo giác, lừa đảo con người.

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP I
NGƯỜI TÍN ĐỒ CHÅN CHÁNH
CÛA PHÊT GIÁO
Do sự hiểu biết không thâm sâu về đạo
Phật, hiểu biết một cách nông cạn. Vì thế, tín
đồ Phật giáo có thể chia làm năm loại:
1. Người tín đồ đến chùa cúng bái, cầu an,
cầu siêu, xin xăm, bói quẻ, xem ngày tốt xấu,
cúng sao, giải hạn v.v.. (Phật tử mê tín).
2. Người tín đồ đến chùa cúng dường chư
Tăng, nghe thuyết pháp giảng kinh để tìm
hiểu đạo Phật, những người này có học thức
nhưng lại thiếu cân nhắc, nghe giảng pháp nào
tin ngay pháp nấy. Không biết pháp có đúng
hay sai của đạo Phật, cứ nghe giảng có lý là cứ
tu tập. Do thế, sanh ra kiến chấp, tranh luận
hơn thua... (Phật tử nông nổi).
3. Người tín đồ đến chùa ít cúng dường
chư Tăng, ít lễ Phật, ít cúng bái, chỉ chuyên
nghe thuyết giảng kinh điển, học thuộc làu
nghĩa lý và thỉnh nhiều loại kinh sách của các
nhà học giả nghiên cứu sưu tầm soạn ra, lấy đó
làm tiêu chuẩn, rồi cũng tự kiến giải nghĩa lý
ấy, theo quan điểm riêng tư của mình, tìm các
bậc tu hành tranh luận hơn thua để hạ nhục họ
và tự cho mình như một bậc Thầy thông suốt lý
đạo. Đôi khi, còn tỏ ra như mình đã tu chứng
(Phật tử kiêu căng).
4. Người tín đồ đến chùa không cúng bái
Phật, không cúng dường chư Tăng, không nghe
thuyết giảng kinh, chỉ móc nối làm ăn (Phật tử
mượn danh làm ăn).
5. Người tín đồ đến chùa cúng bái Phật,
cúng dường chư Tăng, nghe thuyết giảng kinh
điển để tìm hiểu và cân nhắc pháp mô n nào
đúng, pháp môn nào sai, để chọn lấy pháp môn
chân chánh của đạo Phật rồi mới tu tập (Phật
tử chân chánh).
Trong năm loại Phật tử, chỉ có loại Phật
tử thứ năm, mới chính là tín đồ Phật giáo
thuần thành, chấp hành nghiêm túc theo đúng
lời dạy của đức Phật, còn bốn loại Phật tử kia,
là tín đồ không hiểu đạo Phật chịu ảnh hưởng
tà giáo ngoại đạo khiến Phật giáo suy vong,
cũng chính do bốn hạng Phật tử trên, nhất là
hạng Phật tử mê tín.
Nếu không là đệ tử của đức Phật thì thôi,
mà đã là đệ tử của đức Phật, thì phải có sự
sáng suốt, ngăn ngừa bảo vệ không cho tà giáo
ngoại đạo xâm chiếm vào Phật giáo mới đúng,
đàng này thì khác, đệ tử của đức Phật mà lại
nối giáo cho ngoại đạo để diệt Phật giáo mới
thật là đau lòng.
Kính thưa quý vị! Không phải quý vị hiện
giờ đang thực hành và ca ngợi giáo pháp của
ngoại đạo sao?
Những điều quý vị đến chùa cúng bá i, cầu
siêu, cầu an, cúng sao giải hạn, xem ngày giờ
tốt xấu v.v.. và như vậy, quý vị có làm đúng
như lời Phật dạy không?
Quý vị hằng ngày ngồi Thiền, niệm Phật
đã được những kết quả giải thoát gì? Tâm có
hết tham, sân, si chưa? Hay chỉ ngồi kiết già
ba bốn tiếng đồng hồ, quý vị cho đó là kết quả
ư!
Ở những giáo pháp này, đã biến quý vị trở
thành những con chiên ngoan đạo, quý vị có
biết không?
Những giáo pháp này, đã biến Phật giáo
thành tà giáo ngoại đạo, mê tín, lạc hậu, thiếu
khoa học, không logic. Các vị có tin lời nói của
chúng tôi không? Đó là, một sự thật hiển
nhiên, xin các vị suy ngẫm lại.

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
VÐ MINH SƯ PHÊT GIÁO
Người vô duyên không được gặp Phật
Pháp, cuộc đời trôi theo dòng nước dục lạc uế
trược thế gian, bảy nổi ba chìm, khổ đau vô
tận, từ kiếp này chuyển sang kiếp khác không
bao giờ dứt, như con kiến đi quanh vòng miệng
lu.
Người vô duyên không gặp Phật Pháp, lại
gặp tà pháp, càng tu tự ngã càng cao, thường
gạt người để mua danh cầu lợi, làm nhiều điều
tội ác, thật là uổng phí cho một đời tu của một
kiếp người.
Người hữu duyên gặp được Phật Pháp
nhưng không gặp được minh sư, không thấu rõ
lý chánh pháp của đạo Phật, tu tập theo kiến
giải của các nhà học giả, giống như loài vật
gặm xương, bỏ đi thì uổng, nhai lại thì chẳng
có gì.
Người hữu duyên và có tâm quyết tu theo
đạo Phật, để mong cầu thoát ra cảnh khổ trần
lao thế tục, mà lại gặp những kinh sách phát
triển ngoại đạo, hiện hành của các nhà học giả
biên soạn ra, xưa và nay thì tu hành, dở sống
dở chết chẳng ra gì. Đời chẳng ra đời, đạo
chẳng ra đạo.
Để làm sáng tỏ trong giới tu sĩ Phật giáo
hiện giờ, chúng ta có thể chia làm sáu loại tu sĩ
như sau:
1/ Tỳ kheo chuyên cúng bái, tán tụng, kệ
ngâm (ứng phú đạo tràng). Tỳ kheo này ít học
giáo lý, chùa là nơi sinh sống như một gia
đình, có vợ, có con, tự làm ăn mọi nghề nghiệp
như một gia đình thế tục: làm ruộng, làm rẫy,
làm vườn, chăn nuôi heo, gà, dê, bò v.v.. Có ai
thỉnh đi cúng bái, tụng niệm cầu siêu, cầu an
v.v.., đều cất giá tiền công hẳn hòi.
2/ Tỳ kheo chuyên cúng bái tụng niệm, cầu
siêu, cầu an, tổ chức lễ lộc, tổ chức hành hương,
tổ chức từ thiện v.v.. Các vị Tỳ kheo này không
có vợ con, có trình độ giáo lý và có học thức, đi
đám tụng niệm không lấy tiền công, chỉ nhận
tiền cúng dường trai tăng tứ sự v.v.. Chùa là
nơi sinh hoạt của những Phật tử mê tín suốt
ngày.
3/ Tỳ kheo chuyên học tập giáo lý, làm
việc Giáo Hội, giảng sư dịch thuật, soạn kinh
viết sách, các vị Tỳ kheo này có trình độ văn
hóa cao, có kiến thức Phật giáo sâu rộng nhưng
không có tu hành, họ thuộc về cấp lãnh đạo
Giáo Hội Phật Giáo.
4/ Tỳ kheo vừa tu vừa thuyết giảng kinh
điển Thiền, Mật và Tịnh cho tín đồ tu tập theo
kiến giải của mình, những Tỳ kheo này tu theo
Bồ Tát Đạo, hành Bồ Tát Hạnh. Bốn hạng Tỳ
kheo trên đây thuộc về Bắc Tông Đại Thừa
Giáo.
5/Tỳ kheo chuyên ăn thịt chúng sanh, đó
là những Sư Nam Tông, tu theo kinh sách
Nguyên Thủy, nhưng bị kiến giải của các nhà
học giả có học thức cao trên đại học thường phá
giới, sống phi Phạm hạnh nên hiểu sai lời dạy
của đức Phật đã trở thành những ác tri thức,
mất chủng tử từ bi, xa lìa hạt giống chánh
pháp, thường lý luận để ăn thịt chúng sanh:
“Ăn không thấy, không nghe, không nghi”.
6/ Tỳ kheo cất thất, am, cốc riêng để tu
một mình, đó là những tu sĩ tiêu cực, yếm thế,
chỉ tìm sự an vui cho cá nhân. Họ tưởng tu như
vậy là giải thoát, nhưng nào ngờ là trốn đời
chạy theo tâm ham muốn sống cảnh yên tịnh.
Trên đây là sáu hạng Tỳ kheo:
a/ Nếu quý vị chọn loại một làm thầy thì
quý vị tu theo Phật giáo Ứng Phú Đạo Tràng
mê tín, chịu nhiều ảnh hưởng phong tục tập
quán dân gian, những Tỳ kheo này phần đông
phá giới, phạm giới, sống không bao giờ đúng
giới hạnh, những tu sĩ này được xem là những
cư sĩ trọc đầu.
b/ Nếu quý vị chọn loại hai làm thầy , thì
quý vị tu theo Phật giáo thuộc Bà La Môn
Giáo, tu phước hữu lậu.
c/ Nếu quý vị chọn loại ba làm thầy, thì
quý vị tu theo Phật giáo danh lợi.
d/ Nếu quý vị chọn loại bốn làm thầy, thì
quý vị tu theo Phật giáo Thiền Tông, Mật
Tông, Tịnh Độ Tông. Những pháp môn tu này
giống như người nhai viên sắt, nuốt chẳng vô,
nhả chẳng ra.
e/ Nếu quý vị chọn loại năm làm thầy, thì
quý vị tu theo Phật giáo Nam Tông, trở thành
ác tri thức, mất tâm từ bi, xa lìa đạo giải thoát.
f/ Nếu quý vị chọn loại sáu làm thầy, thì
quý vị tu theo Phật giáo yếm thế trốn đời, tiêu
cực. Cuộc đời tu hành chẳng tu tới đâu, chỉ có
công mà chẳng lợi ích gì.
Trong đạo Phật có sáu loại tu sĩ như vậy,
nếu quý vị không chấp nhận họ làm thầy của
mình, thì quý vị chấp nhận ai làm thầy của
mình?
Chúng tôi xin giới thiệu một vị minh sư
của đạo Phật, để quý vị khỏi tìm kiếm đâu xa
và khỏi bị tà sư ngoại đạo lường gạt. Vị minh
sư ấy là ‘‘Giáo Pháp và Giới Luật của đức
Phật’’. Xưa, đức Phật cũng nhờ nương vào giáo
pháp và giới luật này, mà Ngài tu chứng đạo.
Cho nên, khi thành đạo Ngài đã quỳ xuống
đảnh lễ giáo pháp này và tôn xưng nó là Thầy
của mình. Đến khi nhập diệt vào Niết Bàn,
Ngài di chúc lại: ‚Sau khi Ta nhập Niết
Bàn, các Thầy Tỳ kheo hãy lấy Giáo Pháp
và Giới Luật của Ta làm Thầy, làm chỗ
nương tựa vững chắc tu hành…‛
Chúng tôi cũng xin giới thiệu, kinh sách
của chính đạo Phật để quý vị khỏi lầm kinh
giả.
1. Bốn bộ kinh A Hàm.
2. Năm bộ kinh Nikaya.
Tuy rằng, bốn bộ kinh A Hàm và năm bộ
kinh Nikaya là kinh gốc của đạo Phật, nhưng
trong ấy các Tổ đã có sự thê m bớt rất nhiều,
nhất là kinh A Hàm, các Tổ đã dịch làm lệch ý
của Phật và còn soạn viết những bài kinh gạch
nối giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa. Vậy, quý Phật
tử khi nghiên cứu đừng tin trọn những kinh
sách này, mà hãy nhớ lời đức Phật đã dạy:
‚Này các Kàlàmà!
1- Chớ có tin vì nghe truyền thuyết,
2- Chớ có tin vì nghe truyền thống,
3- Chớ có tin vì nghe người ta nói
đồn,
4- Chớ có tin vì được kinh tạng
truyền tụng,
5- Chớ có tin vì nhân lý luận siê u
hình,
6- Chớ có tin vì đúng theo một lập
trường,
7- Chớ có tin vì đánh giá hời hợt
những dự kiện,
8- Chớ có tin vì phù hợp với định
kiến của mình,
9- Chớ có tin nơi phát xuất có uy
quyền,
10- Chớ có tin vì bậc Sa Môn là Đạo
Sư của mình, v.v..
Nhưng này các Kàlàmà! Khi nào, tự
mình biết rõ như sau: ‚Các pháp này bất
thiện, các pháp này là có tội lỗi, các pháp
này bị người có trí hiểu biết chỉ trích, các
pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa
đến bất hạnh khổ đau‛. Thời này, Kàlàmà
hãy từ bỏ chúng không nên tin theo‛.
Những lời dạy trên đây của đức Phật, là
những lời nhắc nhở và cảnh cáo đệ tử của
mình, đừng quá vội tin mà bị lừa đảo những
pháp môn ngoại đạo giả mạo của Phật giáo.
Rút ra từ những lời dạy này, khi bước
chân vào các tôn giáo thì chúng ta cần phải dè
dặt cẩn thận nhiều hơn, không nên tin mù
quáng mà phải chọn đúng chánh pháp dạy đạo
đức làm Người, làm Thánh. Vì chính đạo đức
làm Người, làm Thánh là sẽ không làm khổ
mình, khổ người và khổ tất cả những loài
chúng sanh.

ĐÄO PHÊT LÀ MỘT TƠN GIÁO TỰ LỰC
Ngườimuốn đi theo con đường tu
hành chân chánh của đạo Phật, thì phải thấu
rõ đời sống của con người từ khi sinh ra cho
đến khi chết, toàn là một cuộc sống khổ, khổ
như thật, khổ vì thân tâm của mình mang đầy
ắp phiền não tham, sân, si, khổ vì mọi người
sống chung quanh mình tư tưởng không đồng
nhau, khổ vì hoàn cảnh trái ngang lúc thuận
lúc nghịch, khổ vì cơm ăn áo mặc phải vất vả
gian nan. Khi chúng ta thấy đúng, biết đúng
khổ như vậy, thì mới dám chọn con đường tu
hành của đạo Phật. Nếu không thấy đời sống
khổ như thật, còn thấy nó có hạnh phúc, có an
lạc, sung sướng thì đừng nên chọn con đường tu
hành của đạo Phật.
Tại sao vậy?
Tại vì, con đường tu hành của đạo Phật là
con đường đi ngược lại với cuộc sống của đời
người. Vả lại, con đường tu hành theo đạo Phật
là một con đường phải tự lực dùng sức lực của
mình, luôn luôn phải trau dồi thân tâm và rèn
luyện tu tập cố sức xả bỏ những tâm niệm đầy
tham muốn và các ác pháp đang vây quanh.
Khi muốn xả bỏ như vậy, thì chúng ta cần phải
gan dạ, lầm lỳ, kiên trì, chịu đựng, kham nhẫn
v.v.. Và còn phải đầy đủ nghị lực để mạnh dạn
dứt bỏ những thói hư, tật xấu, chứ không phải
vào điện Phật cúng bái, cầu khẩn, van xin, nhờ
tha lực chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ, trợ lực cứu
khổ cứu nạn, giải thoát các khổ đau, tai ương,
bệnh tật v.v.., hay phóng hào quang tiếp độ
những vong hồn người chết về cõi Cực Lạc Tây
Phương.
Và cũng không phải tu hành bằng cách
tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, ngồi Thiền,
luyện bùa, luyện chú để có thần thông, pháp
thuật v.v.. hoặc để cầu được sinh về Cực lạc,
Niết Bàn bằng những tha lực, oai lực của chư
Phật, chư Bồ tát.
Muốn tu theo đạo Phật để thoát cảnh khổ
đau của kiếp làm người, thì phải dùng sức tự
lực của chính mình, chứ không phải bằng tha
lực của người khác, như trong các kinh sách
phát triển ngoại đạo dạy.
Đọc kinh sách Nguyên Thủy, chúng ta
thấy đức Phật dạy tu hành bằng những pháp
môn tự lực, hầu hết không có một bài pháp nào
dạy tu tập cầu tha lực. Chỉ có kinh sách phát
triển ngoại đạo mới có dạy tu tha lực mà thôi
(niệm Phật cầu vãng sanh).
Khi nghe giảng đến đây, có người lại hỏi
chúng tôi: Vậy, kinh sách Nguyên Thủy Phật
dạy: “Tứ Bất Hoại Tịnh”, không phải pháp
môn Tứ Bất Hoại Tịnh là niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng, niệm Giới sao?
Kính thưa quý Phật tử! Đức Phật dạy
niệm Phật là sống như Phật, chứ không phải
niệm danh hiệu Phật; niệm Pháp là sống đúng
như pháp, tu tập đúng như pháp, chứ không
phải tụng kinh; niệm Tăng là sống hòa hợp
như chúng Tăng, không chống trái nhau, chứ
không phải trai tăng cúng dàng lạy lễ các vị
Tăng để cầu phước báu; niệm Giới là sống đúng
Phạm hạnh, không hề vi phạm giới luật và
không phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, chứ không
phải hằng tháng vào ngày 30 và ngày rằm
cùng nhau tụng giới. Nghe dạy niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới thì các nhà
học giả kiến giải theo chữ nghĩa mà giải thích
ra, niệm là đọc lầm thầm trong ý như câu;
“Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni hay
Nam Mô Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiê n Nhơn
Sư, Phật, Thế Tôn”. Niệm như vậy, là niệm
không có nghĩa gì cả, không có sự giải thoát gì
cả. Ở đây, đức Phật dạy niệm tức là sự tư duy
Phật, Pháp, Tăng và Giới để chúng ta thấu
triệt Phật, Pháp, Tăng và Giới hàm nghĩa giải
thoát như thế nào, để chúng ta noi theo đó mà
thực hiện sống và tu tập đúng như Phật, như
Pháp, như chúng Thánh Tăng và như Giới luật
đã dạy.
Có hiểu biết và tu tập như vậy, thì mới có
giải thoát thật sự, còn niệm danh hiệu Phật,
tụng kinh, cúng dàng trai tăng và đảnh lễ chư
Tăng và tụng Giới, dù có niệm Phật, Pháp,
Tăng và Giới như vậy cho đến muôn kiếp ngàn
đời thì cũng chẳng có giải thoát được chút nào.
Người ta đã lầm, niệm như vậy là để nhất tâm
bất loạn tức là niệm không có vọng niệm xen
vào, chỉ duy nhất có câu niệm Phật mà thôi, thì
sẽ được vãng sanh Tịnh Độ, đó là hiểu theo
Tịnh Độ Tông (“Thất nhựt nhất tâm bất loạn
chuyên trì danh hiệu A Di Đà Phật dữ chư
Thánh chúng hiện tại kỳ tiền...”). Còn hiểu
theo Thiền Tông, thì nhất tâm bất loạn tức là
chẳng niệm thiện niệm ác, chẳng niệm thiện
niệm ác là Thiền định, là Phật tánh. Nhưng tất
cả những sự tu tập như vậy, đều sai hết quý vị
ạ! Chỗ nhất tâm bất loạn của quý vị, sẽ rơi vào
thế giới tưởng của tưởng uẩn, nơi đây là mê
hồn trận của tà giáo ngoại đạo. Quý vị tu hành
cần nên cảnh giác nơi hang hùm nguy hiểm
này. Nếu tu tập đến đây quý vị coi chừng rối
loạn thần kinh mà nguy hiểm tánh mạng, biến
quý vị trở thành người điên khùng.
Người mới bước chân vào đạo Phật, ngơ
ngác trước đống kinh sách khổng lồ của Phật
giáo phát triển. Có những loại kinh sách,
chúng ta đọc vào thấy toàn sự tu tập đều nhờ
tha lực để trợ lực trên bước đường đi đến giải
thoát như: kinh Vô Lượng Quang, kinh Di Đà,
kinh Quy Ngươn, kinh Pháp Hoa v.v..
Tất cả kinh này đã làm cho người tu sĩ
nhụt chí, mất hết nghị lực, biến Phật giáo
thành một tôn giáo tha lực, một tôn giáo mê
tín khiến cho người đời sau tu hành chỉ còn
biết cầu cạnh vào kẻ khác, do những sự tu
hành sai này đạo Phật chẳng còn ai tu chứng.
Họ lý luận, người mới tu phải tụng kinh,
bái sám, niệm Phật, lạy hồng danh chư Phật,
phải cầu tha lực, còn người tu lâu năm phải tự
lực ngồi Thiền quán niệm hơi thở. Người tu
hành mà hiểu Phật giáo như vậy, tức là chẳng
hiểu Phật giáo gì cả. Hiểu như vậy là hiểu theo
Phật giáo phát triển.
Người mới tu, như các cư sĩ bước chân vào
Đạo, đức Phật đã dạy bài học tu tập tự lực đầu
tiên là phải dứt bỏ sáu nghề nghiệp ác đang
sanh sống hàng ngày, nghĩa là chúng ta muốn
theo đạo Phật tu hành thì phải đổi nghề ác làm
nghề thiện.
Qua bài kinh dứt sáu nghề ác, chúng ta
thấy rõ sự tự lực của đạo Phật ngay từ lúc ban
đầu.
Khi bước chân vào Đạo ta được nghe
Người dạy: ‚Thông hiểu những gì cần phải
thông hiểu, dứt bỏ những gì cần phải dứt
bỏ, tu tập những gì cần tu tập, trau dồi
những gì cần trau dồi‛. Những việc làm này
không thể cầu tha lực của người khác được.
Đạo Phật là một tôn giáo xây dựng trên
nền tảng thiện pháp, mọi ác pháp đều phải
được loại trừ dứt bỏ, nhờ có loại trừ ác pháp,
tăng trưởng thiện pháp, cuộc sống mới có sự
giải thoát an vui, hạnh phú c cho mình, cho
người.
Loại trừ ác pháp, chỉ có tự lực, không thể
có tha lực, những điều làm ác phải tự mình dứt
bỏ chứ không thể cầu cạnh người khác giúp
mình được.
Ví như mình đi ăn cắp, ăn trộm, nhờ
người khác giúp mình đừng ăn cắp, ăn trộm có
được không? Không thể được, phải tự mình biết
đó là một việc làm ác, khiến người ta sầu khổ
thì mình nên dứt bỏ, cũng như sáu nghề nghiệp
ác, không thể cầu chư Phật giúp mình dứt các
nghề nghiệp ác đó được. Chính phải tự mình tự
lực dứt bỏ, không hành nghề ác đó nữa.
Nhờ thế, chúng ta mới biết rõ đạo Phật là
đạo tự lực. Kinh sách tha lực không phải kinh
sách đạo Phật.
Đạo Phật nhìn cuộc đời với đôi mắt nhân
quả, nhân quả chỉ có tự lực mới dứt bỏ được mà
thôi, dù cho có một đấng vạn năng cũng không
giúp chúng ta vào việc này được.
Vì thế, đạo Phật là một tôn giáo mà phi
tôn giáo; một tôn giáo không có đấng thiêng
liêng vạn năng cứu khổ, một tôn giáo bằng sức
tự lực của con người cứu mình ra mọi cảnh khổ,
nên đạo Phật còn gọi là “Đạo Độc Cư, Độc Bộ,
Độc Hành”.
Đạo Phật còn gọi là nền đạo đức nhân bản
- nhân quả sống không làm khổ mình, khổ
người và không làm khổ tất cả chúng sanh.



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!