Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT- TẬP 1-14

NĂNG KHIẾU
Hỏi:Kính thưa Thầy, qua gương hạnh
đáng kính của cô Út Diệu Quang, theo con
nhận xét sự tu tập rèn luyện thân tâm không
phải tầm thường. Một người tu đạt kết quả như
vậy, họ có sẵn một cái tài hay một năng khiếu,
một trí thông minh... nên con đường tu mau kết
quả, có phải vậy không thưa Thầy?
Đáp: Sự tu tập nào có được nhanh chóng,
đều phải nhờ nhiều đời huân tu chớ không phải
có sẵn tài, trí và năng khiếu. Tài trí và năng
khiếu là do sự huân tập nhiều đời mà có. Nếu
đời này con không trau dồi, tu tập rèn luyện tài
trí và năng khiếu thì đời sau con cũng chẳng
có.
Tu tập và xả tâm càng gặp khó khăn,
đừng nên chán nản, mà phải quyết tâm khắc
phục cho được, xả bỏ cho được, quyết thực hiện
cho bằng được thì người đó, sẽ trong một đời
này thành tựu viên mãn, chỉ có “quyết tâm”
là làm nên việc lớn, Đời cũng như Đạo.
Trí thông minh và năng khiếu không phải
người có, người không, mà tất cả mọi người ai
cũng có, nhưng chỉ vì chúng ta không huân tập
nên không có mà thôi.
Ví dụ: trong một lớp học có 60 học sinh,
nhưng học sinh giỏi thì có năm ba đứa, chúng
học rất nhanh và mau thuộc bài, môn học nào
chúng cũng xuất sắc. Thật sự số học sinh này
rất ít, nghĩa là học sinh giỏi tất cả các bộ môn.
Còn số học sinh giỏi từng môn thì nhiều,
kẻ giỏi toán, người giỏi văn, người giỏi sinh ngữ
v.v..


Đó là vì chúng ta đã có học tập trong đời
trước, nên đời này chúng học lại môn đó, tức là
ôn lại, nên học rất nhanh làm bài rất giỏi. Còn
những người đời trước không học, đời nay học,
nên học lâu thuộc bài, nhiều khi học mãi mà
không thuộc.
Lịch sử Việt Nam, có nhắc lại ông Lê Quý
Đôn, khi ông bố sai mua một cuốn lịch xem
ngày, ông đem tiền ra mua giấy và đến cửa
hàng bán lịch ông xin cho mượn xem, xem xong
ông trả lại cho hàng sách, về nhà ông chép lại
cho bố một cuốn lịch mà không sai một chữ
nào.
Bên Trung Hoa, đời Tam Quốc, bên Tây
Thục sai một người đi sứ qua Bắc Ngụy, tức là
Tào Tháo. Tào Tháo viết một cuốn sách lấy tên
là Tào Mạnh Đức Kinh, đem khoe với vị sứ giả.
Vị sứ giả bảo bên nước tôi trẻ con đều thuộc làu
kinh sách này. Tào Tháo không tin mới bảo
Ông hãy đọc cho Tào Tháo nghe một đoạn, Ông
bảo Tào Tháo xin Ngài đưa cho tôi xem có đúng
không? Rồi tôi sẽ đọc cho Ngài nghe. Tào Tháo
đưa cho Ông đọc, Ông đọc xong trả lại cho Tào
Tháo, Ông cả cười nói: “Tôi nói đâu có sai,
đúng là trẻ con của nước tôi từng đã đọc sách
này”, Ông bắt đầu đọc cho Tào Tháo nghe
không sai xót một chữ nào. Tào Tháo tán thán
và không bắt tội Ông được.
Trí thông minh như vậy quá tuyệt vời, đọc
qua là thuộc làu, thế mà trí thông minh đó
dùng vào việc gì, chỉ đi ra làm quan mà không
giải quyết sự khổ đau của dân tộc. Trong thời
làm quan, các vị này cũng chẳng làm được
những gì lợi ích cho dân, cho nước nhiều, mà
chính sự thông minh đó cũng chẳng giải quyết
được gì, cho đời sống của các Ôngï cả, các Ông
ấy cũng chỉ khổ đau vì danh, vì lợi như bao
nhiêu người khác.
Làm được như Thầy (tức là làm chủ tham,
sân, si) không để tâm mình phiền não khổ đau,
giận hờn, thương ghét, ấy là tài năng và trí
tuệ. Thông minh cũng như năng khiếu đó mới
chính là tài năng, trí tuệ, thông minh của đạo
Phật, còn ngược lại tài năng, trí tuệ, thông
minh và năng khiếu mà tự làm khổ mình, khổ
người. Đó là tài năng trí tuệ của phàm phu, của
người thường trong thế gian.
Bởi vậy, người có tài năng, trí tuệ, thông
minh của đạo Phật là sống thanh thản, an laic
không làm khổ mình, khổ người (chỉ có những
bậc Thánh Alahán mà thôi). Người có được trí
tuệ như vậy, không phải từ trên trời rơi xuống,
mà do công huân tu tập của chúng ta nhiều
ngày và nhiều đời, cũng như bây giờ con thấy
Cô Út Diệu Quang có được tri kiến như vậy,
cũng chính là đời trước cũng phải huân tu rất
nhiều, huân tu mà còn phải có ước nguyện, khi
mình cố gắng xả tâm được, thì mình làm
nghịch hạnh, để vừa xả tâm mình, vừa hướng
dẫn mọi người đồng được giải thoát khỏi kiếp
đời trầm luân khổ đau.
Như các con đã biết, Cô Diệu Quang chẳng
học Kinh sách Phật, chẳng chịu ảnh hưởng của
một tôn giáo nào, Cô chỉ có công giúp Thầy tu
trong thất bằng cách làm kinh tế, mua gạo và
thực phẩm để mẹ Thầy nấu cơm cúng dường
Thầy ăn và tu hành.

Mục đích của Thầy tu là tìm sự giải thoát,
khi nào giải thoát được thì mới dạy người tu,
còn đang tu thì nhất định không dạy ai hết,
cho nên Cô Diệu Quang chỉ biết trợ giúp cho
Thầy tu, chứ không có tu hành gì cả.
Đến khi Thầy tu xong, về trình sự tu hành
của mình cho Hòa Thượng Thanh Từ, thì cũng
năm đó Phật tử tìm về kiếm Thầy hỏi pháp, do
Hòa Thượng Thanh Từ báo cho Phật tử biết
chính là Thầy đã tu chứng quả “A-La-Hán”. Đó
là vị cư sĩ tìm về đây đầu tiên là Ông Chánh
Giải ở Châu Đốc. Khi gặp Thầy ông xin Thầy
cho phép đảnh lễ vì Hòa Thượng đã cho Ông
biết Thầy đã chứng quả A-La-Hán.
Từ đó, Cô Út Diệu Quang trở thành một
người phục vụ cho tu sĩ cũng như Phật tử thì
còn đâu có thì giờ mà tu tập.
Lúc nào rảnh rỗi hoặc nửa đêm, Cô mới có
thì giờ ngồi tập dừng cái ý, thời gian ấy không
lâu chỉ độ 30 phút là cao.
Hoàn cảnh tu sĩ và Phật tử là một trở
ngại rất lớn cho sự sống yên tĩnh tu hành của
Cô. Cô bị mọi người khen thì ít, mà chê thì
nhiều, nhất là tâm phàm phu của thiên hạ.
Nhất là dựa theo tâm lý phàm phu của thế tục
mà suy diễn về cô Diệu Quang, thì những sự
suy nghĩ đó, sẽ đem lại ác pháp cho người, chứ
cô Diệu Quang như thế nào thì cô tự biết, đó là
nhân quả của Cô, chứ Thầy không ý kiến gì
hết. Thầy chỉ thấy đó là duyên phước chúng
sanh chưa đủ phước, và là luật nhân quả đời
trước. Từ những sự việc đó xảy ra, tự Cô phải
đương đầu với nội tâm của mình, tâm như biển
sóng dồn dập, Cô như chiếc thuyền nan trên
mặt biển.
Cô vừa chiến đấu với nội tâm để xả những
u hoài khổ đau của mình vừa phản công những
đối tượng bên ngoài (Phật tử và tu sĩ).
Phiền não tức Bồ Đề, nhờ các đối tượng
ấy, Cô đã tìm ra phương pháp xả tâm để cứu
mình thoát khổ. Đối với những người, đã làm
Cô khổ, nhưng có điều là Cô không oán hận
những người đó, Cô xem đó như bình thường,
không có gì cả, và khi những người đó hữu sự,
có tai nạn, thì Cô sẵn sàng khuyên lơn và giúp
đỡ. Cô nói nặng nhẹ người khác. Bởi vì, Cô
đang còn trên đường tu tập xả tâm, nhưng lòng
yêu thương đối với con người không xa lìa, lúc
nào cũng thương yêu mọi người, sẵn sàng giúp
đỡ, nhưng sẵn sàng nói nặng, vì hạt giống
tham, sân, si vẫn còn, để người ấy xả tâm thật
sự hay không. Nếu xả tâm thật sự, thì người ấy
sẽ chiến thắng được mình. Vả lại, Cô cũng
đang còn trên đường tu tập xả tâm, vẫn còn
tham, sân, si, mạn, nghi… nên các con hãy lấy
Cô làm đối tượng nghịch cảnh để buông xả tâm
mình, đừng oán giận Cô.
Khi Cô cố gắng để xả được tâm mình
không còn khổ đau, thù hận, xem mọi việc như
không, nghĩa là mọi việc không làm Cô bận
tâm. Cũng từ đó, tri kiến của Cô phát triển,
như các con hiện giờ đã thấy. Cô đối đáp giải
quyết theo bản năng tự nhiên của đời trước đã
huân tu, chứ không phải trong đời nay và trong
kinh sách.
Các con đừng hiểu rằng, đời trước là một
đời kế đây, đời trước ở đây là một đời mà nhiều
đời và cũng có thể đồng thời với đức Phật, Côâ
là người đã học và tu trong những thời đó, kiếp
này Cô được làm người, nó đã sống lại trong
quá khứ xa xưa kia. Vì thế, các con nên nhớ
những gì mà các con tu đúng pháp, dù muôn
đời nó vẫn không mất, nó sẽ làm sống lại nơi
tâm hồn của các con mà các con sẽ gọi nó là tài
năng, năng khiếu hay là trí thông minh.
Nhưng nếu các con tu sai, nó vẫn sống lại và
đưa các con vào biển khổ bằng ảo tưởng như
đồng cốt, những người này họ đâu có tu hành
trong đời này, nhưng đời trước họ đã tu theo tà
đạo, đời này năng khiếu đó, nó sống lại, cho
nên họ trở thành là những loại đồng cốt, ông
lên, bà xuống, bóng chàng v.v..
Những người ở đời này, tu Thiền Đông Độ,
Thiền xuất hồn, Thiền Yoga và tất cả các loại
Thiền tưởng, kiếp sau họ trở thành những thầy
cúng, phù thủy, đồng, cốt, thầy bói, thầy bùa,
thầy ngải v.v.. Nói chung kiếp này tu sai chánh
pháp, kiếp sau làm những điều mê tín, tiếp tục
lừa đảo người khác, đó là năng khiếu tà giáo
ngoại đạo. Khi chúng ta huân tu thì nó không
bao giờ mất, nó sẽ sống lại trong khi chúng ta
sanh lên làm người. Còn chúng ta tu đúng theo
chánh pháp của Phật thì luôn luôn lúc nào cũng
xả tâm ly dục ly ác pháp. Tuy rằng, cuộc sống
có nhiều sóng gió ba đào, nhưng chúng ta
không bị lạc vào hoang đảo, cũng vì nhờ đức
hạnh và giới luật, nó là ngọn hải đăng đưa tàu
vào bến an toàn.
Cuộc đời tu hành của Thầy cũng vậy, khi
mất cả hy vọng trên đường tu tập, chới với
giữa biển pháp của Đại Thừa, bước đường cùng,
chỉ còn chết mà thôi.
Trong khi mất hết cả niềm hy vọng, thì
năng khiếu trỗi dậy để cứu mình, nên trong
tiềm thức của Thầy nhớ đến lời của Hòa
Thượng Minh Châu. Trong khi sắp chết đuối,
một chiếc phao đã hiện ra và đã cứu Thầy.
Thầy đã tìm được lối thoát mà xưa kia
Thầy đã từng tu học giáo pháp này,nên đọc tới
đâu Thầy nhận ra pháp hành tới đó và thực
hành có kết quả ngay liền, nghĩa là Thầy tu lại
theo lời dạy của đức Phật đã dạy trong Kinh
Nguyên Thủy pháp “Như Lý Tác Ý” mà hơn
nửa đời người theo đạo Phật tu hành chẳng có
một vị Thầy nào dạy tu tập điểm này với pháp
môn này, Thầy đã nhận ra bí quyết thành
công của pháp môn này là “Độc cư”.
Pháp Như Lý Tác Ý và Độc Cư là năng
khiếu của Thầy trỗi dậy. Xưa, đức Phật cũng
vậy, khi con đường tu tập tận cùng, Ngài như
sắp chết, thì năng khiếu Ngài trỗi dậy. Ngài
nhớ lại đạo lộ Tứ Thánh Định, Ngài liền bỏ
sạch các pháp môn của ngoại đạo, Ngài không
tu khổ hạnh nữa, tiếp tục sống đúng đời sống
Phạm hạnh, khi cơ thể Ngài bình phục, 49
ngày dưới cội Bồ Đề do đạo lộ Tứ Thánh Định,
Ngài đã viên mãn con đường tu giải thoát,
thỏa mãn được ước vọng của Ngài làm chủ
sanh, già, bịnh, chết.
Bởi vậy, muốn có năng khiếu và trí thông
minh thì phải tu tập pháp “Hướng Tâm” và
“Độc Cư” con ạ!
Quyết định phải tu cho bằng được phải
không con? Dù cho xương có tan, thịt có nát
nhất định chúng ta phải thành công, thì đó là
con đã huân tập một tài năng, một tri kiến,
một năng khiếu.
Hiện giờ, Cô Diệu Quang có trắc nghiệm
bằng một phương pháp nào, mà có tận cùng sự
khổ đau thì nhất định tâm con cũng như cục
đất phải không con? Có như vậy, mới thấy tâm
được giải thoát thanh thản, an lạc và vô sự, đó
là kết quả của tâm bất động.

TRÍ TUỆ
Hỏi:Kính thưa Thầy! Khi tu Định Vô
Lậu tri kiến giải thoát phóng ra đó có phải là
trí tuệ không?
Đáp: Tu tập Định Vô Lậu giúp cho sự hiểu
biết thông suốt bản chất thực của các pháp thế
gian và xuất thế gian, để không hiểu sai lệch,
không đúng lý, không bị lầm chấp. Do sự hiểu
biết các pháp không lệch lạc thấy đúng, biết
đúng như thật, để tâm không bị lầm chấp dính
mắc nên gọi là trí tuệ tri kiến giải thoát. Hiểu
biết đúng các pháp như thật, tâm không dính
mắc, lầm chấp nên không còn phiền não đau
khổ, giận hờn, bất toại nguyện gọi là giải
thoát.
Người chưa tu Định Vô Lậu là chưa có trí
tuệ giải thoát, trí tuệ giải thoát gọi đúng nghĩa
của nó là tri kiến giải thoát.
Vô lậu là không còn đau khổ, trí tuệ hiểu
biết không còn đau khổ là trí tuệ vô lậu, trí tuệ
vô lậu mới bắt đầu tu tập là tri kiến giải thoát,
gọi trí tuệ ở đây không đúng nghĩa lắm. Vì theo
đạo Phật xác định Giới sanh Định; Định sanh
Tuệ nhưng chúng ta mới tu tập giới chưa thanh
tịnh thì làm sao có định mà định chưa có thì
làm sao có tuệ mà gọi là tuệ được. Phải không
con?
Người tu hành muốn có được tri kiến giải
thoát này, thì không phải tự trên trời rơi xuống
mà chính mình phải biết ngăn ác diệt ác pháp,
phải biết lìa lòng ham muốn.
Biết ngăn ác diệt ác pháp chia ra làm tám
phần:
1- Phòng ngừa các ác pháp bên ngoài tức
là tránh duyên cảnh bên ngoài (độc cư).
2- Phòng hộ sáu căn tức là giữ gìn mắt,
tai, mũi, miệng, thân, ý không cho dính mắc
sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp (độc
cư).
3- Ngăn ngừa không cho việc ác sanh
khởi trong tâm như thường tu các định thực
hiện về thân hành niệm.
4- Dùng pháp Hướng Tâm - Như Lý Tác Ý
để tạo thành nội lực tỉnh thức, buông xả.
5- Diệt các pháp ác đã sanh bằng Định
Vô Lậu.
6- Diệt các pháp ác bằng quán xét nhân
quả.
7- Diệt các ác pháp bằng tâm từ, bi, hỷ,
xả.
8- Diệt các ác pháp bằng nhẫn nhục, tùy
thuận, bằng lòng hoặc trầm lặng, từ khước.
Trong tám pháp tu tập này, thì bốn pháp
ngăn ngừa là trên hết. Người ta bảo: “Ngừa
bệnh hơn trị bệnh”.
Cho nên, tri kiến giải thoát là tri kiến
phòng hộ, tri kiến phòng hộ là đệ nhất, tri
kiến phòng hộ tức là giới luật. Phật dạy: ‚Tri
kiến ở đâu là giới luật ở đó. Giới luật ở
đâu thì tri kiến ở đó. Giới luật làm thanh
tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới
luậtù‛. Đoạn kinh này, tức là đức Phật nói pháp
ngăn ác, nói pháp ngăn ác tức là nói pháp độc
cư, pháp độc cư là bí quyết thành công thiền
định của đạo Phật vì nó là pháp ngăn ác tuyệt
vời.
Tóm lại, muốn có tri kiến giải thoát thì
phải tu tập “Bát Chánh Đạo”: Chánh Kiến,
Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp,
Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm,
Chánh Định. Đó là con đường dẫn đến tri kiến
và trí tuệ giải thoát.

MỤC ĐÍCH CHÁNH NIỆM
TỴNH GIÁC LÀ GÌ?
Hỏi:Kínhbạch Thầy! Tu tập Chánh
Niệm Tỉnh Giác theo hành động làm việc liên
tục từ sáng đến chiều chỉ biết hành động “làm
việc tôi biết tôi đang làm việc” không có nghĩ
ngợi gì khác hơn, tức là không có tạp niệm xen
vào, như vậy có đúng không thưa Thầy ?
Đáp: Tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác như
vậy là một sức tỉnh thức kinh hồn, đủ để xả
tâm và nhập các định khác một cách dễ dàng.
Chánh Niệm Tỉnh Giác Định tức là tu tập
trong Thân Hành Niệm. Nhờ có tu tập Thân
Hành Niệm ta mới có tỉnh giác chánh niệm, có
tỉnh giác mới ở trong chánh niệm, có chánh
niệm thì tâm mới không làm khổ mình, khổ
người, mới có lợi lớn, an ổn lớn khỏi các khổ
ách, đưa đến chứng đắc tri kiến, đưa đến hiện
tại lạc trú, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải
thoát.
Mục đích chánh niệm tỉnh giác là gồm tất
cả các thiện pháp và trí tuệ Tam Minh. Phật
dạy: ‚Này các Thầy Tỳ Kheo, ai tu tập làm
cho sung mãn Thân Hành Niệm, cũng bao
gồm tất cả thiện pháp gồm những pháp
thuộc về Minh phần‛. (Tăng Chi Bộ Kinh Tập
1, trang 88).
Chúng tôi xin xác định cho quý vị được rõ,
vì ở trên chỉ nói lướt qua ‚Chánh niệm Tỉnh
Giác và Thân Hành Niệm‛ còn ở đây là hai
danh từ để chỉ cho một hành động tu tập Thân
Hành Niệm. Tu tập Thân Hành Niệm là chỉ
cho sự tỉnh giác trong hành động của thân phải
biết hành động đó rõ ràng cụ thể không được
bỏ sót một hành động nào của thân, còn Chánh
Niệm Tỉnh Giác thì cũng nghĩa như vậy nhưng
nó có từ Chánh Niệm để chỉ rõ hơn, chúng ta
thử đặt lại vấn đề, tỉnh giác để làm gì? Để
Chánh Niệm, còn Thân Hành Niệm tức là tỉnh
giác, vậy tỉnh giác để làm gì? Tỉnh giác để xả
tâm tức là khắc phục tham ưu như trong Tứ
Niệm Xứ đức Phật đã dạy: ‚Trên thân quán
thân tu về hành tướng nội ngoại để khắc
phục tham ưu‛. Hành tướng nội ngoại của
thân không phải là Thân Hành Niệm sao? Còn
khắc phục tham ưu không phải là Chánh Niệm
sao? cho nên, Thân Hành Niệm tức là Chánh
Niệm Tỉnh Giác.
Ở đây đức Phật đã xác định Chánh Niệm
Tỉnh Giác có nhiều kết quả rất lớn cho sự tu
tập để đi đến giải thoát: ‚Có một pháp, này
các Thầy Tỳ Kheo, khi được tu tập, được
làm cho sung mãn, thân được khinh an,
tâm được khinh an, tầm tứ được tịnh chỉ,
toàn bộ các pháp thuộc về minh phần đi
đến tu tập, làm cho viên mãn. Một pháp ấy
là gì? Chính là Thân Hành Niệm‛ (Tăng Chi
Bộ Kinh Tập 1, trang 89).
Như trong đoạn Kinh này, mục đích chánh
Niệm Tỉnh Giác giúp chúng ta tịnh chỉ tầm tứ,
tức là nhập Nhị Thiền.
Chánh Niệm Tỉnh Giác còn đưa chúng ta
đến chứng bốn quả Thánh: Tu Đà Hoàn, Tư Đà
Hàm, A Na Hàm, A La Hán: ‚Có một pháp,
này các Thầy Tỳ Kheo, được làm cho sung
mãn, đưa đến sự chứng ngộ quả Dự Lưu,
đưa đến sự chứng ngộ quả Nhất Lai, đưa
đến sự chứng ngộ quả Bất Lai, đưa đến sự
chứng ngộ quả A La Hán. Một pháp ấy là
gì? Chính là Thân Hành Niệm‛ (Tăng Chi Bộ
Kinh Tập1, trang 90).
Chánh Niệm Tỉnh Giác còn đưa chúng ta
đạt đến những trí tuệ vô hạn và siêu việt: ‚Có
một pháp, này các Thầy Tỳ Kheo, khi được
tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến
sự chứng đắc trí tuệ, đưa đến sự tăng
trưởng trí tuệ, đưa đến trí tuệ rộng rãi,
đưa đến quảng đại trí tuệ, đưa đến thâm
sâu trí tuệ, đưa đến vô song trí tuệ, đưa
đến vô hạn trí tuệ, đưa đến nhiều trí tuệ,
đưa đến trí tuệ nhanh lẹ, đưa đến trí tuệ
nhẹ nhàng, đưa đến trí tuệ hoan hỷ, đưa
đến trí tuệ tốc hành, đưa đến trí tuệ sắc
sảo, đưa đến trí tuệ thể nhập. Một pháp ấy
là gì? Chính là Thân Hành Niệm‛ (Tăng Chi
Bộ Kinh Tập1, trang 91).
Khi con tu tập tỉnh giác trong hành động
suốt ngày đêm như vậy, là con sẽ chứng quả A
La Hán, tức là làm chủ sanh, già, bịnh, chết
hoàn toàn. Vì sức tỉnh thức khiến tâm con
thanh tịnh, không còn một pháp nào làm động
tâm con được. Và nội lực thanh tịnh của tâm
con tức là lực ly dục ly ác pháp sẽ giúp con
thành tựu Thiền định và Tam Minh một cách
dễ dàng không mấy khó khăn. Lúc bấy giờ, con
chỉ cần hướng tâm là có hiệu quả ngay, con
muốn gì được nấy, vì tâm con hiện giờ thuần
thục, nhu nhuyễn dễ sử dụng.
Sức tỉnh giác như con đã nói ở trên, là
mục đích của đạo Phật, con đã hoàn tất được
mục đích đó khi sức tỉnh thức của con được như
vậy.
Trên đây, con đã hỏi về pháp Chánh Niệm
Tỉnh Giác và con được giảng dạy như vậy con
có hiểu chưa? Con có biết những câu hỏi mà con
hỏi có một giá trị vô giá không? Vô giá là ở chỗ
học được pháp vô giá của đạo Phật, thế mà mọi
người đọc tới đây, có người vẫn xem thường
pháp vô giá. Ôi, thật đáng thương! Nếu từ ngày
Thầy giảng trạch pháp này, mà mọi người biết
nó là vô giá thì bây giờ biết bao nhiêu người đã
chứng quả vô lậu A La Hán. Con có nhớ không,
bài giảng này khởi sự giảng dạy các con vào
năm 1979 đến nay là 2004 tức là 25 năm. Phải
không con? Bây giờ, nhuận lại đoạn kinh này,
nhìn lại sự tu hành của các con, thì Thầy rất
đau lòng vì pháp bảo cứu người biển khổ mà
mọi người không đủ phước để thọ hưởng, vì thế
pháp bảo 25 năm nay, trở thành một vật vô
dụng. Ôi, thật là phí uổng. Vật vô giá, mà trao
cho người không có mắt, thì cũng như trao đất
cát đồ vô dụng cho họ.

TRÍ TUỆ THẾ GIAN CĨ PHÂI LÀ
TRI KIẾN GIÂI THỐT HAY KHƠNG?
Hỏi:Kính bạch Thầy! Sự suy tư trong
việc làm, để làm việc không thất bại, đó có
phải là trí tuệ hay không? Trí tuệ đó có bằng
tri kiến giải thoát trong đạo Phật không? Xin
Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Sự suy tư trong hành động để làm
việc không gặp thất bại, đó là tri kiến thế gian,
nó thường mang theo những hành động thiện
và ác, nên khi biến ra hành động việc làm
thường mang theo quả khổ vui của tri kiến đó,
nó không phải là tri kiến giải thoát của đạo
Phật, nó là tri kiến dính mắc khổ đau, còn tri
kiến dùng để quán xét xả tâm diệt ngã, ly dục
ly ác pháp, đó là tri kiến dùng để tu tập Định
Vô Lậu trong từng tâm niệm, từng hành động
việc làm để xả tâm tham ưu, phiền não, do sự
quán xét tư duy này nên tâm được giải thoát an
vui, thanh thản và vô sự, đó là tri kiến giải
thoát.
Tu tập trong tâm niệm và việc làm, tức là
tu tập Thân Hành Niệm, đó là một pháp môn
đệ nhất của đạo Phật về việc chánh niệm tỉnh
thức, nhưng đây là giai đoạn đầu của pháp
Thân Hành Niệm.
Tu tập Định Vô Lậu giúp chúng ta sống
trong chánh niệm diệt trừ tà niệm.
Tu tập Định Chánh Niệm Tỉnh Giác là
giúp chúng ta tỉnh thức phá trừ si mê hôn ám
và thường sống trong thiện pháp. Để xác định
một lần nữa về trí tuệ thế gian và trí tuệ giải
thoát. Trí tuệ là sự hiểu biết và tư duy đều
giống nhau cả. Nhưng sự tư duy suy nghĩ một
điều gì mà do lòng ham muốn và nghiệp tham,
sân, si thúc đẩy thì đó gọi là trí tuệ thế gian;
còn sự tư duy, suy nghĩ đó mà đi ngược lại với
lòng ham muốn và nghiệp tham, sân, si thì đó
là trí tuệ giải thoát, còn gọi là tri kiến giải
thoát.
Do sự phân tích và xác định này thì tri
kiến giải thoát không phải ngoài trí tuệ thế
gian mà có, không phải do tu tập Thiền định
mà sanh ra theo kiểu Thiền Đông Độ đã nghĩ
tưởng. Ngồi yên lặng không niệm thiện niệm
ác, tức là không có vọng tưởng thì trí tuệ phát
sanh. Trí tuệ đó không phải là trí tuệ giải
thoát mà là tưởng tuệ.
Có một câu chuyện xảy ra trong thế kỷ
này, người ta ca ngợi về Thiền Đông Độ một
cách huyền thoại:
Họ nói rằng trong thời chiến tranh Việt
Nam có một vị Đại Sứ Mỹ C.B.L. khi được
Tổng Thống Mỹ đưa sang Việt Nam để giải
quyết vấn đề Phật giáo năm 1962-1963, thì
Ông phải đi sang Nhật Bổn học Thiền một
khoá rồi mới đến Việt Nam giải quyết. Người
ta bảo rằng mỗi khi có gặp một vấn đề khó
khăn không giải quyết được, thì Ông tọa Thiền
khoảng 30 phút là trí tuệ Ông phát ra và hôm
sau Ông giải quyết sự việc một cách tốt đẹp, đó
cũng là một trò lừa bịp.
Khi nghe trong Kinh điển đức Phật dạy:
‚Giới sanh định, định sanh tuệ‛. Do định
sanh tuệ, rồi người ta lại tưởng ra và hiểu một
cách sai lệnh về định, cho rằng: ngồi Thiền giữ
tâm không vọng tưởng là định và khi ngồi im
lặng được không vọng niệm xen vào thì trí tuệ
phát sanh, trí tuệ này do định sanh rất thông
minh. Người ta chưa biết định là gì, nên đã
hiểu lầm chữ định sanh tuệ trong nhà Phật.
Chữ định trong nhà Phật, là chỉ cho tâm
ly dục ly ác pháp, nếu tâm chưa ly dục ly ác
pháp thì tri kiến đó là tri kiến thế gian, còn
tâm đã ly dục ly ác thì tri kiến ly dục ly ác
pháp đó là tri kiến giải thoát, tri kiến giải
thoát tức là định, tức là tâm ly dục ly ác pháp,
tâm ly dục ly ác pháp là tâm thanh tịnh, tâm
thanh tịnh tức là tâm bất động, tâm bất động
tức là định, định tức là tri kiến giải thoát. Như
vậy, đức Phật gọi định sanh tuệ, chứ không
phải ngồi như con cóc không niệm thiện niệm
ác rồi mới phát sanh trí tuệ. Đó là, một sự hiểu
sai lệch, hiểu theo tưởng tri của các nhà học giả
xưa và nay.
Hằng ngày, con tu tập diệt ngã xả tâm,
ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng
thiện pháp là con đã tu tập tri kiến giải thoát.
Nhờ tu tập trí tuệ tri kiến giải thoát này tâm
con nhuần nhuyễn, bén nhạy, phản ứng tự
nhiên, khi gặp các ác pháp khiến tâm con
thanh thản và an lạc thì đó gọi là tri kiến giải
thoát. Cho nên, một sự tư duy suy nghĩ nào, mà
khiến cho tâm ly dục ly ác pháp là trí tuệ tri
kiến giải thoát của con chứ không phải ngồi
Thiền mà phóng ra trí tuệ đó được.
Muốn có trí tuệ tri kiến giải thoát, thì
ngày nào con cũng tu tập quán xét, suy tư để
đẩy lùi các chướng ngại pháp trong thân tâm
đó là con tu tập rèn luyện trí tuệ tri kiến giải
thoát, nó lớn mạnh dần theo sự tu tập của con
là con đã khắc phục được tâm tham ưu khổ não
của mình, tức là con khắc phục được sanh tử
luân hồi.
Những việc tu tập này đức Phật gọi là
Thiền định: ‚Này các Thầy Tỳ Kheo, đối với
các pháp ác bất thiện chưa sanh, khởi lên
ý muốn không cho sanh khởi, tinh cần,
tinh tấn, quyết tâm, cố gắng… Đối với các
pháp ác, bất thiện đã sanh, khởi lên ý
muốn đoạn tận, tinh cần, tinh tấn, quyết
tâm, cố gắng… Đối với các pháp thiện chưa
sanh, khởi lên ý muốn làm cho sanh khởi,
tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng…
Đối với pháp thiện đã sanh, khởi lên ý
muốn làm cho an trú, không cho vong
thất, làm cho tăng trưởng, làm cho quảng
đại, tu tập, làm cho viên mãn, tinh cần,
tinh tấn, quyết tâm, cố gắng…‛. Trên đây, là
một bài Kinh trong 37 phẩm trợ đạo mà đức
Phật đã dạy chúng ta tu Thiền định thuộc Tăng
Chi Bộ Kinh Tập 1, trang 82, bài 14-17, tựa là
Thiền Định.
Tóm lại, từ định sanh ra trí tuệ tri kiến
giải thoát thì phải ở trong thân hành niệm mà
tu tập. Nhờ có tu tập pháp Thân Hành Niệm,
thì mới đủ năng lực đẩy lùi các ác pháp và nội
lực tham dục, sân dục và si dục. Những dục
tham, sân, si này rất mạnh, nếu một người tu
hành mà không hành pháp Thân hành Niệm
thì chẳng bao giờ có nội lực để đương đầu với
nội lực ác pháp tham, sân, si, chúng có một sức
mạnh kinh khủng là vì chúng ta đã tập tham,
sân, si nhiều đời nhiều kiếp chứ không phải có
một đời này.
Thân Hành Niệm, là một tên pháp môn
chỉ gồm chung nhiều pháp môn tu tập, rèn
luyện về trí tuệ tri kiến giải thoát , về nội lực
bảy Giác Chi, về lệnh Tứ Như ý Túc.
Do sự suy tư tu tập này, chúng ta suy ra
mới thấy rõ đường lối tu tập của đạo Phật là
chuyển từ tri kiến thế gian để trở thành tri
kiến giải thoát, từ tri kiến giải thoát chuyển
thành tâm ly dục ly ác pháp, từ tâm ly dục ly
ác pháp chuyển thành tuệ Tam Minh, chứ
không phải từ sự yên lặng nào mà sanh ra
được.
Đạo Phật là đạo trí tuệ, là đạo chuyển hóa
tâm phàm phu trở thành tâm Thánh.
Vậy các con có muốn mình có trí tuệ tri
kiến giải thoát hay không?
Muốn được như vậy không phải dễ đâu!
Phải bằng nước mắt, xương và máu của
chúng ta, có nghĩa là chúng ta phải chết đi một
lần và sống lại.
Nếu không có sự quyết tử ấy thì cuộc đời
tu hành của chúng ta hoài công vô ích mà thôi.
Bởi tâm Thánh không thể dành cho những
kẻ còn ham sống sợ chết, đàng nào rồi các con
cũng phải chết, nhưng chết trong đau khổ và
mãi mãi khổ đau. Ngược lại, người sống mà như
đã chết thì sẽ sống mãi, sống mãi muôn đời và
không còn khổ đau nữa.

BUỒN CHÁN KHI XÃ TÅM KHƠNG ĐƯỢC
Hỏi:Kính bạch Thầy! Con đã học, đã
biết nhất là khép mình trong giới luật sao con
vẫn phạm, lương tâm con cắn rứt, khổ sở vô
cùng. Ngày nào, giữ đúng con thấy tâm con
được yên ổn, thanh thản, an vui.
Sự tu hành cũng có nhiều khó khăn, tâm
còn yếu con không thể vượt qua được, đôi lúc
con cũng chán nản. Thưa Thầy, những lúc này
con phải tu như thế nào? Trạch pháp ra sao để
tiến bước trên đường tu tập?
Đáp: Còn phạm tức là tỉnh thức chưa đủ,
chánh niệm còn yếu, nên cố gắng tu tập Chánh
Niệm Tỉnh Giác Định và Định Vô Lậu, siêng
năng cần mẫn tập nhiều hơn, thì sẽ khắc phục
được không còn phạm (còn phạm tức là còn tu,
hết phạm tức là hết tu). Đường lối tu tập của
đạo Phật rất cụ thể, tu tới đâu biết tới đó, có

kết quả hay không có kết quả. Bởi vì, pháp tu

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!