Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

đường về xứ phật - tập 1-16

ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP I
ĐẠO VÀ ĐỜI
Câu hỏi của Từ Chơn
Hỏi:Kính thưa Thầy! Cóphải đường
đời và đường đạo là hai ngả cách ngăn không
sao dung hòa được phải không thưa Thầy?
Con thường nghe người ta nói: Khi một
người thành công trên đường đời thì không
thành công trên đường đạo. Có phải vậy
không?
Đáp: Lời nói này không đúng con ạ!
Người ta đứng trên góc độ những tôn giáo mê
tín mà nói thì đời đạo là hai ngả, còn đứng
trên góc độ những tôn giáo đạo đức, không mê
tín thì đời đạo là một ngả.
Tại sao vậy?
Bởi tôn giáo mê tín là tôn giáo lừa đảo
mọi người nên đời đạo cách xa như hai ngả
đường, còn tôn giáo không mê tín là tôn giáo
đạo đức, tôn giáo đạo đức là đời sốn g của con
người, nên đời đạo không hai. Nếu đời sống con
người không đạo đức là đời sống của loài thú
vật, đời sống đau khổ, đời sống u tối như bóng
đêm. Còn đời sống có đạo đức là đời sống tôn
giáo như đạo Phật Nguyên Thủy, đạo Ông Bà,
đạo Nho Giáo.
Cho nên, tôn giáo nào không chứng minh
được rõ ràng mục đích, thường chứng minh
không cụ thể, không thực tế, mơ hồ, ảo tưởng
là tôn giáo mê tín, còn tôn giáo nào chứng
minh được rõ ràng mục đích cụ thể, không mơ
hồ, ảo tưởng thì tôn giáo đó là tôn giáo đạo đức
của con người. Vì thế, đạo đức của con người thì
làm sao gọi là đời đạo hai ngả? Nếu đời sống
không đạo đức là đời sống của loài thú vật. Có
đúng như vậy không các con? Còn đời sống có
đạo đức là đời sống có tôn giáo, chứ không phải
theo tôn giáo mới gọi là có tôn giáo. Các con có
hiểu ý này không?
Thành công trên đường đời mà không
thành công trên đường đạo là thành công trên
đường ác. Thành công trên đường đời mà thành
công trên đường đạo là thành công trên đường
thiện, cho nên đời có đạo là đời thêm tươi,
thêm hạnh phúc cho mình và cho muôn người,
muôn vật, còn đạo không đời là không phải
đạo…



Ví dụ: Một người giàu có mà không đạo
đức là người bóc lột mồ hôi công sức của những
người khác. Đây là thành công trên đường đời
mà không thành công trên đường đạo. Cho
nên, đời thì phải có đạo mà đạo thì phải có đời,
đời mà không có đạo là đời sống của loài thú
vật như trên đã nói, còn đạo mà không có đời
thì làm đạo cho ai. Đến đây các con đã hiểu đời
như thế nào là đời đúng, là đời sai. Và đạo như
thế nào là đạo đúng, là đạo sai.
³³³
CHÁNH TRỊ
Hỏi:Người ta nói chánh trị không có
tôn giáo trong đó, nên con rất phân vân mong
Thầy mở rộng lòng từ bi chỉ dạy cho con.
Đáp: Người ta nói chánh trị không có tôn
giáo trong đó, vì người ta hiểu về tôn giáo
không chính xác, thường cho rằng tất cả tôn
giáo đều là thần quyền, mê tín, chứ người ta
đâu biết rằng có những tôn giáo không có thần
quyền, không mê tín, như Đạo Thờ Ông Bà,
Đạo Nho Giáo, đạo Phật giáo Nguyên Thủy.
Những tôn giáo ấy là đạo đức của loài người.
Vậy chánh trị rất cần những tôn giáo đạo đức
ấy.
Chánh trị không tôn giáo đạo đức là
chánh trị độc tài. Chánh trị không tôn giáo mê
tín là chánh trị sáng suốt. Tôn Giáo mê tín là
chánh trị độc tài. Tôn giáo không mê tín là
chánh trị đạo đức đem lại hạnh phúc cho muôn
người.
Chánh trị không tôn giáo đạo đức nhân
bản là chánh trị què. Tôn giáo không đạo đức
nhân bản là tôn giáo mù, tôn giáo mê tín, tôn
giáo thần quyền.
³³³
THƠNG MINH
Hỏi:Ăn mặn có nhiều prôtít để thông
minh học giỏi, học bài mau thuộc, còn những
người ăn chay trí tuệ không phát triển, học
hành càng ngày càng sa sút có đúng như vậy
không thưa Thầy?
Đáp: Theo luật nhân quả thì người học
giỏi là người đã huân học nhiều đời nhiều kiếp,
đến đời này họ chỉ đọc sơ qua là đã thuộc làu,
còn những người không thông minh là những
người nhiều đời nhiều kiếp trước không huân
học nên đời nay học lâu thuộc bài, cho nên học
giỏi hay học dở không phải chỗ ăn mặn hay ăn
chay.
Có người ăn mặn học giỏi nhưng cũng có
người ăn chay học giỏi. Thầy ăn chay từ lúc
tám tuổi thế mà học hành thì không thua ai,
còn tu hành thì ai hơn được. Cho nên , vấn đề
thông minh không phải ăn chay, ăn mặn mà
chỗ do siêng năng học tập nhiều đời nhiều
kiếp.
³³³
TRIẾT HỌC CHÛ NGHÏA
DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Hỏi:Học môn triết học Chủ Nghĩa Duy
Vật Biện Chứng và Chủ Nghĩa Duy Vật Lịch
Sử. Thầy cô đều dạy phải có một lập trường tư
tưởng vững vàng, phải đứng trên lập trường tư
tưởng của giai cấp công nhân… nên làm con rất
dao động tư tưởng.
Đáp: Về môn triết học thì loài người từ
xưa cho đến nay đã để lại cho chúng ta rất
nhiều triết học, nhưng không có một triết học
nào đứng vững, nó chỉ đáp ứng theo xu thế của
thời đại mà thôi. Triết học không phải là chân
lý của lòai người, cho nên nó thường không
theo kịp từng thời đại thường bị lỗi thời, nên
không được con người áp dụng vào cuộc sống
triệt để.
Chúng ta ai cũng biết con người có hai
phần:
1- Phần vật chất
2- Phần tinh thần
□Phần vật chất gồm có một duyên (sắc
uẩn là thân tứ đại).
□Phần tinh thần gồm có bốn duyên (thọ
uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn).
Như vậy triết học Chủ Nghĩa Duy Vật
Biện Chứng chỉ luận về phần vật chất , còn
phần tinh thần hoàn toàn không hiểu. Và như
vậy triết học Chủ Nghĩa Duy Vật Biện Chứng
không đủ những điều kiện giải quyết nhân sinh
quan và vũ trụ quan để cho chúng ta có một lập
trường tư tưởng vững vàng. Có đúng như vậy
không các con?
³³³
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP I
LUẬT NHÅN QUÂ
Hỏi:Luật nhân quả rất công bằng, ai
làm thì người đó chịu. Vậy sao trên đời này
chẳng thấy có cái gì là công bằng cả.
Ví dụ: như người siêng năng học tập
không chơi bời mà khi kết quả thi thì cứ thấp
hơn những người chơi nhiều học ít. Tại sao
vậy?
Đáp: Luật nhân quả rất công bằng, ai làm
thì người đó chịu, nhưng chúng ta phải có đủ
trí tuệ quán xét, chứ không nhìn một cách
thông thường mà thấy được sự công bằng ấy.
Ví dụ: như người siêng năng học tập
không chơi bời mà khi kết quả thi thì cứ thấp
hơn những người chơi nhiều học ít. Nếu nhìn
thông thường thì chúng ta thấy luật nhân quả
không công bằng, còn chúng ta nhìn suốt lý
nhân quả thì mới thấy luật nhân quả không bỏ
sót một hành động thiện ác nào mà ta đã tạo
nhân trong hiện tại cũng như trong quá khứ.
Cho nên, luật nhân quả gồm có nhiều góc độ
nhìn:
-Thứ nhất nhân hiện tại quả hiện tại.
-Thứ hai nhân quá khứ quả hiện tại.
-Thứ ba nhân hiện tại quả tuơng lai.
-Thứ tư nhân người này quả người khác
chịu do chùm nhân quả.
Ví dụ trên về người sinh viên thì phải
nhìn nhân quá khứ, quả hiện tại, thì mới thấy
luật nhân quả công bằng, còn nhìn nhân hiện
tại, quả hiện tại thì luật nhân quả không công
bằng, đó là nhìn sai. Thường mọi người chỉ
nhìn thấy nhân hiện tại, quả hiện tại, chứ
không chịu thấy những nhân quả ở các góc độ
khác nhau, vì vậy đôi khi thấy nhân quả không
công bằng. Ví dụ: Như một người ăn cắp mà
không bị bắt quả tang tại trận, không bị đánh
đập, không bị tù tội thì cho đó là nhân quả
không công bằng. Như vậy là cái nhìn nhân
quả không đúng, chứ không phải nhân quả
không công bằng. Luật nhân quả có sự chuyển
biến thay đổi theo từng sát na, từng giây, từng
phút không để một kẻ nhỏ của thời gian thiếu
công bằng. Nếu một hành động thiện vừa làm
là có sự thay đổi nghiệp quả ngay liền chuyển
biến sự đau khổ của người làm thiện. Thiện ở
đây có ba nơi xuất phát:
1-    Thân hành thiện
2- Khẩu hành thiện
3- Ý hành thiện
Chỉ một ý hành thiện vừa khởi là chúng
ta cũng cảm thấy quả khổ tiêu tan ngay liền.
Ví dụ 1: Một người đang tức giận bị người
khác mắng chửi, họ chỉ cần khởi niệm: “Đời
trước ta đã gieo nhân này nên ngày nay ta phải
trả hoặc người này là người đáng thương họ
đang tạo nhân quả ác”. Khi nghĩ như vậy ngay
liền làø họ hết khổ. Phải biết, đang tức giận là
đang trả quả ác (khổ), đang chửi mắng là đang
tạo nhân ác.
Ví dụ 2: Khi ta vừa khởi niệm người ấy
xấu ác là nhân thì ngay đó liền có quả ta phiền
não và đau khổ.
Cho nên, phải quán xét trong nhiều góc độ
khác nhau thì ta mới thấy luật nhân quả công
bằng, và công bằng tuyệt đối, do công bằng
tuyệt đối nên không sai một hào ly, vì không
sai một hào ly, nên người nào không đủ trí tuệ
quán xét tế nhị thì không thấu rõ, vì vậy cho
rằng luật nhân quả không công bằng.
Ví dụ: như người siêng năng học tập
không chơi bời mà khi kết quả thi thì cứ thấp
hơn những người chơi nhiều học ít. Là vì người
học sinh ấy học hành không có phương pháp
nên học nhiều mà không nhớ (nhân), do đó kết
quả thi thì cứ điểm thấp (quả hiện tại). Còn
người học ít nhưng lại học có phương pháp nên
nhớ không quên (nhân hiện tại), do đó kết quả
thi thì điểm cao (quả hiện tại). Vì công bằng
cho nên luật nhân quả không phải chỉ có ở góc
độ nhân quả hiện tại mà còn ở nhiều góc độ
khác nữa, khi nào các con học đạo đức nhân
bản – nhân quả thì các bạn sẽ hiểu rõ hơn
nhiều về sự công bằng của luật nhân quả.
Các con cứ thử nghĩ xem: luật nhân quả
chi phối điều hành khắp vũ trụ này, nếu chỉ
một sát na không công bằng thì vũ trụ này sẽ
đổ nhào và không còn trậ t tự, tất cả vạn vật
đều bị rối lọan và bị tiêu diệt.
Với đôi mắt và trí ócphàm phu người ta
không thể nào nhìn thấusuốt quy luật họat
động của nhân quả, vì thếngười này thấy góc
độ này, người kia thấy gócđộ khá c, chứ chẳng
bao giờ thấy tòan diện.
³³³
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP I
NGẪU NHIÊN
Hỏi:Trên đời này có những điều may
mắn ngoài quy luật nhân quả không thưa
Thầy?
Đáp: Trên đời này không có sự ngẫu
nhiên, mọi sự kiện, mọi sự vật xảy ra đều phải
theo quy luật nhân quả điều khiển hoạt động.
Cho nên sự may mắn cũng như sự rủi ro đều do
sự định đọat của luật nhân quả cả. Bởi vì luật
nhân quả không ai tạo ra nó mà chính mình
tạo ra, nên nó xử phạt lại mình rất công bằng.
Con người mê mờ không đủ trí tuệ nhìn
xuyên suốt đường đi của nhân quả nên cho
rằng sự may mắn và sự rủi ro ngoài quy luật
nhân quả.
Nếu các con cho rằng: mọi sự xảy ra đều
là sự ngẫu nhiên thì các con cứ làm ác đi! Hay
làm thiện đi! Thì các con sẽ thấy rõ… Nhân
quả thiện ác sẽ đến thăm các con, nó không
tha một người nào đâu, các con ạ!
³³³
Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC
SỐ MỆNH
Hỏi:Có số phận không thưa Thầy?
Đáp: Có luật nhân quả, chớ không có số
phận. Do tinh thần tiêu cực, mất hết ý chí tự
lực, nên có một số người đặt ra thuyết định
mệnh để an ủi lại mình khi đứng trước những
nhân quả quá khắc nghiệt, quá khó khăn. Do
bi quan họ nghĩ tưởng rằng: con người không
thể nào vượt qua số phận.
Phần đông ngày nay người ta chịu ảnh
hưởng thuyết định mạng nhân quả của văn hóa
Trung Hoa. Khi đứng trước những việc khó
khăn, những sự thử thách gian nan, khổ sở, họ
đều co đầu, rút cổ và bảo rằng: Đó là Định
mệnh do Trời đã quyết định, chúng ta là con
người không thể làm nên và cũng không thể
nào vượt qua được. Do sự tư duy như vậy nên
nghị lực mất hết, tinh thần yếu kém, mất sức
tự chủ v.v..
Nếu có số phận của con người thì trên đời
này không có luật nhân quả. Không có luật
nhân quả thì xã hội loài người không bao giờ
có sự công bằng.
Nếu không có luật nhân quả thì không bao
giờ có câu tục ngữ: “Không ai giàu ba họ và
cũng không ai khó ba đời”. Vì đời sống con
người đều nằm trong luật vô thường chung của
các pháp, đó là quy luật của nhân quả, của
bánh xe tiến hóa luân hồi. Do đó không thể
nào nói có số phận được, phải không các con?
Nếu không có luật nhân quả thì bốn chân
lý của đạo Phật không ra đời, vì mọi sự đau
khổ của con người là số mệnh, là số phận cố
định. Vì mọi sự đau khổ của con người là số
phận, là số mệnh cố định không thay đổi được,
vì thế không thể nào chuyển khổ thành vui
được. Do đó, chân lý của đạo Phật không còn là
chân lý của loài người nữa.
Mục đích đạo Phật ra đời là dạy con người
chuyển khổ thành vui, lấy nhân thiện chuyển
quả ác đem lại sự an vui hạnh phúc cho mọi
người, cho nên chân lý của Phật giáo sẽ đập
tan tành thuyết định mệnh, vì thế con người
không còn gọi là số phận mà là chuyển nghiệp
xấu thành nghiệp tốt.
Ví dụ: Một người chửi mắng mình, mình
không chửi mắng lại, vui vẻ không giận hờn, đó
là chuyển nhân ác thành quả vui. Như vậy đâu
phải là số phận mà là nhân quả, phải không
các con?
³³³
SÁCH ĐẠO ĐỨC
Hỏi:Cónên đưa sách của Thầy cho
người khác xem không thưa Thầy?
Đáp: Khi đưa sách của Thầy cho người
khác xem thì con nên chọn những người bạn
thân, người bạn tốt, người bạn đối xử có tình,
có nghĩa. Còn những người bạn nào có tính cố
chấp thì không nên đưa.
Kinh là lời dạy của Phật, là lời vàng, lời
dạy đạo đức làm Người, làm Thánh khiến cho
chúng ta có cái nhìn rộng rãi hơn, thấu suốt
những lý lẽ mà ta chưa từng hiểu biết, những
lời dạy ấy khiến cho ta có được một tấm lòng
cởi mở, một tâm hồn phóng khoáng, thoải mái
dễ chịu. Những lời dạy ấy giúp cho ta mở rộng
lòng thương yêu đến với sự sống của muôn loài
vạn vật trên hành tinh này. Những lời dạy ấy
còn giúp cho chúng ta mở rộng lòng tha thứ
những tội lỗi của những người khác khiến cho
thân tâm của chúng ta thanh thản, an lạc và
vô sự.
Nhờ những lời dạy ấy chúng ta mới xây
dựng cho mình một nền đạo đức nhân bản -
nhân quả, sống cao thượng không làm khổ
mình, khổ người, khổ chúng sanh.
Những lời dạy quý báu như vậy khi ta cần
cho một người nào thì phải xét họ có đủ duyên
hay chưa? Nếu họ là người có đủ duyên thì họ
phải là người thành thật, không nói láo, không
nói thêm bớt, không nói xấu người khác, không
vu khống, không nịnh bợ, a dua, không nói lời
hung dữ v.v..
Nếu xét thấy những người như vậy thì nên
cho và giúp họ đọc những lời dạy đạo đức của
Phật, của Thầy.
Ngược lại con không cho những người mà
con chưa hiểu, thì sự không cho ấy là không có
tội và không phải là ích kỷ . Cho người khác
đọc mà người ta xem thường những lời dạy của
Phật là không lợi ích cho họ mà còn tạo thêm
tội lỗi phỉ báng Phật giáo nữa.
Cho sách đạo đức làm người mà người
nhận sách không xứng đáng, thì người cho
không được phước, còn người nhận thì càng
thêm tội lỗi. Cũng ví như người biết luật mà vi
phạm luật thì tội nặng, còn người chưa biết
pháp luật mà vi phạm luật thì tội nhẹ hơn
nhiều.
³³³
PHÁ HƠN TRẦM, THÙY MIÊN
Câu hỏi của Bảo Ngọc
Hỏi:Kính thưa Thầy! Làm thế nào để
phá hôn trầm thùy miên sạch?
Đáp: Muốn quét sạch hôn trầm, thùy
miên, vô ký thì trước tiên con phải tập đi kinh
hành Chánh Niêm Tỉnh Giác cho nhuần
nhuyễn, kế đó phải tu tập pháp Thân Hành
Niệm, nếu hai pháp này không thắng nỗi hôn
trầm, thùy miên thì con nên quan sát lại xem
về giới luật. Chỉ có một pháp duy nhất phá
được hôn trầm, thùy miên, hôn tịch, vô ký,
ngoan không tuyệt gốc. Đó là “GIỚI LUẬT”.
Theo sự nhận xét của Thầy thì người tu
hành thời nay bị hôn trầm, thùy miên nặng, vì
giới luật sống không nghiêm chỉnh, thường vi
phạm vào những lỗi nhỏ nhặt, những giới trọng
thì bẻ vụn nát tan để vi phạm không ai biết,
sống như đời thường thế tục, nhất là ăn ngủ
phi thời, phạm vào giới ăn uống phi thời.
Thường thuyết giảng kinh sách mà mình chưa
tu chứng, đó là phạm vào giới vọng ngữ. Tứ
thời tụng niệm thường tụng kinh ê, a giọng cao
giọng thấp theo tiếng chuông, tiếng mõ như ca
hát, đó là phạm vào giới ca hát. Hiện giờ các
Thầy đều còn cất giữ tiền bạc, đó là phạm giới
cất tiền. Y áo toàn của quý Thầy thường mặc
những thứ vải đắt tiền, chứ không mặc y phấn
tảo như đức Phật ngày xưa, vì thế các thầy
phạm vào giới không trang sức. Thường thấy
người khác phái còn sinh tâm sắc dục , đó là
phạm vào giới dâm. Còn thấy ưa thích những
vật dụng thế gian, vật này tốt vật kia xấu, đó
làø phạm vào giới tham. Thấy muỗi, kiến cắn
còn nỡ tâm giết hại chúng chưa có lòng từ bi,
thì đó là phạm vào giới sát sanh. Những sự
sống phạm giới, phá giới như vậy là những tu
sĩ hiện giờ chịu ảnh hưởng của giáo pháp hệ
phái phát triển cho rằng giới luật Phật thời
nay không phù hợp, lỗi thời, chứ họ không ngờ
giới luật là một pháp phá hôn trầm , thùy miên,
vô ký tuyệt vời, chỉ có giới luật mới phá nổi
tâm si của con người mà thôi. Tâm si tức là
hôn trầm, thùy miên, vô ký, hôn tịch, ngoan
không. Nếu không sống đúng giới luật thì
không bao giờ phá nổi tâm si (hôn trầm, thùy
miên, vô ký. Vậy chúng ta hãy nghe đức Phật
dạy: ‚Ta không thấy một pháp nào khác,
này các Tỳ Kheo, đưa đến hôn trầm thùy
miên chưa sanh không sanh khởi, hay hôn
trầm thùy miên đã sanh đã sanh được
đoạn tận, này các Tỳ Kheo, như tinh cần
giới, tinh tấn giới, dõng mãnh giới. Người
tinh cần, tinh tấn, dõng mãnh, này các Tỳ
Kheo, hôn trầm thùy miên chưa sanh
không sanh khởi, hôn trầm thùy miên đã
sanh được đọan tận‛. (Kinh Tăng Chi Bộ tập 1
trang 13 bài 8 tạng kinh Việt Nam) .
Đọc qua đoạn kinh này nhất là câu: ‚Ta
không thấy một pháp nào khác‛, chỉ có Giới
luật là pháp duy nhất mới quét sạnh hôn trầm,
thùy miên, vô ký. Đây là lời xác quyết của đức
Phật. Vậy khi bị hôn trầm thùy miên nặng thì
nên trở về giới luật, sống đúng Phạm hạnh,
không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì
đúng như lời Phật dạy hôn trầm , thùy miên sẽ
được quét sạch.
Thưa các bạn! Lời dạy trên đây các bạn có
tin không? Chứ riêng bản thân chúng tôi đã có
kinh nghiệm trên sự tu tập này. Do chúng tôi
sống đúng giới luật không hề vi phạm một lỗi
lầm nhỏ nhặt nào, nên chúng tôi không bị hôn
trầm, thùy miên đến thăm như các bạn.
Hôn trầm, thùy miên là một lọai bệnh lười
biếng rất khó trị và dai dẳng, nếu không giới
luật thì không có pháp nào trị dứt được. Cho
nên, chấp nhận cuộc sống tu hành theo Phật
giáo thì giới luật là pháp môn ly dục ly ác pháp
đệ nhất.
³³³
ĐỨC PHẬT KHƠNG LÀM CHÛ NHÅN QUÂ
Câu hỏi của Thiện Nghĩa
Hỏi:Kínhthưa Thầy! Trong tập hai
Đường Về Xứ Phật, bìa xanh, mục nhân quả
trang 160 Thầy viết khi đức Phật nhập Niết
Bàn, Ngài bị đau lưng nên bảo ông Anan trải
tọa cụ để nằm nghỉ.
Đạo Phật là đạo làm chủ sanh, già, bệnh,
chết, cớ sao đức Phật lại bị đau lưng như vậy?
Khi nhập diệt đức Phật phải nhập định
ba lần xuôi ngược rồi mới nhập diệt, như vậy là
ý nghĩa gì?
Nếu kinh sách Đại Thừa nói đức Phật đau
lưng thì không thể nào được ghi vào sách của
Thầy, mong Thầy chỉ cho con hiểu.
Đáp: Trong câu này gồm có ba câu hỏi:
1- Làm chủ bệnh sao đức Phật lại bệnh
đau lưng?
2- Làm chủ chết sao đức Phật không tự
tại nhập diệt mà phải nhập định ba lần?
3- Tạo sao đoạn kinh này lại được ghi
vào sách của Thầy?
¨Như con đã biết trong kinh sách Nguyên
Thủy, đức Phật dạy phương cách làm chủ bệnh
là pháp môn Tứ Niệm Xứ. Pháp môn Tứ Niệm
Xứ là pháp môn khắc phục những sự đau khổ
của thân và tâm (Trên thân quán thân để khắc
phục tham ưu…) tức là làm chủ sanh, già, bệnh,
chết. Người cha sinh ra pháp môn ấy là đức
Phật. Thế sao đức Phật lại còn bị bệnh đau
lưng? Một điều vô lý hết sức. Giáo lý đạo Phật
có mâu thuẩn nhau không? có lường gạt người
ta không? Mà lại viết những điều này.
Ai đã viết điều này trong kinh sách
Nguyên Thủy? (Đức Phật đau lưng) Ai đã phỉ
báng đức Phật như thế này? (Nói láo). Nếu
không có Thầy thực hiện và không có các đệ tử
của Thầy tu tập pháp Tứ Niệm Xứ đẩy lui các
bệnh khổ thì ai là người minh oan cho đức
Phật và xác định Tứ Niệm Xứ là pháp môn làm
chủ sanh, già, bệnh chết thật sự. Trong khi đó ,
kinh sách Nguyên Thủy ghi chép đức Phật đau
lưng rõ ràng bằng giấy trắng mực đen.
Chúng tôi chứng nghiệm được pháp môn
Tứ Niệm Xứ đẩy lui các chướng ngại pháp trên
thân tâm nên mạnh dạn tuyên bố với các bạn:
“đoạn kinh kết tập này là sai do người sau
thêm vào để che đậy pháp môn Đại Thừa tu
hành không làm chủ bệnh”.
Hơn 25 thế kỷ trôi qua ai cũng nghĩ rằng
đức Phật chưa có làm chủ bệnh khổ. Người tu
xong đọc đến đoạn kinh này rất đau lòng và
thương cho Phật Giáo. Vì thương mình, thương
người, đức Phật phải bỏ hết sự giàu sang,
quyền thế, dục lạc thế gian, phải hy sinh cả
thân mạng để mưu cầu hạnh phúc an vui cho
mọi người. Ngài là người cha sinh ra Phật
Giáo, vậy ai nỡ nhẫn tâm viết những đọan kinh
ghép vào trong kinh sách nguyên Thủy để đánh
lừa mọi người khác, để phỉ báng đức Phật thật
là đau lòng, những kẻ ấy sẽ bị đọa xứ ác, chịu
khổ đau vô lượng.
¨Đức Phật nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền,
Tam Thiền và Tứ Thiền, nhập xuôi, nhập ngược
ba lần rồi nhập vào Tứ Thiền xả bỏ báo thân.
Đó là “thân hành di chúc” lần cuối cùng để
nhắc người đời sau: “Tứ Thánh Định mới là
chánh định, mới là thiền của Phật Giáo”.
Nhập Tứ Thánh Định, xả bỏ báo thân
cũng là xác định cho người đời sau biết: Chỉ có
bốn thiền này mới làm chủ sanh, già, bệnh,
chết, ngoài bốn thiền này không có thiền nào
làm chủ trọn vẹn bốn sự đau khổ của kiếp
người được. Các bạn nên lưu ý: những thiền của
ngoại đạo, làm chủ được cái này thì không làm
chủ được cái kia.
¨Đoạn kinh này rút ra từ trong kinh tạng
Nguyên Thủy, được ghi vào sách Đường Về Xứ
Phật, để xác định cho mọi người thấy cái sai
của những người kết tập kinh sách thường
thêm vào và bớt ra làm kinh sách nguyên gốc
của Phật giáo mất giá trị như đoạn kinh trên
đây. Trong bộ sách Văn Hóa Đường Về Xứ Phật
do Nhà Xuất Bản Văn Hóa - Thông Tin nhóm
người biên tập đã cắt bỏ đoạn kết luận của bài
Nhân Quả làm mất ý nghĩa. Xin cáo lỗi cùng
các bạn.
----&----
HẾT TẬP I
ĐƯỜNG VỀ XỨ PHẬT – TẬP I
MỤC LỤC
Thư ngỏ5
Thay lời tựa11
Lời bạt29
CHƯƠNG I: NGƯỜI CƯ SĨ ĐẾN VỚI ĐẠO PHẬT
TRƯỚC TIÊN CẦN THÔNG HIỂU39
Duyên Phật pháp40
Người tín đồ chân chánh Phật giáo44
Vị minh sư Phật giáo47
Đạo Phật là tôn giáo tự lực53
CHƯƠNG II: NGƯỜI CƯ SĨ CÓ 6 NGHỀ KHÔNG
NÊN LÀM61
Có sáu nghề ác62
Thọ dụng thực phẩm không thấy,...67
Chánh nghiệp và chánh mạng80
Niềm tin87
Đạo và đời98
Dứt bỏ những gì cần dứt bỏ108
Pháp hành122
Thoát khỏi trần lao việc chẳng thường125
Tứ niệm xứ vô lậu thánh định...137
Dứt bỏ danh lợi trong đạo143
Sống trầm lặng149
-332-
Sanh đã tận phạm hạnh mới xong158
Bốn thánh định164
CHƯƠNG III: HỎI ĐẠO169
Nhiệt tâm170
Pháp môn dẫn tâm177
Đắm nhiễm, khó tiêu, tán loạn181
Định sáng suốt189
Tỉnh thức lợi ích gì?193
Tâm bất an202
Hơi thở ngưng các hành có ngưng không?207
Lúc nào hơi thở tịnh chỉ215
Thiếu nghị lực, nhiệt tâm và ám thị222
Trạng thái hơi thở trong 4 thiền230
Tu thế nào để tâm không phi phạm hạnh234
Phạm hạnh240
Hướng tâm các hành ngưng nghỉ253
Năng khiếu267
Trí tuệ277
Mục đích chánh niệm tỉnh giác là gì?280
Trí tuệ thế gian có phải là tri kiến...285
Buồn chán khi không xả tâm được292
Nhân quả299
Tâm sắc dục303
Chánh kiến304
Đạo và đời310
Chánh trị312
Thông minh313
Triết học chủ nghĩa duy vật biện chứng314
Luật nhân quả316
Ngẫu nhiên320
Số mệnh321
Sách đạo đức323
Phá hôn trầm, thùy miên325

Đức Phật không làm chủ nhân quả328


0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!