Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

đường về xứ phật- tập 1-3

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
CHƯƠNG II
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP I
NGƯỜI CƯ SĨ CĨ SÁU NGHỀ KHƠNG NÊN LÀM
Trong kinh A Hàm và Nikaya, đức Phật
đã ngăn cấm người cư sĩ không nên hành sáu
nghề ác, vì sáu nghề này không phù hợp với
tâm từ bi của đạo Phật. Sáu nghề ác đó như
sau:
1. Không làm nghề săn bắn, nghề săn bắn
là một nghề cực ác, giết hại biết bao nhiêu loài
cầm thú rừng: nai, hươu, khỉ, chồn, heo, gà
rừng và các loại chim chóc khác nữa v.v..
2. Không làm nghề chài lưới, nghề chài
lưới cũng là một nghề rất độc ác, chuyên bắt
tôm cá, giết hại loài thủy tộc như: đặt rọ, lờ,
chài, lưới, vó, câu v.v..
3. Không làm nghề buôn bán thịt sống,
nghề buôn bán thịt sống là nghề sát sanh trâu,
bò, heo, dê, ngựa, chó, gà, vịt v.v.. Người làm
nghề này, gọi là đồ tể giết gia súc bán từng ký
lô cho người khác mua về làm thực phẩm, nghề
này rất độc ác, giết hại chúng sanh không chút
lòng thương xót.


4. Không làm nghề buôn bán thịt chín,
nghề buôn bán thịt chín là nghề lấy thịt chúng
sanh nấu thành thực phẩm như: phở, cháo
lòng, hủ tiếu, bánh canh, bì chả, nem v.v..
Nghề này cũng là nghề độc ác, người hành
nghề này cũng đánh mất tâm từ bi.
5. Không làm nghề sản xuất và buôn bán
rượu, vì sản xuất và buôn bán rượu khiến người
ta nghiện ngập say sưa, không còn trí thông
minh, nên họ có thể la xóm, mắng làng, chửi
vợ mắng con, bất kể cha, mẹ, anh, em ruột thịt,
không biết dơ sạch, nằm ngoài đường, ngủ bụi,
ngủ bờ, nằm sương nằm nắng, làm mất thể
diện con người, thân thể dễ sanh bệnh tật, tạo
cảnh khổ đau cho cha, mẹ, anh, em, vợ, con
v.v..
6. Không làm nghề buôn bán người, nghề
buôn bán người là nghề mãi nô (bán nô lệ)
nghề buôn hương bán phấn (nghề mãi dâm)
cũng là nghề buôn bán người. Nghề này rất độc
ác, dùng thế lực, tiền bạc, vật chất bắt ép
những người cô thân thất thế đang cảnh nghèo
đói bán thân làm nô lệ, làm gái mãi dâm,
khiến cho gia đình khổ đau và tan nát. Nghề
mãi dâm là một nghề đồi bại làm mất nhân
phẩm của con người, khiến con người không
còn đạo đức và còn tệ hơn loài thú vật, vì con
vật có lúc dâm và cũng có lúc không dâm, cho
nên kẻ làm nghề bán trôn nuôi miệng là kẻ
làm xấu xa thân phận làm người.
Sáu nghề nghiệp này, là sáu nghề nghiệp
độc ác, giết hại chúng sanh và làm khổ đau
bệnh tật muôn người, nhất là nghề sản xuất và
bán rượu, sản xuất và bán thuốc phiện, sản
xuất và bán xì-ke ma túy, sản xuất và bán
thuốc lá, thuốc lào v.v.. là những thứ gây bệnh
tật nghiện ngập hao tổn tiền bạc, của cải, tài
sản biết bao nhiêu người, trải qua bao nhiêu
thế hệ phải gánh lấy hậu quả đau khổ này.
Do thế, những người hành những nghề
nghiệp này để nuôi thân mạng, cha mẹ, gia
đình và làm giàu trên sự đau khổ của muôn
người muôn vật.
Họ là những người vô minh không thấy
luật nhân quả đang chi phối diễn biến từng
phút giây trong mỗi con người, luật nhân quả
sẽ không tha thứ một ai, nếu ai đã làm điề u ác
thì phải hứng lấy hậu quả khổ đau.
Nếu quý vị không tin lời Phật dạy, thì hỏi
thăm những gia đình đang hành những nghề
nghiệp này. Trông bề ngoài có vẻ giàu sang
sung sướng nhưng bên trong chẳng có hạnh
phúc gì cả. Thường những gia đình này hay có
những người đau ốm bệnh tật, không người này
thì đến người khác, tai nạn thường xảy ra,
khiến gia đạo bất an, lúc nào cũng lo lắng sợ
sệt, cuộc sống của gia đình họ chẳng bao giờ
êm ấm yên vui hạnh phúc.
Làm ác thì phải lãnh quả khổ. Không làm
sao và cũng không ai cứu thoát khổ được.
Vì thế, đức Phật biết rất rõ nhân quả
thiện ác, nên Ngài muốn cho đệ tử của mình
thoát ra khỏi cảnh khổ đau, Ngài thường ngăn
cấm không cho người cư sĩ hành sáu nghề
nghiệp ác, dù nghề nghiệp ấy kiếm tiền rất dễ,
nhưng nó không phải là hạnh phúc chân
chánh. Do đó, Ngài muốn cho các đệ tử của
mình sống an vui hạnh phúc chân chánh,
không còn gặp cảnh đau khổ nữa. Chính vì
hằng ngày, trong cuộc sống chúng ta đã tạo ra
nhiều nhân ác nên phải chịu những quả khổ
đau đời đời kiếp kiếp, chứ không ai mang đến
quả khổ ấy cho ta được dù kẻ đó là quỉ thần ác
độc. Cũng như không có một vị thần Thánh
nào hay một đức Phật cùng những vị Bồ Tát
nào ban phúc lành cho chúng ta được. Xin các
bạn lưu ý cho điểm này.
Nhân quả là một đạo luật công bằng,
chính chúng ta làm ra là chúng ta phải chịu,
không thể người khác chịu thay cho chúng ta
được. Vì thế, không ai mang đến khổ đau cho
chúng ta mà chính chúng ta, cũng như không ai
mang đến hạnh phúc an vui cho chúng ta mà
chính chúng ta.
Bởi, người cư sĩ không thấy luật nhân quả
rất công bằng và công lý, cho nên trong cuộc
sống họ không biết chọn nghề nghiệp, chỉ thấy
nghề nào làm ra tiền và có cơm ăn áo mặc dễ
dàng, nhất là môi trường sống, nơi đó mọi
người làm nghề sát sanh là dễ kiếm tiền thì họ
bắt chước làm theo, nhưng không ngờ lại tạo ra
vô vàn tội ác. Từ những hành động tạo ra sự
chết chóc và đau khổ cho chúng sanh thì chính
bản thân họ và ngay cả gia đình đều phải thọ
lãnh những quả khổ đau ấy từ người này đến
người khác.
Là đệ tử của đức Phật, những hàng cư sĩ
phải lưu ý sáu nghề nghiệp ác độc này, luôn
luôn phải vâng theo lời dạy của đức Phật thì
mới tìm thấy chơn hạnh phúc, an vui của cá
nhân và của cả gia đình mình.
Hành nghề đúng như vậy mới gọi là
chánh nghiệp, chính nghề nghiệp chân chánh
mới nuôi được chánh mạng của mình và của
mọi người trong gia đình. Hạnh phúc từ ấy sẽ
đến với các bạn. Các bạn có tin những lời dạy
này không?

THỌ DỤNG THỰC PHẨM KHƠNG THẤY,  KHƠNG NGHE VÀ KHƠNG NGHI
Sáunghề nghiệp ác đã dạy trong tập
sách này, chúng tôi có ghi chú thêm để quý
Thầy và các Phật tử nhận thấy rõ.
Tại sao lại có chư Tăng Nam Tông thọ
dụng thực phẩm động vật?
Có phải đức Phật đã cho phép chư Tăng
thọ dụng thực phẩm động vật hay không?
Để trả lời những câu hỏi này và làm sáng
tỏ Phật giáo. Các nhà sư Nam Tông không biết
dựa vào lời dạy nào của đức Phật mà dám thọ
dụng thịt động vật.
Thưa quý Hòa Thượng, quý Sư, Thầy và
các Phật tử hãy đọc lại bài kinh số 55 Jivaka
trang 71, kinh Trung Bộ tập 2, Tạng Kinh Việt
Nam do HT Minh Châu chuyển ngữ từ tiếng
Pali sang Việt ngữ.
Trong bài kinh này, đoạn kinh thứ nhất
đức Phật đã dạy người tu sĩ không được thọ
dụng thịt động vật thấy, nghe và nghi: ‚Này
Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt
động vật không được thọ dụng: thấy, nghe
và nghi‛.
Theo nghĩa của đoạn kinh này, khi một vị
Tỳ kheo “thấy” thực phẩm của người Phật tử
cúng dường có thịt chúng sanh thì không được
ăn, đó là trường hợp thứ nhất.
Khi thực phẩm của người Phật tử cúng
dường “không thấy” có thịt chúng sanh nhưng
lại “nghe” người khác nói trong thực phẩm đó,
có thịt chúng sanh, thì không được ăn, đó là
trường hợp thứ hai.
Khi thực phẩm của người Phật tử cúng
dường “không thấy” có thịt và cũng “không
nghe” nói có thịt chúng sanh nhưng tâm lại
sanh “nghi ngờ” thực phẩm này có thịt chúng
sanh, vì có mùi tanh thì không được ăn, đó là
trường hợp thứ ba.
Xét qua ba trường hợp trên đây, rõ ràng
đức Phật không cấm ăn thịt chúng sanh mà chỉ
có lời khuyên để chúng Tỳ kheo ý thức sự đau
khổ của chúng sanh mà không ăn thịt. Ý thức
sự đau khổ của chúng sanh mà không ăn thịt
tức là thực hiện lòng từ bi thương xót chúng
sư Nam Tông dùng lý luận biện hộ cho những
hành động tội ác của mình: “Không thấy nghĩa
là không thấy người giết con vật, để cúng
dường cho mình; không nghe, nghĩa là không
nghe tiếng kêu của con vật khi bị giết để cúng
dường cho mình; không nghi nghĩa là thấy thực
phẩm động vật Phật tử cúng dường không nghi
ngờ người ta giết con vật làm thực phẩm để
cúng dường cho mình”. Cho nên, trong bài kinh
Jivaka có mở ngoặc và đóng ngoặc (Vì mình mà
giết). Bốn chữ này, là do người sau thêm vào để
thỏa mãn dục vọng tham ăn thịt chúng sanh.
Xưa, các Tổ không có điều gì mà không dám
làm, họ thêm bớt rất nhiều trong kinh sách
Nguyên Thủy, ngày nay cũng vậy, họ cũng dám
lý luận làm sai lệch lời dạy của đức Phật, có
khi vì bảo vệ danh dự của mình trong lúc vi
phạm giới luật và cũng có khi vì không hiểu
phương pháp hoặc do tu tập chưa chứng.
Nếu bài kinh chấm dứt ở đây, thì chúng ta
khó làm sáng tỏ đượ c Phật giáo. Nhưng bài
kinh lại dạy tiếp phần thứ hai và phần thứ ba,
nên chúng ta mới thấy rõ bộ mặt bất thiện và
lòng tham dục của các nhà sư Nam Tông khéo
thêm thắt, khéo lý luận bóp méo kinh sách của
đức Phật để gây tội ác tày trời, nên tất cả các
sư Nam Tông dùng lý luận biện hộ cho những
hành động tội ác của mình: “Không thấy nghĩa
là không thấy người giết con vật, để cúng
dường cho mình; không nghe, nghĩa là không
nghe tiếng kêu của con vật khi bị giết để cúng
dường cho mình; không nghi nghĩa là thấy thực
phẩm động vật Phật tử cúng dường không nghi
ngờ người ta giết con vật làm thực phẩm để
cúng dường cho mình”. Cho nên, trong bài kinh
Jivaka có mở ngoặc và đóng ngoặc (Vì mình mà
giết). Bốn chữ này, là do người sau thêm vào để
thỏa mãn dục vọng tham ăn thịt chúng sanh.
Xưa, các Tổ không có điều gì mà không dám
làm, họ thêm bớt rất nhiều trong kinh sách
Nguyên Thủy, ngày nay cũng vậy, họ cũng dám
lý luận làm sai lệch lời dạy của đức Phật, có
khi vì bảo vệ danh dự của mình trong lúc vi
phạm giới luật và cũng có khi vì không hiểu
phương pháp hoặc do tu tập chưa chứng.
Nếu bài kinh chấm dứt ở đây, thì chúng ta
khó làm sáng tỏ đượ c Phật giáo. Nhưng bài
kinh lại dạy tiếp phần thứ hai và phần thứ ba,
nên chúng ta mới thấy rõ bộ mặt bất thiện và
lòng tham dục của các nhà sư Nam Tông khéo
thêm thắt, khéo lý luận bóp méo kinh sách của
đức Phật để gây tội ác tày trời, nên tất cả các
xứ Phật giáo Nam Tông tu hành chẳng đến
đâu, nhập định điên khùng “Minh Sát Tuệ” tu
hành không đúng Tứ Niệm Xứ và Tứ Thánh
Định của đạo Phật. Chẻ pháp môn Tứ Niệm
Xứ ra từng mảnh: Đây là trường Thiền tu Tâm
Niệm Xứ; đây là trường Thiền tu Thân Niệm
Xứ; đây là trường Thiền tu Thọ Niệm Xứ. Chẻ
pháp môn Tứ Niệm Xứ ra từng mảnh như vậy,
mà lại còn hô hào rùm beng viết kinh sách
phổ biến khắp nơi, làm cho người sau hiểu lầm
Phật Pháp, tu hành sai lệch, chẳng giải quyết
được sanh, già, bệnh, chết. Trong khi, Pháp
môn Tứ Niệm Xứ rất tuyệt vời, tu là thấy kết
quả ngay liền, tu tập là có những thần lực siêu
việt không thể nghĩ bàn. Do chia chẻ pháp
Môn Tứ Niệm Xứ, nên các nhà Sư Nam Tông
tu hành chẳng tới đâu, chỉ loanh quanh trong
các định tưởng, chẳng bao giờ đạt được sự giải
thoát của Phật giáo.
Các nước theo Phật giáo Nam Tông, lấy
Phật giáo làm Quốc Giáo, mọi thanh niên đúng
tuổi đều phải vào chùa tu tập ba năm, nếu ai
muốn tu luôn thì ở lại tiếp tục tu hành còn
không muốn tu thì phải “xuất sãi”. Xuất sãi có
nghĩa ra đời (hoàn tục) lập gia đình. Nhưng,
những người thanh niên này, đã tu theo đạo
Phật mà không có chút lòng từ bi nào cả, họ đã
dám cầm dao, súng, vũ khí diệt dân tộc họ như
giết heo, gàø, dê v.v..
Bởi, tu hành mà còn ăn thịt chúng sanh,
thì thành ác quỷ chứ làm sao thành Phật được.
Bài kinh Jivaka đức Phật đã dạy như vậy, mà
các Tổ bên Nam Tông dám bịa ra ăn năm thứ
bất tịnh nhục. Thật là đau lòng.
Tại sao vậy? Tại vì, tu sĩ Phật giáo Nam
Tông ăn thịt chúng sanh, nên tâm họ rất hung
ác. Đời sống tu sĩ của họ sống ngược lại với đạo
đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất
cả chúng sanh của đạo Phật.
Đạo Phật, là đạo đức của loài người, đạo
đức của loài người sao lại nỡ nhẫn tâm ăn thịt
chúng sanh, mà không chút lòng thương yêu.
Vậy, những người tu sĩ này, có phải là tu sĩ của
đạo Phật hay không? Xin các bạn trả lời cho.
Cũng trong bài kinh ấy, đức Phật dạy tiếp
cho các vị Tỳ kheo không nên ăn thịt chúng
sanh, bằng phương pháp tu tập và trau dồi “Tứ
Vô Lượng Tâm”.
Bài kinh dạy tiếp: ‚Này Jivaka! Tỳ kheo
sống dựa vào một làng hay một thị trấn
nào, vị ấy phải luôn tu tập tâm mình biến
mãn khắp cùng một phương với lòng từ và
an trú, phương thứ hai, thứ ba, thứ tư
cùng khắp thế giới trên dưới bề ngang,
hết thảy phương xứ cùng khắp vô biên,
tâm vị ấy biến mãn và câu hữu với lòng từ
quảng đại vô biên không hận, không sân
và an trú’’.
Với ý nghĩa của đọan kinh này, khi một vị
Tỳ Kheo ăn uống thì phải quan sát khắp cùng
trên món ăn của mình, đồng thời khởi tâm từ
bi thương xót tất cả muôn loài chúng sanh, nếu
thấy có thịt chúng sanh thà chết chớ không
ăn. Đó là thực hiện Đạo từ bi, lòng hiếu sinh
của mình. Bài pháp dạy rõ ràng như vậy, thế
mà các nhà sư Nam Tông nỡ nhẫn tâm ăn thịt
được thì chúng tôi rất thương hại cho họ, chỉ
một đời tu hành mà chẳng có ích lợi gì cho bản
thân mình, cho tất cả chúng sanh.
Đoạn kinh này, đức Phật đã xác định rõ
ràng: Một người tu sĩ đạo Phật phải luôn tu
tập “Tứ Vô Lượng Tâm”. Người đã tu tập Tứ Vô
Lượng Tâm thì còn lòng dạ nào ăn thịt chúng
sanh được. Phải vậy không các bạn? Vậy mà,
các sư Nam Tông vẫn nuốt trôi được thịt chúng
sanh mới thực là hay!
Về phần các vị Tỳ kheo đức Phật đã dạy,
không ăn thịt chúng sanh bằng hai bài pháp
tuyệt vời:
1- Ăn thịt chúng sanh không thấy, không
nghe và không nghi.
2- Ăn thịt chúng sanh với lòng từ bi biến
mãn khắp cùng mười phương trên dưới.
Cũng trong bài kinh ấy, đức Phật dạy
người cư sĩ phải cúng dường thực phẩm cho
Phật và chúng Thánh Tăng: ‚Này Jivaka!
Người nào vì Như Lai hay vì đệ tử của
Như Lai mà giết hại sinh vật làm thực
phẩm cúng dường, người ấy chất chứa
nhiều phi công đức do năm nguyên nhân .
Khi người ấy nói như sau: ‚Hãy đi và dắt
con thú này đến đây‛. Đó là, nguyên nhân
thứ nhất, người ấy chất chứa nhiều phi
công đức. Con thú ấy khi bị dắt đi, bị lôi
kéo nơi cổ, nên cảm thọ đau đớn khổ ưu.
Đó là, nguyên nhân thứ hai, người ấy chất
chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy
nói: ‚Hãy đi và giết con thú này‛. Đó là,
nguyên nhân thứ ba, người ấy chất chứa
nhiều phi công đức. Khi con thú ấy bị giết,
cảm thọ đau đớn khổ ưu vô cùng, đây là
nguyên nhân thứ tư, người ấy chất chứa
nhiều phi công đức. Khi người ấy cúng
dường Như Lai hay đệ tử của Như Lai một
cách phi pháp. Đó là, nguyên nhân thứ
năm, người ấy chất chứa nhiều phi công
đức‛.
Qua đoạn kinh này, chúng ta thấy rất rõ,
đức Phật đã dạy rất kỹ cho người cư sĩ không
nên cúng dường Phật và chúng Thánh Tăng
thực phẩm động vật. Vì cúng dường như vậy, là
cúng dường phi pháp, không có phước mà tổn
đức thêm trọng tội vì sát hại sanh linh.
Một bài kinh rất có giá trị với các tu sĩ
Nam Tông. Bài Jivaka trong Trung Bộ kinh đã
khẳng định người tu sĩ đạo Phật không được ăn
thịt chúng sanh nên ăn thực phẩm thực vật với
mục đích là để trau dồi tâm từ, bi, hỷ, xả của
mình để ly dục ly ác pháp, khiến cho thân tâm
thanh tịnh, nhập được các loại Thiền định, làm
chủ được sự sống chết luân hồi. Ngược lại, một
người tu sĩ còn ăn thịt chúng sanh tức là tâm
dục chưa ly, ác pháp chưa lìa, thì rất uổng cho
một đời tu hành theo đạo Phật, mà chẳng
hưởng được sự giải thoát của đạo Phật, mà lại
còn đọa vào địa ngục (địa ngục ở đây không
phải cõi địa ngục mà là trạng thái đau khổ của
thân hay phiền não của tâm). Tu mà còn tâm
ác như vậy, thì phải mang nợ đàn na thí chủ
muôn đời, muôn kiếp. Hiện giờ, các nhà sư
Nam Tông ăn uống cho khoái khẩu, thân hình
mập béo, lấy ác pháp mà nuôi thân mạng, thì
thân mạng này phải chịu thọ khổ muôn và n, vì
đã đem vào thân những sự đau khổ của chúng
sanh thì làm sao tránh khỏi sự đau khổ ấy.
Ghi chú:
Đọc bài kinh Jivaka, chúng ta nhận xét về
đạo Phật. Đạo Phật là một tôn giáo tự lực, dạy
đạo đức nhân bản – nhân quả rất thực tế và cụ
thể. Cho nên, đức Phật là một nhà tâm lý học
thông suốt mọi tình cảm, tâm tư và nguyện
vọng của mọi người. Vì thế, giáo pháp của Ngài
dạy toàn là đạo đức làm người. Vì dạy đạo đức
làm người nên nói về tâm lý của con người rất
là sâu sắc:
1- Dạy người cư sĩ không làm nghề
nghiệp ác để tránh nhân quả xấu như: tai nạn,
bịnh tật, yểu tử v.v..
2- Dạy chư Tăng không ăn thịt chúng
sanh bằng sự ý tứ cẩn thận trong từng miếng
ăn của mình bằng một tấm lòng thương yêu
rộng lớn đối với muôn loài chúng sanh.
3- Dạy Phật tử không nên cúng dường
thịt chúng sanh làm ra thực phẩm cho Phật và
chúng Thánh Tăng. Cúng dường như vậy là phi
pháp, phi công đức (không có phước báo mà còn
thêm tội lỗi).
Toàn bộ giáo lý của đức Phật từ sơ thiện,
trung thiện, đến hậu thiện, Ngài dạy con người
cách thức sống trong thiện pháp, ngăn ngừa và
đoạn dứt các ác pháp. Vì thế, mà ngay từ bước
đầu tiên đức Phật đã dạy người cư sĩ không làm
sáu nghề nghiệp ác như trên đã giảng.
Cách thức tu của đạo Phật rất cụ thể. Ở
đây, quý Thầy và các Phật tử phải hiểu cho rõ
ràng, đổi nghề nghiệp, không làm nghề ác nữa
tức là tu hành, tu tức là sửa đổi, thay đổi, làm
tốt lại, làm thiện lại và không làm khổ mình,
khổ người và khổ chúng sanh, chứ không phải
ngồi đó gõ mõ, tụng kinh, niệm Phật, lần
chuỗi, ngồi Thiền hay lạy hồng danh sám hối
mà tiêu tội hưởng phước được v.v..
Quý vị đừng lầm hiểu theo sự hướng dẫn
tu tập của các nhà học giả của một số hệ phái,
khi tu tập là phải ngồi Thiền, nhập thất, tụng
kinh, sám hối, niệm Phật, niệm chú, truyền
tâm ấn, la hét, đánh, xô đẩy để ngộ Phật Tánh.
Đó là, hình thức tu tập chịu ảnh hưởng ngoại
lai của các tôn giáo khác, chẳng giúp gì cho
chúng ta giải thoát tâm tham, sân, si, phiền
não, thương, ghét, giận hờn, thù oán, tật đố,
nghi kỵ và các ác pháp khác.
Cách thức tu tập của đạo Phật trong kinh
điển Nguyên Thủy dạy, thực tế và cụ thể hơn,
có kết quả ngay liền khi bắt tay vào tu, không
như những pháp hành của các nhà học giả dạy
ở trên theo kinh sách phát triển của một số hệ
phái.
Như trên đã nói, quý vị đổi nghề ác làm
nghề thiện là quý vị không làm khổ chúng
sanh, không làm khổ đau cho chúng sanh tức là
quý vị không làm khổ đau cho quý vị, không
làm khổ đau cho quý vị tức là giải thoát.
Dạy người không làm nghề ác, không làm
việc ác tức là tu thiện đấy các bạn. Các bạn có
hiểu biết điều này không?
Dạy người không cúng dường thực phẩm
bằng xương máu chúng sanh tức là tạo nghiệp
thân ít bịnh, tuổi thọ sống lâu.
Dạy chư Tăng không ăn thịt chúng sanh
là trau dồi tâm từ, bi, hỷ, xả để đối trị tâm
tham, sân, si, ích kỷ, nhỏ mọn v.v..
Bài kinh này, quý Thầy và quý Phật tử
nên lưu ý lời dạy của đức Phật: ‚Ăn thịt
chúng sanh phải không thấy, không nghe
và không nghi”. Lời dạy này, có nghĩa là
trong sự ăn uống phải trau dồi mắt tai của
mình, phải ý tứ cẩn thận, khi ăn khi uống phải
biết rõ trong thực phẩm đang ăn có xương máu
và sự chết chóc đau khổ của chúng sanh trong
đó hay không? Nếu có chúng ta thà chết trong
giới luật của Phật chớ không ăn mà phạm giới.
Tại sao vậy?
Tại vì, người tu sĩ đạo Phật thường trau
dồi tu tập tâm mình lòng thương yêu rộng lớn
đối với tất cả chúng sanh, đối với nhân loại
khắp mười phương thế giới.
Nếu chúng ta chỉ vì bổ béo cho xác thân
vô thường bất tịnh này và chạy theo dục lạ c, ảo
giác ngon ngọt của vị giác thì chúng ta chưa
phải một vị tu sĩ đạo Phật chân chánh có lòng
từ bi.
Đạo Phật ăn chay trên ăn chay, ăn chay
vì lòng thương yêu chúng sanh vô bờ bến.
Ngược lại, trong thế gian này có những người
ăn chay, không ăn thịt chúng sanh nhưng làm
thực phẩm giống như thịt chúng sanh, thì đó là
ăn chay theo kiểu phàm phu, ăn chay còn thèm
thịt, nên tạo thực phẩm chay giống như thực
phẩm thịt chúng sanh để ăn đỡ thèm.
Cách thức ăn chay như thế, đức Phật
không chấp nhận. Đạo Phật tu thật, làm việc
thiện từ trong lòng thiện sanh ra, ăn chay vì
thương xót chân thật đối với chúng sanh nên
không nỡ ăn thịt chúng sanh.
Ăn chay chỉ vì sợ địa ngục, sợ quỷ Vô
Thường, quỷ Dạ Xoa hành hạ, thiêu đốt, đâm
chém, cắt lưỡi, móc họng, rút gân v.v..
Ăn chay để cầu sanh về Cực Lạc, Thiên
Đường v..v..
Ăn chay để cầu cho tai qua nạn khỏi, bệnh
tật tiêu trừ, tuổi thọ sống lâu v..v...
Ăn chay như vậy, đạo Phật không chấp
nhận vì không phải pháp tu hành để giải
thoát, đó là một loại ăn chay để an ủi tinh
thần, ăn chay như vậy giống như con bò ăn cỏ,
không có nghĩa lý gì của Đạo giải thoát cả.



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!