Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT -TẬP 1-10

ĐỊNH SÁNG SUỐT
Hỏi:Kính bạch Thầy! Xin Thầy chỉ dạy
cho chúng con, cách thức tu Định Sáng Suốt
như thế nào? Để chúng con tu hành cho đúng,
nếu không chúng con sẽ tu sai thì vừa mất thì
giờ và còn có thể đưa đến bịnh tật.
Đáp: Định Sáng Suốt gồm có hai cách tu
tập:
1- Bình thường tâm không tán loạn,
không thùy miên, không vô ký, không lờ mờ,
không nửa tỉnh nửa mê, không bần thần lười
biếng, thì dùng pháp hướng khi đi kinh hành
hoặc ngồi một chỗ, như lý tác ý: “Tâm phải
sáng suốt như ban ngày, tâm phải thanh thản,
tâm phải vô sự”.
2- Khi tâm bị thùy miên (buồn ngủ), hôn
trầm (ngủ gục), vô ký (mất tỉnh giác) hôn tịch
(tỉnh tỉnh mê mê) bần thần, lười biếng. Không
nên ngồi, nên đi kinh hành dùng pháp hướng
tâm: “Tâm phải tỉnh thức, sáng suốt đêm như
ngày”, “Tâm phải tỉnh táo như ban ngày ”,
“Tâm phải sáng suốt như ánh mặt trời”.
Định Sáng Suốt tuy trong kinh Nikaya
đức Phật dạy phải dùng tưởng tâm sáng suốt
như ban ngày, sáng suốt như mặt trời v.v..
nhưng theo kinh nghiệm của chúng tôi hiểu
định này là một loại Thiền định thư giãn các
cơ và thần kinh trong thân.
Khi dụng công tu tập nhiều thì thân tâm
mỏi mệt, sanh ra lười biếng mệt nhọc, u tối, trí
óc không còn sáng suốt. Gặp trường hợp này,
chúng ta phải tu Định Sáng Suốt.
Định Sáng Suốt tức là phương pháp thư
giãn của đạo Phật, giúp chúng ta thư giãn thân
tâm, khiến cho các cơ và tinh thần không còn
căng thẳng, mỏi mệt.
Biết được công năng của định này, do đó
khi mỗi thời gian tu tập một loại định nào
xong, chúng ta đều dùng định này để thư giãn,
nhờ đó thân tâm chúng ta liên tục tu tập không
thấy mỏi mệt hôn trầm, thùy miên; càng tu
càng tỉnh thức và càng sáng suốt; càng tu càng
thích thú và ưa thích ham tu hơn; càng tu càng
thấy tâm hồn thanh thản, an lạc và giải thoát
rõ ràng.
Nếu người tu hành theo đạo Phật mà
không biết loại Định Sáng Suốt này thì dễ bị
ức chế thân tâm và nếu ức chế thân tâm quá
căng thì dễ sanh ra bệnh tật, hoặc bị căng mặt,
căng đầu có khi rối loạn thần kinh, sanh ra
điên khùng mất trí.
Tóm lại, cách thức tu Định Sáng Suốt là
dùng pháp Hướng Tâm thư giãn các cơ trong
thân cũng như thư giãn thần kinh, khiến cho
các cơ và thần kinh buông xuống không còn
một chút xíu dụng công và ức chế nào, nên thấy
cơ thể và tinh thần nhẹ nhàng thoải mái.
Khi thư giãn, chúng ta cảm thấy thân tâm
nhẹ nhàng an lạc, nghe rất thoải mái vô cùng.
Ở đây, quý Thầy và quý Phật tử nên dùng
câu pháp hướng, ra lệnh cho các cơ và thần
kinh thư giãn bằng cách hướng tâm. Khi cảm
giác nghe cơ thể mệt nhọc, đầu óc căng thẳng
thì chúng ta nên ngồi nghỉ, hai chân duỗi
thẳng dài ra, hai tay buông thỏng, thả nhẹ
xuống, các cơ trong thân không được gồng, tinh
thần không được suy nghĩ và tập trung nơi nào
cả, chỉ để nó tự nhiên theo tự nhiên của nó.
Khi cảm giác thân tâm buông thỏng chúng ta
mới hướng tâm: “Toàn thân an tịnh, tôi biết tôi
đang thư giãn” hoặc “Toàn tâm an tịnh, tôi biết
tôi đang thư giãn”.
Xong, chúng ta để thân tâm tự nhiên thư
giãn và an tịnh.
Kế tiếp, chúng ta lại hướng tâm nữa: “Các
cơ trong thân thư giãn, buông xuống không
được gồng phải nhẹ nhàng thanh thản, an lạc
và vô sự”.
“Đầu óc phải thư giãn, không được tập
trung chỗ nào hết, phải tự nhiên, hồn nhiên với
vạn pháp”.
Đó là, những cách hướng tâm để thư giãn,
quý vị nên nhớ mà tu tập đừng nên biếng trễ.
Định Sáng Suốt sẽ giúp cho quý vị mau
chóng tỉnh giác, để luôn luôn quý vị ở trong
chánh niệm, nhờ đó, quý vị mới ly tham đoạn
ác pháp. Có ly tham đoạn ác pháp thì quý vị
mới nhập được Thiền định và Tam Minh.
Nếu không có Định Sáng Suốt thì quý vị
tu hành sẽ rơi vào pháp ức chế tâm, và chừng
đó quý vị sẽ nhập định tưởng, quý vị sẽ rơi vào
tà đạo giống như các Thiền sư Đông Độ.
Định Sáng Suốt là một loại định rất quý
cho quý vị trên đường tu tập giải thoát, quý vị
cần phải tu tập nhiều hơn để thấy được trạng
thái thanh thản, vô sự và an lạc của loại định
này.

TỈNH THỨC LỢI ÍCH GÌ?
Hỏi:Kính thưa Thầy! Tu tập sức tỉnh
thức có ích lợi như thế nào?
Đáp: Sức tỉnh thức có lợi ích rất lớn cho
đường tu tập như:
1- Có tỉnh thức mới sáng suốt sống được
chánh niệm.
2- Có tỉnh thức mới ở trong chánh niệm
và chánh niệm mới hiện tiền.
3- Có tỉnh thức mới phá được hôn trầm,
thùy miên, vô ký, ngoan không.
4- Có tỉnh thức mới tịnh chỉ ngôn ngữ.
5- Có tỉnh thức mới thấy được nhân quả.
6- Có tỉnh thức mới ly được lòng ham
muốn.
7- Có tỉnh thức mới ly các ác pháp.
8- Có tỉnh thức mới giữ tứ diệt tầm được.
9- Có tỉnh thức mới tịnh chỉ tầm tứ.
10- Có tỉnh thức mới xả được 18 loại hỷ
tưởng.
11- Có tỉnh thức mới xả được mộng tưởng.
12- Có tỉnh thức mới xả được âm thanh.

13- Có tỉnh thức mới tịnh chỉ được hơi thở,
xả thọ và các hành.
14- Có tỉnh thức mới tu Tứ Như Ý Túc.
15- Có tỉnh thức mới hướng tâm đến Tam
Minh.
Toàn bộ giáo trình của đạo Phật, quan
trọng nhất, là tập luyện tâm tỉnh thức, có được
tâm tỉnh thức mới đạt được Niết Bàn cứu cánh
giải thoát.
Tỉnh thức như thế nào?
Người tu tập theo đạo Phật, lúc mê biết
mình mê là tỉnh thức, lúc tỉnh biết mình tỉnh
là tỉnh thức.
Tâm mình tham, biết tâm mình tham là
tỉnh thức; tâm mình sân, biết tâm mình sân là
tỉnh thức; tâm mình phiền não, biết tâm mình
phiền não là tỉnh thức; tâm mình khởi niệm ác,
biết tâm mình khởi niệm ác là tỉnh thức; tâm
mình lo rầu, biết tâm mình lo rầu là tỉnh thức.
Đi, mình biết mình đi là tỉnh thức.
Ăn, biết mình đang ăn là tỉnh thức. Đó là
bước đầu mấu chốt sự tu tập giải thoát của đạo
Phật.
Tu tập tỉnh thức có nhiều phương cách
khác nhau:
1- Định Niệm Hơi Thở là phương cách
tỉnh thức trong hơi thở, để ly tham đoạn diệt
khắc phục tham ưu.
2- Định Vô Lậu là phương cách tỉnh thức
trong quán xét suy tư để xả bỏ dục lậu, hữu lậu,
vô minh lậu.
3- Định Sáng Suốt là phương cách tỉnh
thức để phá hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan
không, cơ thể mệt nhọc và căng thẳng.
4- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác là
phương cách tỉnh thức trong mọi hành động, để
ngăn ác diệt ác pháp.
5- Định Sơ Thiền là phương cách tỉnh
thức ly dục ly ác pháp.
6- Định Diệt Tầm Giữ Tứ là phương cách
tỉnh thức trong tác ý hướng tâm khắc phục
tham ưu.
7- Định Diệt Tầm Diệt Tứ là phương
cách tỉnh thức giữ tâm yên lặng, bất động để
làm chủ sự vô thường.
8- Định Tam Thiền là phương cách tỉnh
thức vượt qua mọi trạng thái tưởng.
9- Định Ly Hỷ Trú Xả là phương cách
tỉnh thức trong giấc ngủ xả mộng tưởng.
10- Tịnh chỉ âm thanh là phương cách
tỉnh thức giữ tâm vắng lặng.
11- Tịnh chỉ các thọ là phương cách tỉnh
thức giữ tâm vắng lặng vượt qua thọ để tịnh
chỉ hơi thở.
12- Tịnh chỉ hơi thở và các hành trong
thân, là phương cách tỉnh thức giữ tâm vắng
lặng toàn thân tâm bất động.
Những phương pháp trên đây, dùng để tu
tập tỉnh thức, sống không làm khổ mình, khổ
người tức là làm chủ được mình. Đức Phật đã
xác định sự tu tập tỉnh thức, có lợi ích rất lớn,
trên bước đường giải thoát của đạo Phật, Ngài
dạy: ‚Có một pháp, này các Thầy Tỳ Kheo,
được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa
đến cảm hứng lớn, lợi ích lớn, an ổn lớn,
khỏi các khổ ách đưa đến chánh niệm tỉnh
giác, đưa đến chứng đắc tri kiến, đưa đến
hiện tại lạc trú đưa đến chứng ngộ qủa
minh và giải thoát. Một pháp ấy là gì?
Chính là Thân Hành Niệm. Đây là
một pháp, này các Thầy Tỳ Kheo, nếu pháp
ấy được tu tập được làm cho sung mãn,
đưa đến cảm hứng lớn, lợi ích lớn, an ổn
lớn, khỏi các khổ ách đưa đến chánh niệm
tỉnh giác, đưa đến chứng đắc tri kiến, đưa
đến hiện tại lạc trú , đưa đến chứng ngộ
quả minh và giải thoát‛ (Tăng Chi Bộ Kinh
Tập1, trang 88, bài 2-8).
Đoạn kinh trên đây, đã xác chứng sự tỉnh
thức là một sự quan trọng rất lớn trên bước
đường tu theo Phật Giáo, nó giúp cho chúng ta
thành tựu viên mãn giải thoát và làm chủ thân
tâm, cho nên, đức Phật đã xác định chỉ có moat
pháp này. “Có một pháp” tức là không có
pháp thứ hai. Do lời dạy này, chúng ta mới biết
rõ kinh sách Đại Thừa là kinh sách lừa đảo dối
gạt chúng ta và bảo rằng: “Đạo Phật có tám
mươi bốn ngàn pháp môn”. Thật là xảo trá, chỉ
có các Tổ Bà La Môn mới nói như vậy.
Muốn cho thân tâm được khinh an, tầm tứ
được tịnh chỉ, toàn bộ các pháp không còn đắm
nhiễm, dính mắc thì chúng ta phải tu tập tỉnh
thức.
Để làm sáng tỏ điều này đức Phật dạy:
‚Có một pháp, này các Thầy Tỳ Kheo, khi
được tu tập được làm cho sung mãn, thân
được khinh an, tâm được khinh an, tầm tứ
được tịnh chỉ, toàn bộ các pháp thuộc về
minh phần đi đến tu tập làm cho viên
mãn. Một pháp ấy là gì? Chính là Thân
Hành Niệm…‛ (Tăng Chi Bộ Kinh, Tập1 trang
89). Nếu chúng ta muốn tỉnh giác ngăn ác, diệt
ác pháp, thì cũng phải tu tập tỉnh thức trong
thân hành niệm. Nhờ có tu tập tỉnh thức trong
thân hành niệm, thì thân tâm của chúng ta
mới có thanh thản và an lạc: ‚Có một pháp,
này các Thầy Tỳ Kheo, khi được tu tập
được làm cho sung mãn, các pháp bất
thiện chưa sanh không sanh khởi và các
ác pháp đã sanh bị đoạn tận. Một pháp ấy
là gì? Chính là Thân Hành Niệm‛ (Tăng Chi
Bộ Kinh Tập1, trang 89, bài 13).
Nếu chúng ta có sức tỉnh giác, để các pháp
thiện chưa sanh, được sanh khởi và các pháp
thiện đã sanh, được tăng trưởng thì cũng phải
tu tập tỉnh thức trong thân hành niệm, thì
thân tâm của chúng ta mới có thanh thản, an
lạc và giải thoát: ‚Có một pháp, này các
Thầy Tỳ Kheo, khi được tu tập được làm
cho sung mãn, các pháp thiện chưa sanh
được sanh khởi, các pháp thiện đã sanh
được đưa đến tăng trưởng, quảng đại. Một
pháp ấy là gì? Chính là Thân Hành Niệm‛.
Nếu chúng ta muốn có minh sanh khởi, và
vô minh được diệt trừ, ngã mạn được đoạn tận
cùng các tùy miên được nhổ sạch và các kiết sử
bị đoạn tận, thì phải tu tập tỉnh thức nơi thân
hành của chính mình như đức Phật đã dạy:
‚Có một pháp, này các Thầy Tỳ Kheo, khi
được tu tập được làm cho sung mãn, vô
minh được đoạn tận, minh sanh khởi, ngã
mạn được đoạn tận, các tùy miên được
nhổ sạch, các kiết sử bị đoạn tận. Một
pháp ấy là gì? Chính là Thân Hành
Niệm…‛ (Tăng Chi Bộ Kinh Tập1, trang 90, bài
16-21).
Nếu chúng ta muốn chứng quả Dự Lưu,
chứng quả Nhất Lai, chứng quả Bất Lai và
chứng quả A La Hán, thì không có một pháp
nào khác hơn, là pháp tỉnh thức nơi thân hành
niệm của chính chúng ta, nó sẽ giúp chúng ta
đạt được như ý nguyện. Phật dạy: ‚Có một
pháp, này các Thầy Tỳ Kheo được tu tập
được làm cho sung mãn, đưa đến sự chứng
ngộ quả Dự Lưu, đưa đến sự chứng ngộ
quả Nhất Lai, đưa đến sự chứng ngộ quả
Bất Lai, đưa đến sự chứng ngộ quả A La
Hán. Một pháp ấy là gì? Chính là Thân
Hành Niệm…‛.
Bởi sự tu tỉnh thức trong thân hành niệm
quan trọng như vậy, đối với đạo Phật nó là một
pháp tu tập duy nhất đạt đến cứu cánh giải
thoát hoàn toàn, không còn có một pháp thứ
hai nào nữa. Thế mà, kinh sách phát triển dạy
chúng ta tu mọi pháp, nào là Niệ m Phật cầu
vãng sanh, nào là tụng kinh, trì chú, cúng bái,
tế lễ, sám hối lạy hồng danh chư Phật, chư Bồ
Tát, hoặc ngồi thiền ức chế tâm bằng những
pháp môn Chăn Trâu, Tham Thoại Đầu, Tham
Công Án v.v.. Nhưng cuối cùng, chẳng có ai
thành tựu viên mãn chỉ đem lại một hy vọng ảo
huyền.
Đức Phật cũng đã xác định, nếu ai không
tu tỉnh thức thân hành niệm, thì chẳng bao giờ
làm chủ sanh, già, bệnh,chết: ‚Những vị này,
không hưởng được bất tử , này các Tỳ
Kheo, là những vị không thực hiện Thân
Hành Niệm. Những vị hưởng được bất tử,
này các Thầy Tỳ Kheo, là những vị thực
hiện Thân Hành Niệm‛ (Tăng Chi Bộ Kinh
Tập1, trang 91, bài số 47-48).
Xem thế, chúng ta mới biết tỉnh thức lợi
ích biết là dường nào, cho sự tu tập giải thoát
con đường của đạo Phật.
Bởi nó là pháp môn quan trọng hàng đầu
của đạo Phật, nếu không có pháp môn này thì
pháp Hướng Tâm - Như Lý Tác Ý cũng không
có kết quả trong sự tu tập.

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP I
TÅM BẤT AN
Hỏi:Kínhthưa Thầy! Khi làm xong
việc, con vào cốc tu tập, tâm con cũng chưa
được an?
Đáp: Khi vào cốc tu tập, tâm chưa được
an, tức là xả tâm chưa được sạch. Nếu tâm xả
chưa được sạch thì không nên tu Định Niệm
Hơi Thở, mà phải tu Định Vô Lậu, quán triệt
cho thông suốt lý chân thật của các pháp.
Ở đây, con làm xong việc, rồi mới vào thất
tu, như vậy làm việc và tu là hai việc khác
nhau, do hiểu như vậy và tu như vậy nên tâm
con bất an là phải.
Thầy thường dạy: ‚Tu là sống, sống là
tu‛ nghĩa là tu tập trong mỗi hành động, việc
làm chứ không phải đợi vào cốc ngồi tu, thế
mới là tu. Con không nhớ lời đức Phật dạy sao?
Phải tu ngay trong thân hành niệm con ạ! Lúc
nào thân có động dụng thì phải tu ngay trong
hành động ấy, đó là tu tỉnh thức chánh niệm.
Ở đời, người ta thường hiểu tu là vào chùa
cạo đầu, mặc áo tu sĩ là tu, hiểu như vậy là sai
hoặc người ta thấy ai gõ mõ tụng kinh, niệm
chú, lần chuỗi niệm Phật, ngồi Thiền họ cho đó
là tu thì còn sai hơn nữa; đó là những hình
thức của tôn giáo, chứ đâu phải tu hành là vậy.
Tu ở đây theo đạo Phật, có nghĩa là sửa
đổi những thói hư tật xấu; sửa đổi những hành
động ác, không làm ác nữa tức là không làm
khổ mình, khổ người, không làm khổ mình,
khổ người tức là tu, nhưng không muốn làm
khổ mình, khổ người thì phải tu tập tỉnh thức
trong mỗi hành động việc làm mà đức Phật gọi
là “thân hành niệm”.
Tâm bất an tức là tâm vẫn còn trong
chướng ngại pháp, tâm chưa xa lìa lòng ham
muốn và các ác pháp; tâm chưa xa lìa lòng ham
muốn và các ác pháp mà vào thất ngồi tu, đó là
cách thức ức chế tâm, nén tâm. Tu như vậy làm
sao có giải thoát được con phải tu trở lại cho
đúng pháp.
Muốn tu cho tâm được an, thì phải theo
lời đức Phật đã dạy: ‚Tỉnh thức trong thân
hành niệm ngoại‛, tức là đi, đứng, nằm, ngồi,
làm tất cả mọi việc đều phải tỉnh thức trong
mọi hành động, việc làm của mình. Tỉnh thức
trong hành động ngoại để làm gì? Để khắc
phục tham ưu tức là lìa các chướng ngại pháp
trong tâm. Lìa chướng ngại pháp trong tâm thì
tâm được an ổn. Muốn được như vậy, thì tâm
luôn luôn phải tỉnh thức trên thân hành, và
luôn luôn phải tác ý ly tham, đoạn ác pháp.
Cho nên, tu trong thân hành niệm tức là
lấy hành động của thân để tỉnh thức mà xả các
niệm ác, xả các chướng ngại pháp để tâm
không còn bất an.
Tâm con bất an thì Tổ Sư Thiền Đông Độ
sẽ bảo: “Lấy tâm ra đây ta an cho” thì tâm con
sẽ an liền, như Huệ Khả đã được Bồ Đề Đạt Ma
an tâm cho, đó là một lối nói để người nghe
dùng tưởng mà nhận ra tâm đã an, nhưng kỳ
thật, không bao giờ có tâm an. Bởi vì, tâm đã
huân thành nghiệp bất an lâu đời, nên hở ra
một pháp nào va chạm vào tâm là tâm chướng
ngại bất an liền, cho nên cần phải siêng năng
tu tập xả tâm, chứ không phải nhìn lại chỗ bất
an mà tâm an.
Ví dụ: khi chúng ta bị nhức đầu, tâm
chúng ta bất an, bấy giờ chúng ta tìm chỗ tâm
bất an, thì tâm chúng ta có hết bất an không?
Khi mà đầu chúng ta còn đau nhức.
Bởi người ta hiểu tâm và nghiệp là hai,
nhưng kỳ thực tâm và nghiệp là một, nghiệp là
tâm, tâm là nghiệp. Các nhà học giả hiểu tâm
và nghiệp là hai nên bảo rằng: ‚Nghiệp dẫn
tâm đi tái sanh luân hồi‛. Không có dẫn
tâm đi luân hồi, mà nghiệp luân hồi, tức là
nghiệp tạo duyên. Nghiệp tạo duyên vô minh.
Ví dụ: Như một người nam và một người
nữ do đắm nhiễm tình dục, nên tạo thành
nghiệp ái dục, nghiệp ái dục tức là sự ưa thích
tình dục cho nên họ hành động gần gũi nhau
để rồi tạo ra thức.
Họ không biết tình dục sau đó, là một sự
khổ đau, sự khổ đau tức là ác pháp. Họ không
biết ác pháp khổ đau nên họ lấy nhau, đó là vô
minh của nghiệp ái dục tạo nên duyên hành
“lấy nhau”. Do hành động lấy nhau, tạo duyên
thức, thức này là thức nghiệp ái dục. Nên loài
động vật sinh ra, không ai dạy dâm dục cho nó,
nhưng con vật nào cũng dâm dục, con người
cũng vậy. Dâm dục tức là nghiệp. Cho nên,
người tu hành mà không đoạn dâm dục thì
chẳng bao giờ có giải thoát.
Vì thế, tâm là nghiệp, nghiệp là tâm, nó
không phải là hai. Nên đức Phật dạy: ‚lìa
nghiệp ác, đoạn diệt nghiệp ác vì nghiệp
ác tạo ra muôn thứ khổ đau, còn nghiệp
thiện, không làm khổ mình, khổ người thì
nên giữ và tăng trưởng nó‛.
Ví dụ: Chúng ta tu pháp Như Lý Tác Ý
như câu:‚Tâm như cục đất‛ tức là tạo nghiệp
thiện, mà nghiệp thiện đã có thì nghiệp ác
không có. Nghiệp ác không có thì không có sự
khổ đau tức là giải thoát (Niết Bàn).
Con người khổ vì nghiệp ác, nghiệp ác là
những hành động ác đã lập đi lập lại nhiều lần
và đã đắm nhiễm hay nói cách khác là đã
thành thói quen khó bỏ, các nhà Đại Thừa gọi
là “tập khí”.
Khi tu tập tâm bất an, là tu sai không
đúng pháp. Pháp của đức Phật dạy, là pháp
ngăn ác diệt ác pháp, cho nên tâm lúc nào
cũng được an ổn, vì tâm không an ổn là tại
không biết sử dụng pháp đúng cách.
Do chỗ đẩy lùi các ác pháp trong tâm nên
đức Phật dạy: ‚Pháp Ta tu là có kết quả
ngay liền không có thời gian, có khả năng
hướng thượng‛. Kết quả ngay liền là tâm
không còn bất an.
Tâm còn bất an là còn không xả tâm,
muốn xả tâm thì tu tập phải có đối tượng. Nhờ
có đối tượng mà biết tâm xả hay chưa xả.
Người tu hành theo đạo Phật, mà tránh né
đối tượng, thì tu chẳng bao giờ có giải thoát.
Cho nên, muốn tu tập giải thoát thì ngay nơi
ác pháp ngăn và diệt, ngăn và diệt là dùng
pháp như lý tác ý, nhẫn nhục, tùy thuận và
bằng lòng.
Giải thoát của đạo Phật không phải chỗ có
thần thông phép tắc, chỗ thấy Tánh, chỗ ngồi
Thiền năm, bảy ngày, một đôi tháng mà chỗ
đẩy lui chướng ngại pháp trong thân và tâm.
Hằng ngày, từng phút, từng giây siêng
năng chuyên cần đẩy lui các chướng ngại pháp
thì làm sao tâm con bất an được. Tâm không
còn bất an tức là giải thoát của đạo Phật hay
gọi là tâm bất động.

HƠI THỞ NGƯNG CÁC HÀNH
TRONG THÅN CĨ NGƯNG KHƠNG?
Hỏi:Kính thưa Thầy, khi hơi thở ngưng
các hành ngưng theo liền hay là phải đợi một
thời gian lâu các hành mới ngừng?
Đáp: Các hành nội thân ngưng thì hơi thở
ngưng, nhưng ở đây phải hiểu, hơi thở nhẹ và
mất dần cho đến khi không thấy hơi thở nữa
gọi là tịnh chỉ hơi thở, do đó các hành trong
thân còn hoạt động nhẹ nhàng chưa dứt hẳn,
nhất là ý căn, ý căn tức là bộ não của chúng ta.
Hơi thở tịnh chỉ tức là thân hành tịnh chỉ,
thân hành tịnh chỉ tức là nhập Tứ Thiền. Nhập
Tứ Thiền cơ thể chưa ngưng hoạt động hoàn
toàn, chỉ có nhập Diệt Thọ Tưởng Định hay là
Diệt Tận Định thì cơ thể hoàn toàn mới ngưng
hoạt động chỉ còn lại từ trường của Diệt Tận
Định để bảo vệ thân không bị hoại diệt.
Ở đây, giai đoạn tu hành của con chưa đến
tịnh chỉ hơi thở, con hỏi về hơi thở ngưng để
tìm hiểu chứ kỳ thực không thể tu hành được.
Khi tâm chưa xả ly ngũ triền cái và thất kiết
sử mà tu tịnh chỉ hơi thở là tự giết mình, bằng
chứng con không thấy Minh Tông sao? Tu hành
không xả tâm, chỉ ức chế tâm để rồi tịnh chỉ
hơi thở, do đó đứt mao phế quản, khạc ra máu
gây tổn thương cho phổi.
Tu hành Minh Tông bỏ vợ con không
được, thường gặp vợ con và bạn bè để nói
chuyện đó là ái kiết sử làm sao đoạn diệt được.
Không đoạn dứt ái kiết sử mà muốn tịnh chỉ
hơi thở nhập Tứ Thiền, là điên đảo tưởng, điên
đảo tâm mà tâm điên đảo thì làm sao tịnh chỉ
hơi thở nhập Tứ Thiền được.
Khi tịnh chỉ hơi thở không được thì Minh
Tông nói với mọi Phật tử: “Đức Phật không có
dạy tịnh chỉ hơi thở, chỉ có Thầy bịa ra mà
thôi”. Khi biết được tâm niệm của Minh Tông
như vậy, Thầy trao cho bộ Kinh Nguyên Thủy
để đọc và nghiên cứu để thấy lời Phật dạy rõ
ràng như thế này: ‚Có ba hành:
1- Khẩu hành
2- Thân hành
3- Ý hành
Tịnh chỉ khẩu hành nhập Nhị Thiền;
tịnh chỉ thân hành nhập Tứ Thiền; tịnh
chỉ Ý hành là nhập Diệt Tận Định.
- Khẩu hành là tầm tứ,
- Thân hành là hơi thở,
- Ý hành là tưởng và thọ‛.
Đó là kinh sách Nguyên Thủy, Phật dạy
rất rõ ràng như vậy, khi nào có dịp nhắc đến
Tứ Thiền, Thầy sẽ trích những bài kinh đó ra
để Phật tử nghiên cứu và đặt trọn niềm tin
hơn.
Xưa Tổ Khương Tăng Hội đã có nghiên
cứu đến Tứ Thiền, Tổ thấy Phật dạy tịnh chỉ
hơi thở, Tổ cũng nghĩ như Minh Tông hơi thở
không thể tịnh chỉ được, nên Tổ tưởng ra hơi
thở tịnh chỉ là ngưng sổ tức, cò n Minh Tông
không tưởng ra được như vậy và nghiên cứu
Kinh sách Phật không kỹ nên cho rằng Thầy
bịa ra.
Một vị đã nhận ra lời Phật dạy thì tưởng
ra ngưng đếm hơi thở là nhập Tứ Thiền.
Còn một vị không nhận ra lời Phật dạy
cho Thầy bịa đặt ra “Tịnh chỉ hơi thở”.
Đây là một bài kệ đức Phật dạy về Thiền
Thứ Tư tịnh chỉ hơi thở:
‚Không thở ra thở vào
Tâm trú vào chánh định
Không tham ái tịch tịnh
Với tâm an bất động
Như đèn sáng chợt tắt
Tâm giải thoát Niết Bàn‛
Khi người ta tu không được, tịnh chỉ hơi
thở không xong, thì họ lại bảo Thầy đặt ra
pháp tịnh chỉ hơi thở, nhưng không ngờ Thiền
Thứ Tư tịnh chỉ hơi thở thật và đức Phật đã
dạy rõ ràng.
Ở đây, để xác định lại Thiền Thứ Tư,
trong Kinh Nguyên Thủy có nhiều bài Kinh nói
về tịnh chỉ hơi thở mà đức Phật đã dạy chứ
không phải Thầy bịa ra như các Tổ hệ phái
phát triển đã bịa ra nhiều pháp làm sai lệch ý
Kinh và ý Phật.
Cho nên, những gì Thầy dạy là của Phật
dạy, người ta bác Thầy tức là người ta bác Phật
Thích Ca, đó là trường hợp của Minh Tông.
Có một nhà học giả bảo rằng bốn Thiền
của Phật là Thiền của ngoại đạo, tu không giải
thoát, đó là lời nói bài bác giáo pháp của đức
Phật Thích Ca.
Lời nói của Minh Tông và các vị học giả
xưa và nay đã vô minh tu hành chưa đến đâu
vội xác nhận một cách sai lệch làm cho người
sau mờ mịt đối với Bốn loại Thánh Định của
đạo Phật.
Thiền định ngưng hơi thở đâu phải là
Thiền dành cho những kẻ phàm phu, tâm còn
đầy dẫy uế trược, bất tịnh, tham ưu v.v..
Thiền định ngưng hơi thở là Thiền định
dành cho những bậc giới đức thanh tịnh, tâm
hoàn toàn ly dục ly ác pháp, thì mới tịnh chỉ
hơi thở.
Một loại Thiền định dành cho những bậc
Thánh, không thể dành cho những bậc phàm
phu còn ăn uống phi thời, còn phạm giới, bẻ
vụn giới, còn có chùa to tháp lớn, sống trong
cảnh giàu sang như cung vàng điện ngọc thì
làm sao nhập được những loại định này.
Một loại Thiền không thể dành cho những
người còn ái kiết sử trói buộc, ngồi trong thất
tu mà nhớ vợ, nhớ con, nhớ tiền tài vật chất,
nhớ xe hơi nhà lầu v.v.. thì làm sao nhập được
loại Thiền này.
Trong tu viện có một vị cư sĩ muốn nhập
loại Thiền này mà vợ con không bỏ, nên cố nín
thở để tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thiền khiến
cho phổi bị tổn thương sanh ra bệnh, đây là
một kinh nghiệm rất lớn để cảnh giác cho
những ai muốn tu về Tứ Thánh Định.
Chúng tôi cũng được nghe ở Qui Nhơn có
một bác sĩ nghe tịnh chỉ hơi thở, ông ta không
biết tu tập như thế nào mà đã chết luôn. Đây là
những điều cảnh giác cho người ham tu mà tự
tu là rất nguy hiểm, tu là phải có người hướng
dẫn, Minh Tông không nghe lời dạy của Thầy,
không chịu sống độc cư và không xa lìa bạn bè

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!