Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

đường về xứ phật- tập 1-12

TRẠNG THÁI HƠI THỞ TRONG BỐN THIỀN
Hỏi:Kính bạch Thầy! Xin Thầy giảng
lại cho con hơi thở Sơ Thiền đến Tứ Thiền như
thế nào?
Đáp: Sơ Thiền, hơi thở bình thường như
chúng ta thở sống hằng ngày.
Nhị Thiền, hơi thở chậm và nhẹ hơn hơi
thở Sơ Thiền, do tầm tứ diệt, tạo nên một
trạng thái an ổn thích tu (siêng năng), ưa ngồi.
Tam Thiền, hơi thở chậm và nhẹ hơn hơi
thở Nhị Thiền do ly hỷ tưởng, người đang ở
trong trạng thái này cảm giác như hơi thở gần
như không, thở hơi thở nhẹ nhàng tự độâng ra
vô.
Tứ Thiền, hơi thở tịnh chỉ, hoàn toàn
không thấy hơi thở ra vô.
Hơi thở của Sơ Thiền là hơi thở của tâm
ly dục ly ác pháp. Ai là người đã ly dục ly ác
pháp thì mới nhận ra hơi thở này. Như chúng
ta hiện giờ chưa có ai ly dục ly ác pháp, tâm
còn đầy dẫy sự tham ưu, còn phiền não, đau
khổ và còn lo sợ, giận hờn, thù oán thì làm sao
nhận ra được hơi thở của Sơ Thiền.
Nói hơi thở của Sơ Thiền là hơi thở bình
thường, là nói hơi thở giống như hơi thở bình
thường chứ thực ra, nó không giống hơi thở
bình thường, vì tâm chúng ta hiện giờ đâu có
bình thường, lúc nào cũng lăng xăng loạn động,
không nghĩ việc này thì lạ i nghĩ việc khác, cho
nên trong kinh sách bảo tâm chúng ta, là tâm
như con vượn, ý chúng ta là như con ngựa, như
vậy chúng ta có hơi thở bình thường chăng?
Tâm chưa bình thường thì làm sao hơi thở bình
thường được.


Nhưng chúng ta phải lưu ý khi tâm chúng
ta bình thường là lúc thân tâm thanh thản, an
lạc và vô sự. Lúc đó, là lúc hơi thở bình thường
của tâm còn ham muốn và còn chướng ngại
pháp (ác pháp) thì hơi thở có bình thường,
nhưng bình thường của nó, mặc dù lúc đó tâm
chúng ta chưa ly dục ly ác pháp hết, nhưng nó
không có dục và ác pháp khởi lên nên được
xem hơi thở lúc đó là bình thường.
Đến hơi thở của Nhị Thiền, thì không có
một hơi thở nào so sánh, khó mà giúp cho con
nhận ra, chỉ khi nào nhập vào Nhị Thiền thì
mới nhận ra và biết rõ ràng. Ở đây, Thầy chỉ
trả lời hơi thở chậm và nhẹ hơn hơi thở nhập
Sơ Thiền. Hơi thở Sơ Thiền, đã không biết thì
làm sao biết được hơi thở Nhị Thiền, không
khéo nghe Thầy nói hơi thở chậm và nhẹ, rồi
các con tưởng ra hơi thở chậm nhẹ, do đó tưởng
thức sẽ hiện tướng hơi thở đó thì các con đã lọt
vào định tưởng, một loại định rất nguy hiểm.
Khi đã rơi vào định này thì khó mà thoát khỏi
tưởng pháp. Hầu hết các thầy tu sai đều đã
chết trong loại định tưởng này, và kinh sách
phát triển để lại quá nhiều pháp hành về trạng
thái tưởng pháp này.
Từ Nhị Thiền cho đến Tứ Thiền, khi nhận
ra được hơi thở của nó, tức là nhận ra được
trạng thái của Thiền định đó, cho nên ở đây,
Thầy nói để cho chúng ta biết mức độ của hơi
thở các loại Thiền định của Tứ Thánh Định,
nhưng chúng ta đừng quan tâm đến nó, quan
tâm đến, nó tức là chúng ta sẽ rơi vào tưởng
thức.
Hiện giờ, con nên nương vào hơi thở để
tập tỉnh thức mà cố gắng xả tâm ly tham đoạn
diệt khổ ưu, chừng nào tu tập đến đó thì chúng
ta sẽ biết, còn hiện giờ muốn biết nó thì là
một tai hại xảy đến không tốt cho đường tu tập
của con.
Tu tập về hơi thở thì nên tu tập 18 đề
mục Định Niệm Hơi Thở của Phật dạy, chứ
đừng tu hơi thở theo pháp môn Lục Diệu của
Ngài Trí Khải, nó không phải của Phật giáo.
Lục Diệu Pháp Môn là một loại Thiền tưởng
của Trung Hoa và cũng đừng tu sổ tức quán, vì
nó cũng là một loại Thiền ức chế tâm do các
Tổ hệ phái phát triển chế ra.
Hơi thở rất khó tu, nếu tu không có người
hướng dẫn sẽ sinh ra rối loạn hô hấp, rối loạn
thần kinh. Cho nên, tu tập hơi thở phải dè dặt
cẩn thận.
Tóm lại, hơi thở chỉ là một thân hành như
các thân hành khác trong thân, tu hơi thở ra
vô, cũng giống như tu cánh tay đưa ra vô vậy,
chứ không có gì quan trọng lắm.

TU NHƯ THẾ NÀO ĐỂ
TÅM KHƠNG PHI PHẠM HẠNH?
Hỏi:Kính thưa Thầy! Con xin sám hối
về cái tội ăn thêm, đã ăn rồi mà còn ăn thêm
nữa. Như vậy con phải tu Định Vô Lậu đặt
niệm trước mặt quán xét tư duy như thế nào?
Dùng pháp hướng như thế nào? Để quét sạch
tội phi Phạm hạnh này?
Đáp: Muốn sống đúng Phạm hạnh, không
ăn uống phi thời, con nên đặt niệm thực phẩm
rồi quán xét sự bất tịnh của thực phẩm.
Quán xét thực phẩm bất tịnh trong lúc đi
cầu.
Dùng pháp hướng tâm: “Thực phẩm là
một thứ thuốc trị bệnh đói của cơ thể, ta không
nên ưa thích”; “Thực phẩm là những thứ bất
tịnh uế trược, để lâu mùi hôi khó chịu ta nên
chừa bỏ tánh ưa thích ham ăn”.
Xét ra, từ cái ăn mà người ta nhận thấy
và đánh giá trị được con Người, Thánh Nhân
hay loài thú vật.
Một con thú vật, lúc nào gặp món ăn là nó
ăn ngay, không phân biệt giờ ăn, giờ nghỉ là
tại vì con thú vật không trí tuệ, chỉ biết sốn g
ăn và tranh đấu cho miếng ăn.
Con người thì có trí tuệ, có đạo lý hơn, ăn
uống biết chia ra giờ giấc, không ăn uống phi
thời, ngược lại con người mà ăn uống lặt vặt
phi thời không giờ, không bữa là con người đó
còn mang bản chất của loài cầm thú thích ăn,
chúng ta là con người phải có trí tuệ, nhất định

ăn uống phải có giờ giấc.
Còn bậc Thánh Nhân thì khác, biết rằng
ăn uống là sự sống của các loài động vật, nhưng
bậc Thánh Nhân không xem ăn uống là một
thứ dục lạc, gây sự ưa thích ham mê như người
thế gian và loài thú vật, mà khi sống thì phải
ăn để sống, cho nên ăn để sống, chứ không
phải sống để ăn. Người thế gian và loài thú vật
sống để ăn chứ không phải ăn để sống. Vì thế,
trong sự ăn uống của họ, chỉ cần ngon và bổ
dưỡng nên họ sát hại sanh linh để họ ăn thịt
chúng sinh như loài cọp beo, ăn bằng thích, ăn
bằng ưa, đó là sống để ăn, nhưng họ không biết
đó là họ đã đem sự đau khổ vào thân tâm của
họ.
Bậc Thánh Nhân đã hiểu điều này, nên họ
ăn để sống, vì thế họ không ăn thịt chúng sanh
và ăn ngày một bữa, không ăn uống phi thời, là
vì những bậc Thánh muốn thoát ra khỏi bản
chất của loài cầm thú sống để ăn uống; để nô lệ
cho sự ăn uống.
Người ta không muốn mình làm con người,
mà muốn sống như loài cầm thú, chỉ biết có ăn,
ăn để ngon, để mập, để béo, nên ăn uống của
họ không còn có đạo lý làm người gì cả.
Người ta sống để ăn, cho nên con người
trở thành một con thú vật, đó là cách sống để
ăn, nên người ta mới giày đạp lên sự sống của
nhau, giết nhau. Bằng chứng, về chủ nghĩa cá
nhân thì họ cướp giựt, giết người không gớm
tay; về tập thể thì nước này đánh chiếm nước
kia, lịch sử loài người đã chứng minh điều này,
đến ngày nay, không lúc nào thế giới chấm dứt
chiến tranh, không nước này đánh nhau thì
nước kia đánh nhau, giết nhau bằng những vũ
khí tối tân và hiện đại.
Đó là, bản chất của loài cầm thú còn tồn
đọng trong loài người. Họ chỉ là một con thú
vật sống chỉ biết tranh giành để ăn, chứ không
phải sống có đạo lý làm người, làm Thánh.
Bởi, con người là phải khác với con thú
vật, vì con người phải sống có đạo lý, có đức
hạnh, phải sống không vì ăn uống, không vì
vật chất của cải tài sản. Sống, phải biết thương
mình thương người, thương mọi sự sống trên
hành tinh này, tức là sống không làm khổ
mình, khổ người, khổ mọi loài, đó mới chính là
con người, còn làm khổ cho nhau là những loài
thú vật chỉ biết có ăn là trên hết, chứ không
biết đạo lý.
Chúng ta muốn làm Người, muốn làm
Thánh chứ không ai muốn làm loài thú vật.
Phải không các bạn? Muốn vậy, thì chúng ta ăn
để sống, ăn không làm khổ mình, khổ người,
khổ chúng sanh thì phải ăn có giờ bữa, khô ng
được ăn uống lặt vặt phi thời và không được ăn
thịt chúng sanh. Bởi muốn làm Thánh thì ăn
ngày một bữa, như đức Phật ngày xưa và chúng
Thánh Tăng.
Cho nên, sự ăn uống trong đạo Phật là sự
ăn uống trong thiện pháp để không làm khổ
mình, khổ người, khổ chúng sanh. Vì thế, đức
Phật đã dạy: ‚Ngăn ác diệt ác pháp, sanh
thiện tăng trưởng thiện pháp‛. Do thế, coi
chừng trong ăn uống sẽ rơi vào ác pháp, ăn
uống theo phàm phu thì sự ăn uống ấy không
đúng Thánh Hạnh. Ăn uống lặt vặt, ăn uống
phi thời, cơ thể dễ sanh ra nhiều bệnh tật, đó
là ác pháp là khổ đau cho mình, khi mình đau
khổ, còn làm khổ cho người khác nữa.
Vì thế, ăn uống rất quan trọng cho đờ i
sống của con người. Càng ăn uống đơn giản thì
đời sống càng thảnh thơi, an lạc, cơ thể nhẹ
nhàng ít bệnh tật, ít tai nạn.
Trong cuộc đời làm người, chúng ta cũng
nhận thấy những pháp môn của đức Phật dạy
đạo đức về ăn uống rất thực tế và cụ thể để con
người sống trong đạo đức về ăn uống:
- Thứ nhất, là không làm khổ mình, khổ
người, khổ chúng sanh.
- Thứ hai, là sống đúng đạo đức làm
Người, làm Thánh không còn phàm ăn uống
như loài thú vật.
- Thứ ba, là ăn uống đúng Phạm hạnh,
không ăn uống phi thời, không ăn uống lặt vặt.
- Thứ tư, là ăn uống trong sự biết tôn
kính và quý trọng của mồ hôi nước mắt làm ra
bằng sức lao động của mình, của người khác .
- Thứ năm, là ăn uống để sách tấn trên
đường tu tập, để được giải thoát sanh tử luân
hồi, để được chấm dứt mọi sự khổ đau, chứ
không phải ăn uống vì tham ăn, thích ăn v.v..
- Thứ sáu, là ăn uống phải thực hiện lòng
từ bi, thương xót tất cả loài chúng sanh và
thương xót người làm ra thực phẩm cực nhọc.
Khi chúng ta tu hành theo đạo Phật, mà
còn thích ăn uống phi thời, thì đó là, chúng ta
chạy theo tâm dục lạc thế gian, còn tâm dục lạc
thế gian đó là huân ác pháp vào thân, vì thế
chúng ta phải hiểu cho thấu suốt lý của đạo đức
làm người, làm Thánh là không nên vì ăn mà
làm khổ mình, khổ người. Luôn luôn nhớ đến
bốn trọng ân, thì bấy giờ chúng ta sẽ nhiệt tâm
dứt khoát, dù có chết nhất định không còn
phạm phải lỗi ăn uống phi thời, chừng đó
chúng ta mới thấy có sự an vui của người sống
đúng Phạm hạnh.
Các con phải cố gắng đừng để vi phạm
những lỗi lầm này, những lỗi lầm này sẽ đưa
con trở về đời sống loài thú vật. Các con nên
nhớ kỹ đừng quên lời Thầy dạy con nhé! Dù
cho thân con có tan nát, nhưng đừng phạm
phải lỗi ăn uống phi thời. Đó là con đường tiến
đạo.

PHẠM HẠNH
Hỏi:Kínhthưa Thầy! “Đời sống xuất
gia phóng khoáng như hư không, khôngcó gì
trói buộc, không có một đối tượng, vậtchất,
hoàn cảnh nào cám dỗ họ được”. Conphải
hướng tâm như thế nào đây mới chứngđược
điều này?
Đáp: Chỉ cần siêng năng tu tập các loại
pháp môn ly dục ly ác pháp và sống đúng giới
hạnh, nhập được Sơ Thiền thì đời sống xuất gia
sẽ phóng khoáng như hư không.
Tuy nói như vậy, nhưng không phải dễ,
nếu chỉ có cạo bỏ râu tóc, mặc y áo cà sa, tụng
kinh, niệm Phật, ngồi Thiền v.v.. thì đâu có gì
là khó, còn ngược lại phải sống đúng giới hạnh,
phải tập tu ly dục ly ác pháp thì khó vô cùng.
Cho nên, điều cần thiết là con phải hiểu rõ đời
sống tại gia của người cư sĩ khổ như thế nào?
- Thứ nhất, phải làm ra tiền bạc, thực
phẩm, áo quần, nhà cửa, tài sản, sự nghiệp.
Những sự sống này, khiến cho con người phải
lo toan rất nhiều, nhiều khi thiếu trước hụt
sau, sợ đói, sợ bịnh đau, không tiền, không
thực phẩm là rất khổ, nói chung chỉ có những
nghề nghiệp làm ra để sống, nhưng nghề
nghiệp làm ăn lại thất bại, khi thất bại là
khổ, còn nếu làm ăn được thì phải trăm muôn
vạn kế tính toán lo toan nhiều, khi còn phải sử
dụng mưu kế gian xảo, lừa đảo bằng mọi thủ
đoạn, tạo ra biết bao nhiêu điều ác, nên trong
lòng lúc nào cũng bất an, lo sợ nơm nớp tù tội
bị phạt vạ, và còn lo sợ trộm cướp nữa.
- Thứ hai, là khổ sở khi mình nghèo sợ
người ta khi dễ.
- Thứ ba, khi mình có của cải, cuộc sống
thoải mái hơn, thì lo sợ người khác ganh tỵ
tìm mọi cách nói xấu hoặc thù ghét và hãm
hại.
- Thứ tư, lo sợ tai nạn, bịnh tật, mà tiền
mất nhưng tật phải mang.
- Thứ năm, con cái hư phá tán tài sản.
- Thứ sáu, vợ hoặc chồng sống không
chung thủy, làm tiêu tan sản nghiệp, đó là nỗi
khổ đau của mọi người, mà người nào cũng
không tránh khỏi.
- Thứ bảy, những người thân có tai nạn
hoặc bịnh tật.
- Thứ tám, trong nhà anh em tranh
giành của cải tài sản, kiện thưa.
- Thứ chín, khổ vì người khác nói trái ý,
nghịch lòng.
- Thứ mười, khổ vì không đạt được ước
nguyện.
Thường thường, người cư sĩ sống tại gia có
nhiều duyên sự xảy đến, khiến cho họ phải
chịu nhiều sự khổ đau như vậy.
Cho nên, đời sống tại gia rất là phức tạp
và khổ sở. Có một nhà thơ đã nói đến sự khổ
đau của con người, từ khi bắt đầu sinh ra:
“Lúc sanh ra miệng đã khóc chóe
Trần có vui sao chẳng cười khì”.
Nếu là một người có nhiều suy tư về đời
sống thì chúng ta thấy rất rõ ràng cuộc sống
con người là biển khổ, khổ từ lúc sinh ra cho
đến khi chết.
Do thấy đời sống tại gia khổ như vậy, nên
chúng ta chịu chấp nhận một cuộc sống đi
ngược lại với sự sống tại gia, đó là đời sống
xuất gia. Đối với đời sống tại gia thì đời sống
xuất gia hoàn toàn khác hẳn, vì buông xả sạch
vật chất chỉ còn sống với tinh thần phóng
khoáng như hư không, vì thế tự tại thung dung,
không lo đói, lo no, không còn kêu réo, làm bận
tâm bận trí, bất toại nguyện. Với đôi mắt của
người xuất gia, nhìn mọi vật đều vô thường.
Cho nên:
‚Các pháp vô thường
là pháp sinh diệt
Sinh diệt, diệt rồi
Tịch diệt là vui‛
Vì thấu hiểu như vậy, nên đời sống xuất
gia là một đời sống buông xả sạch, chỉ còn ba
y, một bát đi xin ăn của những người hảo tâm.
Đời sống như vậy rất khổ về vật chất, vì không
có gì cả, nếu chúng ta không ý thức và thấu rõ
chỗ không có gì cả là chỗ phóng khoáng như hư
không, thì chúng ta sẽ khổ sở vô cùng. Nhưng
nếu, chúng ta ý thức được điều này thì đời sống
xuất gia thật là phóng khoáng như hư không,
không có vật gì trói buộc; không có một đối
tượng, một vật chất, một hoàn cảnh nào cám
dỗ được.
Đó là đời sống giải thoát, đời sống Phạ m
hạnh, đời sống Thánh Thiện, còn ngược lại đời
sống xuất gia mà có chùa to, Phật lớn là đời
sống vật chất nhiều, không giải thoát, đó là đời
sống như người tại gia, những vị tu sĩ này bị
trói buộc như cá mắc rọ, lưới , lờ, câu không thể
phóng khoáng như hư không được. Họ thường
là những người phục dịch cho những Phật tử
mê tín.
Đời sống xuất gia là đời sống trống rỗng
cho nên mới gọi là như hư không.
Nếu hư không mà có, thì làm sao gọi là hư
không. Vì thế, những tu sĩ có chùa to Phật lớn
sang đẹp và vật chất nhiều thì làm sao giống
như hư không được. Do thế, không thể giải
thoát. Phải không các bạn?
Bởi vậy, các vị Tỳ-Kheo trong thời đức
Phật, các Ngài đã nói: ‚Vì giải thoát sanh tử
luân hồi, chúng con mới chấp nhận sống
đời sống Phạm hạnh của Gotama‛.
Vì sanh tử luân hồi là đời sống tại gia, mà
sanh tử luân hồi là sự đau khổ của loài người,
không chỉ khổ có một kiếp mà khổ nhiều kiếp.
Đời sống xuất gia là đời sống Phạm hạnh,
đời sống buông xả, đời sống phóng khoáng như
hư không, cho nên còn có gì mà tái sanh luân
hồi.
Một hôm đức Phật đi khất thực, đi ngang
qua một ngôi nhà giàu có, một con chó từ trong
nhà chạy ra sủa to, đức Phật dừng lại mới bảo
rằng: ‚Nhà ngươi vì vô minh lầm chấp của
cải tài sản là của nhà ngươi, do đó nhà
ngươi phải tái sanh làm thân chó để giữ
của cải đó, nhưng của cải đó không phải
là của nhà ngươi nữa đâu. Tội cho ngươi
không thấy mọi vật chất thế gian là pháp
vô thường, nên phải chịu làm thân chúng
sanh khổ sở muôn vàn từ kiếp này sang
kiếp khác‛.
Con chó nghe được lời này, dường như nó
ngộ được lý này, nên từ đó, nó buồn rầu và bỏ
ăn, ít hôm sau con chó chết.
Loài chúng sanh còn nhận được lời đức
Phật dạy, mà xả tâm dính mắc thế gian để
chuyển hóa thân chó.
Chúng ta là những con người khi nghe đức
Phật dạy: ‚Đời sống xuất gia phóng khoáng
như hư không, trắng bạch như vỏ ốc,
không có gì trói buộc, không có một đối
tượng, một vật chất, một hoàn cảnh, moat
sự việc nào cám dỗ họ được và làm cho họ
động tâm được‛.
Đời sống Phạm hạnh, đời sống như vậy
còn gì mà khiến cho họ tái sanh luân hồi.
Bởi, xét cho cùng đạo Phật chỉ lấy cuộc
sống Phạm hạnh, làm một chứng cứ cụ thể để
mọi người thấy đó là sự giải thoát thật sự,
không còn sanh tử luân hồi, như câu chuyện
con chó lúc nãy, vì dính mắc của cải tài sản của
nhà ấy, phải sanh làm con chó để giữ của cải
đó.
Còn chúng ta, muốn tu theo đạo Phật để
cầu giải thoát thì tại sao lại không chấp nhận
đời sống Phạm hạnh.
Đời sống Phạm hạnh là Niết Bàn, nếu
chúng ta chấp nhận đời sống Phạm hạnh thì
chúng ta phải đoạn dứt lòng tham dục, có đoạn
dứt lòng tham dục thì chúng ta mới sống đời
sống Phạm hạnh trọn vẹn. Nếu không đoạn dứt
lòng tham dục thì đời sống Phạm hạnh không
trọn vẹn, giống như các tu sĩ của Phật giáo
phát triển hiện giờ; đời sống Phạm hạnh chưa
trọn vẹn thì kiếp sau phải làm thân chó để giữ
gìn những ngôi chùa sang đẹp. Đó là, sự dính
mắc của các tu sĩ hiện giờ, họ đâu biết rằng,
khi tâm tham dục còn một chút xíu dính mắc
pháp thế gian là họ phải tiếp tục tái sanh
trong vòng luân hồi khổ đau.
Họ đâu biết rằng đời sống Phạm hạnh là
Niết Bàn của chư Phật, là chấm dứt tái sanh
luân hồi. Đức Phật dạy: ‚Này Bà La Môn,
cảm thọ tham ái được đoạn tận, không có
dư tàn; cảm thọ sân được đoạn tận, không
có dư tàn; cảm thọ si được đoạn tận,
không có dư tàn. Như vậy, này Bà La Môn,
Niết Bàn là thiết thực hiện tại, không có
thời gian, đến để mà thấy, có khả năng
hướng thượng, được người trí giác hiểu‛.
(Kinh Tăng Chi Tập 1, trang 285).
Đời sống thế gian là ngục tối âm u đầy
đau khổ.
Đời sống xuất gia Phạm hạnh hoàn toàn
giải thoát như hư không, Cực Lạc, Niết Bàn.
Rõ thấy được như vậy, thì con nên chọn
đời sống nào? Đời sống thế gian hay đời sống
Phạm hạnh?
Chọn nó thì phải có nhiệt tâm xả bỏ, tâm
như cục đất, chỉ có nhiệt tâm và hướng tâm
mình như cục đất.
Đời sống Phạm hạnh là đời sống từ bỏ tất
cả sanh y. Nếu muốn từ bỏ tất cả những sanh y
thì chúng ta phải dùng pháp Như Lý Tá c Ý:
‚Sanh y là đau khổ, là dính mắc, là tái
sanh luân hồi ta phải từ bỏ, xa lìa vĩnh
viễn những thứ đau khổ này‛.
Đức Phật sách tấn chúng ta sống đúng đời
sống phạm hạnh. Ngài dạy: ‚Này các Tỳ
Kheo, tối thắng là tinh cần với mục đích
từ bỏ tất cả sanh y. Do vậy, này các Thầy
Tỳ Kheo, các Thầy cần phải học tập như
sau: ‚Ta sẽ cố gắng tinh cần để từ bỏ tất
cả sanh y‛. Như vậy, này các Thầy Tỳ
Kheo, các Thầy cần phải học tập‛.
Đây là, lời dạy chí tình của đức Phật qua
những danh từ “tối thắng”, “tinh cần”, “từ
bỏ”, “sanh y”. Những danh từ này, đã xác
định đời sống Phạm hạnh là giải thoát hoàn
toàn, là Niết Bàn tại thế, là chấm dứt tái sanh
luân hồi.
Bởi thế, cuộc đời tu hành theo đạo Phật
quan trọng nhất là đời sống Phạm hạnh. Đời
sống Phạm hạnh không phải ở chiếc áo cà -sa
và chiếc đầu cạo trọc mà là tâm Phạm hạnh.
Bởi vì, chiếc áo cà-sa và chiếc đầu cạo trọc chỉ
là một hình thức lừa đảo người, nó đã làm ô uế
cho Phật giáo từ bao nhiêu thế kỷ nay.
Xưa, khi đức Phật nhập Niết Bàn đã nói
lên lời nói di chúc: ‚Giới luật Ta còn là đạo
Ta còn, giới luật Ta mất là đạo Ta mất‛.
Giới luật là gì? Giới luật là Phạm hạnh.
Nếu một tu sĩ còn có Phạm hạnh là đạo Phật
còn, nếu một tu sĩ Phạm hạnh không có thì đạo
Phật mất.
Lời di chúc này chúng ta cũng xác định
đạo Phật còn hay là mất, không thể che dấu ai
được.
Phạm hạnh là gì? Là tâm ly dục ly ác
pháp. Chỉ khi nào con ly dục ly ác pháp thì đời
sống Phạm hạnh con trọn vẹn.
Con có nhìn thấy bạn của con không?
Cũng cạo đầu, cũng mặc áo tu sĩ rồi một thời
gian để tóc lại, mặc đồ đời, có chồng rồi đây
sắp có con. Họ có thật sự thấy đời sống thế
gian là khổ không? Hay chỉ muốn tu để có thần
thông phép tắc và ngồi mát ăn bát vàng. Hay
muốn tìm đường giải thoát mà không muốn
buông xả bỏ sanh y thì làm sao tìm đường giải
thoát cho được. Sanh y là gì?
Là chồng con hay vợ con, là của cải tài
sản v.v..
Này các con, sanh y trong lòng con chứ
không phải sanh y là những vật chất bên
ngoài.
Xả sanh y vật chất bên ngoài như Minh
Tông, còn sanh y bên trong thì tâm không chịu
xả, ngồi trong thất mà nhớ vợ, nhớ con, như
vậy xả sanh y bên ngoài để làm gì? Có lợi ích
gì? Phải không các con? Cuối cùng cũng chỉ trôi
lăn trong lục đạo. Cô Diệu Quang đã trắc
nghiệm tâm sân của Minh Tông đã hiện ra,
như người chưa bao giờ tu, chắc các con đã trực
tiếp thấy và nghe rõ ràng.
Năm năm trời, mài miệt trong thất chỉ có
một phút giây tan tành như gió bụi, uổ ng công
phu tu tập vô cùng.
Tới hôm nay, tâm con đã sống Phạm hạnh
được chưa? Nếu chưa được, thì hãy cố gắng con
ạ! Đừng bỏ cuộc, đừng nản lòng, đừng bắt chước
các bạn con thối tâm.
Hãy đứng lên chiến đấu tận cùng, để đạt
được đời sống Phạm hạnh, để làm chủ đời sống
sanh, già, bịnh, chết, đời sống cao thượng của
một bậc chân tu với một tâm hồn phóng
khoáng như hư không.
Nếu trên đường tu tập theo Phật giáo mà
con không có chí lớn như Bà Triệu Ẩu ‚Cưỡi
cá kình, vượt sóng to, sống một đời không
chịu luồn cúi làm thê thiếp cho thiên hạ‛.
Ý chí này, với tư tưởng này thì mới có thể sống
một đời sống cao thượng, phóng khoáng như hư
không và trắng bạch như vỏ ốc của các bậc
Thánh Ni, những đệ tử Ni của đức Phật ngày
xưa. Còn nếu sống không được đời sống Phạm
hạnh thì con chẳng khác gì như các bạn con,
chỉ một đời luồn cúi làm thê thiếp cho kẻ khác
và còn bị đánh đập chửi mắng và hành hạ nữa,
con có thấy bạn con không???
Rấc tiếc là bộ giới đức, giới hạnh và giới
hành Thầy đã viết chưa xong. Giới đức, giới
hạnh, giới hành tức là Phạm hạnh, hay gọi là
Sa Môn hạnh hoặc gọi là Sa Môn Quả. Đó là
những giới luật của Phật giáo chứ không phải
giới bổn Ba La Mộc Xoa Đề. Giới bổn Ba La
Mộc Xoa Đề là giới luật của các Tổ biên soạn
viết ra dựa vào kinh giới rút ra một số lập
thành giới cấm.
Như chúng ta ai cũng biết, đạo Phật là
đạo tự lực không cầu tha lực, vì thế , giới là sự
sống của Tăng Ni và các cư sĩ, cho nên người
nào đến với đạo Phật là phải tự nguyện sống
Phạm hạnh chứ không có sự bắt buộc như giới
cấm của các Tổ. Vì cầu giải thoát, nên chúng
tôi mới tự nguyện sống đời Phạm hạnh dưới sự
chỉ đạo của đức Gotama. Cho nên, giới cấm của
các Tổ là sai, không đúng tinh thần tự nguyện,
tự giác của Phật giáo.
Đạo Phật là một tôn giáo tự do tín
ngưỡng, không cám dỗ, mà cũng không bắt
buộc ai. Ai tự nguyện, đến giữ gìn giới luật
nghiêm chỉnh thì dạy bảo và giúp đỡ cho tu
hành, còn sống giới luật không nổi, xin ra, thì
cũng vui vẻ chấp nhận ngay liền, không bắt
buộc người theo Phật giáo phải thề thốt “Trời
tru đất diệt”.
Cho nên, giới cấm của các Tổ là sai, vì giới
cấm là có sự bắt buộc. Đạo Phật không có cấm
ai cả, chỉ người tu phải tự nguyện, tự lực, tự
giác, tự ngộ mà đến với đạo Phật. Còn giới luật
đúng của đạo Phật là giới đức, giới hạnh, giới
hành. Những giới luật này, đức Phật dạy cho
đệ tử mình, sống một đời sống Phạm hạnh và
tu tập để được giải thoát, nên giới luật này còn
gọi là Giới Vô Lậu. Vì thế, giới là đức hạnh
sống của người tu sĩ, giới là pháp môn tu tập để
dứt trừ các lậu hoặc. Các bạn đừng nhầm lẫn
giới cấm và giới hành. Vì giới hành là thể hiện
đời sống Thánh Tăng, Thánh Ni, Thánh cư sĩ.

HƯỚNG TÅM CÁC HÀNH NGƯNG NGHỴ
Hỏi:Kính bạch Thầy! Khi hơi thở con
gần như mất hẳn thì con thấy rõ cái bụng hoạt
động (ra vô) càng mạnh, lúc đó, tác ý “các hành
ngưng nghỉ” con không biết đúng hay sai?
Đáp: Khi hơi thở gần như mất hoặc mất
hẳn, sức tỉnh thức sẽ tập trung vào các hành
trong thân con phải hướng tâm nhắc: “Các
hành phải ngưng hoạt động! Ngưng hoàn
toàn!”.
Cách thức hướng tâm như vậy là đúng
pháp và đúng lúc, không sai, nhưng có một điều
con nên lưu ý: khi một người tu hành mà tâm
chưa ly dục ly ác pháp hoàn toàn, hoặc chỉ ly
một ít nào đó, hoặc chưa ly chút nào hết, lúc
bấy giờ tâm dục và các ác pháp đang ẩn núp
trong thân tâm hay nói một cách khác là tâm
tham, sân, si đang nằm ngủ hay nói rõ hơn là

tâm tham, sân, si đang bị ức chế nên lúc bấy

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!